Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Luật phá sản của việt nam và luật phá sản của cộng hoà pháp, những nét tương đồng và khác biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.1 MB, 98 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TổNG HỢP
PANTHÉON - ASSAS PARIS II

TRƯỜNG ĐẠĨ HỌC LUẬT
o

«

*

HÀ NỘI

AN PHƯƠNG HUỆ

LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ LUẬT PHÁ SẢN CỦA
®

t

*

CỘNG HÒA PHÁP
NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỔNG VÀ KHÁC BỈỆT

LUẬN VÃN THẠC SỶ LUẬT




HÀ NỘI - NÀM 2004




eọc



TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TổN G HỢP
PANTHÉON - ASSAS PARIS II

AN PHƯƠNG HUỆ

LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ LUẬT PHÁ SẢN CỦA
CỐNG
HOÀ PHÁP.

NHŨNG NÉT TUUNG ĐỔNG VÀ KHÁC BIỆT.

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã sô: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS Dương Đăng Huệ

GS. Hervé LECUYER


THƯ VIF.H
ĨPUỜNG0.^ HOC!AỊATHANOI
ỊPHONGGV

532--

HÀ NỘI - NĂM 2004


Lời cảm ơn

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Dương Đăng Huệ, GS.
Hervé Lecưyer, các thầy giáo, cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã tận
tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

rrt ỵ

‘ 7

Tác giá

An Phương Huệ


MỤC LỤC

Tranị
PHẦN MỞ ĐẦU

1


Chương I.

7

1.1.

Những vấn đé lý luận vê phá sản và pháp luật phá sản.
Phá sản và pháp luật về phá sản.

7

1.1.1.

Phá sản.

7

1.1.2.

Lịch sử pháp luật phá sản.

8

1.1.3.

Pháp luật phá sản.

13


1.2.

N hững yếu tố ảnh hưởng đến nội dung của Luật Phá sản.

15

1.2.1.

Tính chất của nền kinh tế.

15

1.2.2.

Trình độ phát triển của nền kinh tế.

17

1.2.3.

K hả năng làm chủ của các nhà doanh nghiệp trong việc

18

giải quyết các công việc của m ình.
1.2.4.

Chương I I .

H ội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.


Những nội dung cơ bản của Luật Phá sản của Việt Nam, có


18

20

sự so sánh vói Luật Phá sản của Cộng hoà Pháp.
2.1.

Đ ối tượng áp dụng của L uật Phá s ả n . .

20

2 .2 .

C ăn cứ mở thủ tục phá sản.

24

2.3.

Các chủ thể tham gia tố tụng phá sản.

27

2.3.1.

N gười có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên b ố phá sản.


28

2.3.2.

T oà án.

36

2.3.3.

H ội nghị chủ nợ.

43

2.3.4.

T ổ quản lý, thanh lý tài sản.

46

2.3.5.

Con nợ.

50

2.4.

Tài sản phá sản.


53

2.5.

T rình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.

54


2.5.1.

Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

57

2.5.2.

Họp hội nghị chủ nợ.

66

2.5.3.

Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh.

68

2.5.4.


Thủ tục thanh lý tài sản.

73

2.5.5.

Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.

77

26

Thủ tục rút gọn trong Luật Phá sản của Cộng hoà Pháp.

78

2.7.

Giải quyết khiếu nại, kháng nghị.

78

m

Một vài kiến nghị góp phần triển khai thi hành Luật

83

Chương


Phá sản ở Việt Nam.
3.1.

Ban hành các vãn bản hướng dẫn thi hành.

3.2.

Đào tạo kiến thức pháp lý và kinh tế về phá sản cho Thẩm

84
87

phán và nhân viên quản lý tài sản.
3.3.

Thúc đẩy việc hình thành tổ chức phi chính phủ của

88

những người quản lý tài sản.

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


1

PHẦN MỞ ĐẨU


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Phá sản trong nền kinh tế thị trường là hiện tượng tất yếu của quá trình
cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên để loại bỏ các doanh nghiệp yếu
kém, khẳng định sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ đại hội Đảng VI năm 1986
đến nay, nền kinh tế nước ta đã có một sự chuyển hướng lớn đó là sự chuyển
hướng từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Điều
15 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã ghi
nhận: "Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần vói các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh
đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong
đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng". Có thể nói, đây là sự ghi
nhận về mặt pháp lý thể hiện sự đổi mới tư duy kinh tế phù hợp vói thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu đó, một vấn đề khách
quan đặt ra là phải cải cách bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật cho phù hợp
với cơ chế quản lý kinh tế mới. Luật Phá sản Doanh nghiệp được ban hành
năm 1993 là m ột trong những nỗ lực to lớn của Nhà nước ta nhằm thực hiện
công cuộc cải cách đó.
Do điều kiện kinh tế xã hội các nước khác nhau nên pháp luật về phá
sản cũng có những quy định khác nhau. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh, vai trò
của Toà án, Hội nghị chủ nợ, cơ chế thi hành quyết định tuyên bố phá sản....
được quy định trong luật phá sản của các nước khác nhau là khác nhau.
Tuy nhiên, do bản chất pháp lý của phá sản là thủ tục đòi nợ đặc biệt
của các chủ nợ, theo đó, Toà án ra quyết định tuyên bố một thương nhân bị


