Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Thực trạng cán cân thương mại Việt Nam sau gia nhập WTO.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.25 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
LỚP 24TC_4_T02, KHOA CƠ BẢN
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
THỰC TRẠNG CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
SAU GIA NHẬP WTO
NHÓM 4
Trương Ngọc An
Vũ Tiến Đạt
Ngô Hiền Đức
Nguyễn Thị Thanh Hường
Nguyễn Cát Tường Linh
Trương Ngọc Thanh Thanh
Nguyễn Mai Thảo
Hồ Trung Thịnh
Nguyễn Phương Thúy
TP.Hồ Chí Minh, 20/4/2010
1. MỞ ĐẦU
Thâm hụt cán cân thương mại là một vấn đề rất được quan tâm, chú trọng của
nhiều quốc gia trên thế giới, do những tác động của nó đến các cân đối vĩ mô. Có câu:
“Cuộc sống mà không có thách thức thì không gọi là cuộc sống”. Do vậy, là thành viên
mới gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam phải chấp nhận những
thách thức đặt ra của kinh tế toàn cầu, cùng với đó là sự đối mặt trước cuộc khủng hoảng
tài chính thế giới và suy giảm kinh tế.
Thách thức mà Việt Nam gặp phải hiện nay là cán cân thương mại đang rơi vào
tình trạng thâm hụt khá nghiêm trọng. Các số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy,
trong 8 năm gần đây cán cân thương mại của nước ta thường xuyên bị thâm hụt, đặc biệt
là kể từ khi gia nhâp WTO. Vì vậy, khi nghiên cứu nền kinh tế vĩ mô Việt Nam không
thể không nhắc tới vấn đề đáng quan tâm này – một bài toán khó chưa tìm ra giải pháp
toàn diện.
Đây là lí do chúng tôi nghiên cứu và chọn vấn đề này viết tiểu luận kinh tế vĩ mô.
Mục đích đặt ra là giúp hình thành khái quát về cán cân thương mại và đi sâu hơn về tình


trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam, nhằm bổ sung hiều biết phần nào và
có cái nhìn tổng quan về kinh tế vĩ mô. Đồng thời thực hành khả năng làm việc theo
nhóm, tập thể, đưa ra ý kiến, quan điểm cá nhân, học hỏi lẫn nhau.
2. NỘI DUNG
2.1 Bản chất cán cân thương mại
2.1.1 Cán cân thương mại
Cán cân thương mại của một quốc gia phản ánh khối lượng xuất nhập khẩu về
hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với các nước khác. Về mặt kinh tế, cán cân
thương mại thể hiện mối quan hệ tương quan giữa việc tăng hay giảm lượng giá trị của
một nền kinh tế nghĩa là nó phản ánh lượng tiền tăng lên hoặc giảm đi của một quốc gia
trong một thời gian nhất định.
Trạng thái của cán cân thương mại thường rơi vào 3 trạng thái. Trạng thái của cán
cân thương mại được dựa vào sự chênh lệch của giá trị giao dịch xuất khẩu và nhập
khẩu.
+ Khi mức chênh lệch là lớn hơn không, thì cán cân thương mại có thặng dư.
+ Khi mức chênh lệch nhỏ hơn không, thì cán cân thương mại có thâm hụt.
+ Khi mức chênh lệch đúng bằng không, cán cân thương mại ở trạng thái cân
bằng.
Và điều đáng nói là hầu như các nước trên thế giới đều rơi vào trạng thái thâm
hụt thương mại, đặc biệt là các nước phát triển.
Vấn đề đặt ra là liệu thâm hụt cán cân thương mại có đồng hành cùng với sự trì
trệ của GDP hay đó là dấu hiệu của một sự tăng trưởng kinh tế.
Phân tích cán cân thương mại của nước Mỹ, ta thấy rằng từ những năm 70 Mỹ
luôn công bố thâm hụt thương mại và tình trạng này gia tăng một cách nhanh chóng từ
những năm 1997. Điểm đáng chú ý là sự thâm hụt giảm đi trong suốt quá trình trì trệ
(chẳng hạn như năm 1991, một năm khủng hoảng, trì trệ thì cán cân thương mại lại
thặng dư) và tăng lên trong những giai đoạn phát triển.
Thâm hụt thương mại thường diễn ra ở nhiều nền kinh tế đang phát triển. Tuy
nhiên, nếu nền kinh tế hấp thụ vốn đầu tư tốt, đầu tư hiệu quả thì thâm hụt thương mại
cao là tiền đề cho sự tăng trưởng trong các giai đoạn phát triển tiếp theo và ngược lại.