2


mất khả năng thanh toán nợ đến hạn rồi nhân cơ hội đó mà bán toàn bộ tài sản
của con nợ để trả nợ cho các chủ nợ theo một tỷ lệ nhất định nên pháp luật về
phá sản của các nước cũng phải có những nét chung thống nhất với nhau
không phân biệt nó được xây dựng ở quốc gia nào.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Các luật, bộ luật dần dần được sửa đổi, bổ sung, thay thế cho
phù hợp vói tình hình kinh tế - xã hội mới. Luật Phá sản được thông qua ngày
15 tháng 6 năm 2004 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XI. Luật Phá sản năm
2004 được xây dựng dựa trên cơ sở tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam,
đồng thời còn căn cứ vào những thành tựu của các nước đi trước trong quá
trình xây dựng, ban hành và thực thi Luật Phá sản. Cộng hoà Pháp là một quốc
gia có nền kinh tế thị trường phát triển, có quan hệ kinh tế, ngoại giao gần gũi
với Việt Nam trong quá khứ và hiện tại. Luật Phá sản của Cộng hoà Pháp cũng
như kinh nghiệm xây dựng Luật của họ được chúng ta tham khảo rất nhiều
trong quá trình xây dựng Luật Phá sản năm 2004, do vậy được rất nhiều người
quan tâm. Cũng chính vì lý do đó, tôi chọn đề tài "Luật Phá sản của Việt Nam
và Luật Phá sản của Cộng hoà Pháp - Những nét tương đổng và khác biệt" làm
đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cao học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Luật Phá sản năm 2004 ngay từ khi mới được thông qua cũng như khi
đang trong quá trình soạn thảo đã được các luật gia, các doanh nhân quan tâm,
song chủ yếu chỉ được đề cập dưới dạng các bài viết, trao đổi về một số vấn đề
trong nội dung của Luật Phá sản cũng như các thuật ngữ pháp lý được dùng
trong đó. Có thể kể đến một số bài viết như: "Phương hướng và nội dung cơ
bản của Dự án Luật Phá sản" của tác giả Ngô Cường, Phó Viện trưởng Viện
Khoa học xét xử - Toà án nhân dân tối cao; “Về Dự thảo 9 Luật Phá sản” của
PGS.TS Dương Đăng Huệ và Cao Đăng Vinh đăng trên tạp chí Nghiên cứu



3

Lập pháp (Văn phòng Quốc hội) số 4 tháng 4 năm 2004; “Giới thiệu nội dung
Luật Phá sản (sửa đổi)” của PGS.TS Dương Đăng Huệ đăng tại Kỷ yếu
Chương trình tập huấn bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho các doanh nghiệp
thuộc Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp - Bộ Tư pháp, tháng 6 năm 2004
....Tuy nhiên, do Luật mới được thông qua nên các bài viết, nghiên cứu chỉ đề
cập đến một số khía cạnh của Luật. Đặc biệt là, cho đến nay chưa có công
trình khoa học nào tập trung nghiên cứu, so sánh Luật Phá sản của Việt nam
với Luật Phá sản của các nước khác, trong đó có Cộng hòa Pháp. Đề tài: "Luật
Phá sản của Việt Nam và Luật Phá sản của Cộng hoà Pháp - Những nét tương
đồng và khác biệt” là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu, so sánh Luật
Phá sản của Việt Nam với Luật Phá sản của một nước ngoài là Cộng hòa Pháp.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Qua việc nghiên cứu đề tài "Luật Phá sản của Việt Nam và Luật Phá
sản của Cộng hoà Pháp - Những nét tương đổng và khác biệt" chúng tôi muốn
chứng minh rằng, pháp luật của các nước khác nhau là không thể giống nhau
vì bản thân pháp luật với tư cách là cái được phản ánh, cái thuộc kiến thức
thượng tầng luôn luôn bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế - xã hội của từng
nước. Luật Phá sản, vói tư cách là một lĩnh vực pháp luật cụ thể cũng không
thể nằm ngoài quy luật đó.
Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu sự tiến triển của Luật Phá sản của Việt Nam và Luật Phá
sản của Cộng hoà Pháp.
- Phân tích nội dung Luật Phá sản của Việt Nam và Luật Phá sản của
Cộng hoà Pháp, từ đó chỉ ra những nét tương đổng và khác biệt giữa hai Luật
và lý giải tại sao lại có những sự khác biệt này.
- Đề xuất phương hướng hoàn thiện Luật Phá sản Việt Nam trên cơ sở