2.1.2 Các nhân tố tác động tới cán cân thương mại
a) Nhập khẩu : có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh
hơn. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước
và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị
trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá 1 chiếc TV sản
xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá 1 chiếc TV Nhật Bản sản xuất thì người dân
có xu hướng tiêu thụ nhiều TV Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng
tăng.
b) Xuất khẩu : chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia
khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu
phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng.
c) Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng
đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc
tế. Khi VND lên giá ( tỷ giá giảm) thì sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập
khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi VND mất giá (tỷ giá tăng),
xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi.
Ngoài ra còn có các yếu tố ảnh hưởng như:
+ Các chính sách của chính phủ đối với thương mại.
+ Thu nhập của người tiêu dùng trong nước và người tiêu dùng nước ngoài.
+ Các chu kỳ kinh tế của quốc gia và thế giới.
2.1.3 Tác động của cán cân thương mại tới các biến số kinh tế
Thứ nhất, cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu
tiền tệ của một quốc gia, cụ thể là thể hiện sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so
với đồng ngoại tệ. Chẳng hạn, nếu một nước nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu nghĩa là
cung đồng tiền quốc gia đó có khuynh hướng vượt cầu trên thị trường hối đoái nếu các
yếu tố khác không thay đổi. Và như vậy, có thể suy đoán rằng, đồng tiền nước đó sẽ bị
sức ép giảm giá so với các đồng tiền khác. Ngược lại, nếu một quốc gia xuất khẩu nhiều
hơn nhập khẩu thì đồng tiền của quốc gia đó có khuynh hướng tăng giá.
Thứ hai, cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế của một quốc gia. Nếu như một nước trong nhiều năm liền bị thâm hụt thương mại

trầm trọng thì thể hiện các ngành sản xuất trong nước không có khả năng cạnh tranh
quốc tế. Và ngược lại, thặng dư cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh cao
của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp cũng cần
phải tính đến yếu tố là một số nước có chính sách hạn chế nhập khẩu (bảo hộ cao cho
khả năng sản xuất trong nước) còn xuất khẩu có thể tăng mạnh nhờ khai thác được lợi
thế như các sản phẩm thô, lao động rẻ… ở giai đoạn đầu của quá trình tự do hóa thương
mại nên có thể xảy ra tình trạng thặng dư thương mại. Nhưng tình trạng này không nên
kéo dài vì sẽ dẫn đến việc hàng hóa trong nước sẽ không có khả năng cạnh tranh với
hàng hóa quốc tế về dài hạn.
Thứ ba, tình trạng của cán cân thương mại phản ánh tình trạng của cán cân tài
khoản vãng lai và nợ nước ngoài, do đó có ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là
ảnh hưởng quan trọng nhất của cán cân thương mại tới nền kinh tế và dựa vào đó nhà
nước có thể đưa ra các chính sách để có thể điều chỉnh cán cân thương mại đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, cán cân thương mại thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế:
X – M = ( S – I ) + ( T – G )
Nếu cán cân thương mại bị thâm hụt thì điều đó thể hiện quốc gia chi nhiều hơn
thu nhập của mình cũng như tiết kiệm sẽ ít hơn đầu tư và ngược lại.
Vì những tác động to lớn của cán cân thương mại tới nền kinh tế nên các nhà kinh
tế và quản lý luôn tìm cách dự báo những cơ hội cũng như thách thức để có thể đề ra
những giải pháp thiết thực cho xuất nhập khẩu trong thời gian sắp tới từ đó giúp điều
tiết vĩ mô một cách tốt hơn.
2.2 Thực trạng và nguyên nhân
2.2.1. Thực trạng cán cân thương mại Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ kí kết vào năm 2000 và có hiệu lực vào cuối năm
2001 tạo thuận lợi cho sự gia tăng đáng kể giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam so với
giai đoạn trước đó. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cũng không ổn định.
Năm KN xuất khẩu
(tr.USD)
Tốc độ tăng

XK(%)
KN nhập khẩu
(tr.USD)
Tốc độ tăng
NK(%)
Cán cân thương
mại
2000 14.482 25,5 15.636 33,2 -1.154
2001 15.027 3,8 16.162 3,4 -1.135
2002 16.705 11,2 19.733 21,8 -3.028
2003 20.176 20,8 25.226 27,8 -5.050
2004 26.500 28,9 31.516 24,9 -5.116
2005 32.447 22,4 36.761 16,6 -4.314
2006 39.826 22,7 44.891 22,1 -5.065
Sau 3 năm gia nhập tổ chức thương mại (WTO), hoạt động ngoại thương nói
chung, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng có nhiều
thuận lợi để phát triển. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường thế
giới dễ dàng hơn, những hạn chế và rào cản thuế đối với hàng hoá Việt Nam được cắt
giảm.
Năm 2007
Năm 2007, kinh tế toàn cầu chịu nhiều ảnh hưởng bởi những biến động lớn về
giá hàng hoá, chủ yếu là do giá nguyên, nhiên liệu, nông sản, thực phẩm tăng cao liên
tục. Những biến động thất thường của giá dầu thô, giá vàng cùng với dấu hiệu suy thoái
kinh tế Hoa Kỳ, đồng đô la mất giá nhanh so với các ngoại tệ mạnh khác đã tác động
không tốt và lan tỏa tới nhiều nền kinh tế.
Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 48,4 tỷ USD tăng 21,5 % so với năm 2006 và
vượt 15,5% so với kế hoạch. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 42% và tăng
22,3%; khu vực FDI chiếm 58% và tăng 18,4%. Mặc dù đã là thành viên chính thức của
WTO, nhưng xuất khẩu trong những tháng đầu năm dường như chưa đạt mức tăng
trưởng tương xứng so với tiềm năng và cơ hội mang lại. Kết quả là xuất khẩu chỉ tăng

bình quân 22%. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ,
cao su, gạo… đều có mức tăng trưởng không cao. Lượng hàng hóa xuất khẩu tăng khá,
nhưng chưa có nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn, có khả năng bù đắp phần thiếu
hụt khi giá và lượng dầu thô xuất khẩu giảm. Chất lượng hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là
thủy sản và thực phẩm chưa thực sự ổn định, vẫn còn nhiều lô hàng bị trả lại.
Trong khi đó kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 60,8 tỷ USD tăng 35,5% so
với năm 2006, đứng thứ 41 trên thế giới.
Trong năm 2007, thị trường xuất siêu của nước ta là khu vực Mỹ, EU… nhưng
thị trường nhập siêu lại là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan…
Như vậy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong năm này là 109,2 USD với tình
hình nhập siêu lên tới 12,45 tỷ USD bằng 27,5% kim ngạch xuất khẩu. Mức nhập siêu
như thế là rất cao, vượt xa so với năm trước và cao gấp hơn hai lần so với kế hoạch, bởi
lẽ ngay cả một số sản phẩm mà trong nước có thể sản xuất được thì chúng ta vẫn phải
nhập khẩu. Đồng thời do hiệu quả và sức cạnh tranh của sản xuất trong nước chưa được
tốt nên nhiều mặt hàng không cạnh tranh được với các sản phẩm ngoại nhập.
Năm 2008
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại
nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa
năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước, từ đó cũng
ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu nước ta năm 2008.
Về xuất khẩu: Tính chung cả năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ước đạt
62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
(kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu;
khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%. Theo đánh giá của
Tổng cục Thống kê, tuy kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008 tăng khá cao so với
năm 2007 nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt
hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch
hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%.
Về nhập khẩu: Trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, cao hơn gần 3,4 lần