kinh nghiệm của Pháp và một số nước trên thế giới.


4

4. Phạm vi nghiên cứu:
Luật Phá sản Doanh nghiệp được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ
họp thứ 4 ngày 30 tháng 12 năm 1993 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01
tháng 7 năm 1994. Qua gần 10 năm thi hành, đạo luật này đã phát huy vai trò
nhất định trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo vệ trật
tự kỷ cương xã hội. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật Phá sản Doanh
nghiệp còn bộc lộ nhiều bất cập, khiếm khuyết. Để khắc phục những tồn tại
này, ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội đã thông qua Luật Phá sản mới và
sẽ có hiệu lực từ ngày 15 tháng 10 năm 2004.
ở Cộng hòa Pháp, các quy định về phá sản và giải quyết phá sản đã
hình thành từ lâu, bắt đầu từ Bộ luật Thương mại năm 1807. Đến nay, qua
nhiều lần sửa đổi, bổ sung, pháp luật về phá sản của Cộng hòa Pháp đã có
nhiều tiến bộ, đáp ứng yêu cầu giải quyết phá sản của một quốc gia có trình
độ phát triển cao trên thế giới. Do tính phức tạp của vẩn đề và do điều kiện
nghiên cứu, nhất là khả năng ngoại ngữ và nguồn tài liệu tiếng pháp nên đề tài
không có điều kiện đi sâu nghiên cứu một cách trọn vẹn, đầy đủ về các quy
định trong pháp luật phá sản của Cộng hòa Pháp. Vì vậy, luận văn chỉ sẽ
nghiên cứu những vấn đề cơ bản của Luật Phá sản trong tiến trình phát triển từ
Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993 đến Luật Phá sản năm 2004, đồng thời
so sánh với Luật Phá sản của Cộng hoà Pháp trên những vấn đề có tính
nguyên tắc mà thôi. Tóm lại, do tính chất phức tạp của vấn đề với khuôn khổ
luận văn thạc sỹ cao học luật, luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản
nhất của Luật Phá sản năm 2004 có so sánh vói Luật Phá sản của Cộng hoà
Pháp và chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt, đồng thời lý giải tại sao lại
có được những nét tương đổng và khác biệt cơ bản đó giữa pháp luật phá sản

của hai nước.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:


5

Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn đặt các vấn đề nghiên cứu trong
sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, trong mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở kinh tế và pháp luật, đồng thời căn cứ vào các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Để hoàn thành luận văn tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu khoa học cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp luật học so sánh.

6. Các kết quả mới của luận văn.
Vấn đề Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993 đã được nghiên cứu trong
nhiều công trình khoa học. Luật Phá sản mới được ban hành trên cơ sở kế thừa
những quy định hợp lý của Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993 và thực tiễn
sản xuất kinh doanh cũng như các điều kiện kinh tế - xã hội mổi của nước ta
hiện nay. Luận văn cũng đã tiến hành nghiên cứu những điểm mới cơ bản của
Luật Phá sản mói (năm 2004) có so sánh vói các quy định tương tự của pháp
luật phá sản của Cộng hòa Pháp. Sau đây là những đóng góp mới của luận
văn:
- Thứ nhất, luận văn đã nêu được sự tiến triển của Luật Phá sản của Việt
Nam từ năm 1993 đến nay.
- Thứ hai, luận văn đã phân tích được nội dung cơ bản Luật Phá sản của
Việt Nam có sự so sánh với Luật Phá sản của Cộng hoà Pháp, qua đó chỉ ra
những nét tương đồng và khác biệt trong giữa ha- Luật và lý giải tại sao có sự

khác biệt đó.
- Thứ ba, luận văn đã mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị nhằm đưa
Luật Phá sản vào cuộc sống.