so với cùng kỳ năm 2007, lên tới 14,4 tỷ USD. Nhưng liên tiếp trong 7 tháng còn lại,
nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp; một trong những nguyên nhân chính là do giá hàng
nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD,
tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng
26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Nếu loại trừ yếu
tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với
năm 2007.
Như vậy, mức thâm hụt cán cân thương mại lên đến 17,5 tỷ USD, cao nhất từ
trước đến nay. Báo động đối với Việt Nam là thâm hụt cán cân thương mại đã ở mức
đỉnh điểm, đặc biệt là thâm hụt thương mại với quốc gia láng giềng Trung Quốc. Trong
tổng mức thâm hụt 17,5 tỉ USD hàng hoá của Việt Nam với thế giới thì riêng thâm hụt
với Trung Quốc đã lên tới 12 tỉ USD, tiếp đến là thâm hụt thương mại với các đối thủ
cạnh tranh là các nước ASEAN và Hàn Quốc.. chỉ thặng dư với Hoa Kỳ và EU.
Năm 2009
Do những hậu quả còn tồn đọng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2008, nên cán cân thương mại Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thâm hụt cao. Tuy
nhiên, con số thâm hụt đã giảm hơn so với năm trước.
Về quy mô xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 đạt khoảng
56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008 và bằng 87,6% kế hoạch (kế hoạch điều chỉnh
tăng 3% của Quốc hội). Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu
thô) đạt 29,85 tỷ USD, chiếm 52,8% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giảm 13,5% so
với năm 2008; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 26,7 tỷ USD, chiếm
47,2%. giảm 5,1%, so với năm 2008.
Nhập khẩu: kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2009 khoảng 68,8 tỷ USD, giảm
14,7% so với năm 2008 (năm 2008 so với 2007 tăng 28,7%), trong đó khối doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 36,1% tổng kim ngạch nhập
khẩu cả nước, giảm 10,8%; Kim ngạch nhập khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn
trong nước đạt 43,96 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm 16,8% so với năm 2008.
Năm 2009, Trung Quốc vẫn là thị trường dẫn đầu về cung cấp hàng nhập khẩu

cho nước. Tiếp theo là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia …
Với nhiều biện pháp tăng cường kiểm soát để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng
tiêu dùng không cần thiết hoặc trong nước đã sản xuất được, khối lượng một số hàng hóa
nhập khẩu năm 2009 cũng đã giảm hơn năm 2008, tuy nhiên một số loại hàng hóa khác
vẫn còn có mức nhập khẩu cao (như máy móc, thiết bị, dược phẩm, tơ sợi…). Do đó,
mặc dù giá nhập khẩu giảm nhưng kim ngạch nhập khẩu giảm chậm, dẫn đến mức nhập
siêu vẫn còn cao hơn mục tiêu đề ra.
Cán cân thương mại nước ta luôn nằm trong tình trạng thâm hụt, đặc biệt đang có
xu hướng tăng nhanh vào những năm gần đây. Và thực tế cho thấy các mặt hàng xuất
khẩu chưa có giá trị cao, giá cả cũng không ổn định. Đó là một điều đáng báo động cho
nền kinh tế nước ta.

2.2 Nguyên nhân
2.2.1 Nguyên nhân khách quan
Nhập siêu những năm gần đây (Đơn vị: tỷ USD)
1.15 1.19
3.04
5.1
5.48
4.31
5.06
12.45
17.5
12.2
0
2
4
6
8
10

12
14
16
18
20
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009

×