7. Kết cấu của luận văn:


6

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương ỉ: Những vấn đề lý luận về phá sản và pháp luật phá sản.
Trong chương này tác giả giới thiệu những nét cơ bản về phá sản và
pháp luật về phá sản đồng thời nêu những yếu tố ảnh hưởng đến nội dung Luật
Phá sản như: tính chất của nền kinh tế, trình độ phát triển của nền kinh tế, khả
năne làm chủ của các nhà doanh nghiệp trong việc giải quyết các công việc
của mình, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Chương //: Những nội dung cơ bản của Luật Phá sản của Việt Nam, có
sự so sánh với Luật Phá sản của Cộng hoà Pháp.
Trong chương này, tác giả tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Đối tượng áp dụng của Luật Phá sản.
- Điều kiện mở thủ tục phá sản.
- Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố tụng phá sản.
- Tài sản phá sản.
- Thủ tục giải quyết phá sản.
Chương III: Một số kiến nghị góp phần triển khai thi hành Luật Phá sản
ở Việt Nam.
Trong chương này tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm đưa Luật Phá
sản vào cuộc sống như:
- Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Đào tạo kiến thức pháp lý và kinh tế về phá sản cho Thẩm phán và

nhân viên quản lý tài sản.
- Thúc đẩy việc hình thành tổ chức phi chính phủ của những người quản
lý tài sản.


CHƯƠNG I
NHŨNG VẪN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN.

1.1.

PH Á SẢN V À PHÁP LUẬT VÊ PHÁ SẢN.

1.1.1. Phá sản:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực, m ục đích
của các chủ thể kinh doanh. Với mục đích thu được lợi nhuận m ột cách tối đa
các chủ thể kinh doanh phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của m ình như
vốn, nhân lự c...cũ n g như ứng dụng công nghệ mới để có thể giảm chi phí và
giá thành sản phẩm . M ặt khác, để đáp ứng ngày càng tốt hơn thị hiếu và nhu
cầu của của người tiêu dùng, các chủ thể kinh doanh phải nắm bắt được thị
hiếu và nhu cầu đó thông qua sự đổi mới thường xuyên và liên tục từ sản
phẩm dịch vụ cung ứng đến phương thức quản lý và giao tiếp với khách hàng.
K hi m ột doanh nghiệp không còn đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe,
nghiệt ngã của thương trường, doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải. Cơ chế đào thải
những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, m ất khả năng thanh toán những
khoản nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả và rủi ro
của những doanh nghiệp này là phá sản.
N hư vậy, trong nền kinh tế thị trường, phá sản là hiện tượng tất yếu của
quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên để loại bỏ các doanh
nghiệp yếu kém , khẳng định sự tổn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả.

D anh từ phá sản bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng La - tinh, có nghĩa
là sự “khánh tận ” . Khái niệm này dùng để chỉ tình trạng m ất cân đối giữa thu
và chi của m ột chủ doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp của sự m ất cân đối ấy
là tình trạng m ất khả năng thanh toán nợ đến hạn (insolvency) [11,tr 337].
Dấu hiệu m ất khả năng thanh toán là dấu hiệu đặc trưng, cơ bản để xác


8

định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Việc định nghĩa sự mất khả
năng thanh toán ở mỗi quốc gia có luật phá sản là khác nhau. Ví dụ, Luật Phá
sản của một số nước quy định vấn đề này như sau:
Luật phá sản của Nhật bản quy định: Khi khoản nợ của công ty vượt
quá tài sản của nó, thì được phép nói rằng công ty đó không có khả năng
thanh toán nợ.
Luật không có khả năng thanh toán và Luật treo giò giám đốc công ty
của Anh ban hành năm 1986 quy định: Các doanh nghiệp có giá trị tài sản
thấp hơn số nợ phải trả đều coi là mất khả năng thanh toán.
Luật Phá sản của Cộng hòa Pháp, trước năm 1985, định nghĩa một
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ khi tất cả tiền tệ và tài sản sẵn có
của doanh nghiệp không đủ để trả nợ. Luật phá sản ngày 25-1-1985 không
định nghĩa rõ sự mất khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp. Điều 3 Luật
này quy định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn bằng những
tài sản sẵn có của mình thì sẽ áp dụng thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản.

1.1.2. Lịch sử pháp luật phá sản:
Lịch sử pháp luật phá sản trên thế giói ghi nhận rằng, Luật Phá sản lần
đầu tiên xuất hiện ở Italia, từ thời La Mã. Vì ở thời La M ã những thương nhân
không trả được nợ thường bị bắt làm nô lệ, rồi đem bán, lấy tiền khấu vào nợ
nên Luật Phá sản chỉ áp dụng cho các thương nhân. Thòi đó, nhiều con nợ

không trả được nợ thì tìm cách bỏ trốn. Để ổn định trật tự xã hội, Nhà nước La
Mã phải đứng ra cưỡng chế tài sản của con nợ để trả cho chủ nợ. Tuy nhiên,
đây không phải là giải pháp tối ưu. Bởi vì, trong trường hợp con nợ chỉ phải trả
cho một chủ nợ, và có đủ tài sản để trả nợ thì có thể áp dụng cách này, còn
trong trường hợp nếu con nợ đồng thòi phải trả cho nhiều chủ nợ và không đủ
tài sản để trả nợ thì rất dễ xảy ra tranh chấp. Dần dần người ta thấy rằng để
các chủ nợ đều được bảo đảm trả nợ một cách công bằng, hợp lý thì Tòa án


địa phương nơi cư trú của con nợ sẽ đứng ra quản lý số tài sản của con nợ, rồi
phân chia số tài sản đó tùy theo vốn, lãi của mỗi người. Giải pháp này được
các chủ nợ đồng tình và tỏ ra có hiệu quả. Chế định này được hoàn chỉnh và
đã nâng lên thành L uật Phá sản của thời La M ã cổ đại.
Thời trung cổ, các quốc gia Châu âu cũng đã ban hành Luật Phá sản.
Lúc đầu Luật này chỉ được áp dụng trong lĩnh vực hoạt động thương nghiệp,
sau đó được m ở rộng ra nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh.
N ăm 1542 vua H enry VIII nước Anh ký ban hành Luật Phá sản. Đ ây là
L uật Phá sản đầu tiên của A nh và được áp dụng trong nhiều th ế kỷ. Luật này
được áp dụng làm cho nhiều con nợ bị tù.
N ăm 1905, N am Tư ban hành Luật Phá sản. Theo luật này, giữa các chủ
nợ và con nợ không đạt được sự hòa giải thì được giải quyết bằng cưỡng chế.
Dẩn dần, tùy theo tình hình phát triển kinh tế, m ỗi quốc gia đều ban
hành L uật Phá sản phù hợp với điều kiện kinh tế của nước mình. N ăm 1923,
L iên X ô ban hành Bộ luật T ố tụng dân sự trong đó có nội dung về chế định
phá sản. Luật Phá sản của ú c được ban hành năm 1966, Thụy Đ iển năm 1972,
của M ỹ năm 1978, của Ba Lan năm 1983, của Singapore năm 1985, của
H ungari, của A nh và của Trung Q uốc năm 1986.
Pháp luật phá sản của Cộng hoà Pháp có lịch sử phát triển lâu đời. Bộ
luật thành văn đầu tiên có quy định vấn đề phá sản đó là Bộ luật Thương mại
Pháp năm 1807. T rong đó quyển III dành riêng cho ch ế định phá sản. Những

quy định pháp luật cơ bản trong quyển III Bộ luật Thương mại này chủ yếu là
nhằm trừng phạt con nợ và bảo vệ quyền lợi của chủ nợ. Lúc này, phá sản
được coi là một tội hình sự và do đó chế tài phạt tù đã được áp dụng đối với
doanh nhân đã đưa doanh nghiệp và tình trạng phá sản. Sau đó Luật Phá sản
được sửa đổi nhiều lần vào các năm 1955, 1967, 1984, 1985, 1994. Trước năm
1967, m ở thủ tục phá sản đổng nghĩa với thanh lý doanh nghiệp. Trong Luật
năm 1967, lần đầu tiên thủ tục phục hổi được chú trọng, có nghĩa là doanh


10

nghiệp sẽ được tìm cách phục hổi hoạt động kinh doanh trước khi ra quyết
định thanh lý. L uật này có hiệu lực đến năm 1986. Luật năm 1967 quy định
thanh toán tư pháp và thanh lý tài sản của thương nhân, pháp nhân nhưng
không áp dụng đối với thợ thủ công cũng như nông dân. Tuy Luật năm 1967
có những cải cách m ang tính đột phá nhưng những quy định trong Luật này
không phù hợp với tình hình kinh tế, do vậy hơn 90% các trường hợp mở thủ
tục đều dẫn đến phá sản [18, tr 343]. Và người ta nói về Luật năm 1967
là:"Luật Phá sản đã bị phá sản". Luật năm 1984 quy định về các biện pháp
phòng ngừa và các quy định thoả thuận về những khó khăn của doanh nghiệp.
Luật năm 1985, tiếp tục phát triển trên xu hướng của L uật năm 1967 và phục
hồi doanh nghiệp được đưa vào thành nguyên tắc, theo đó m ọi thủ tục giải
quyết phá sản doanh nghiệp phải được bắt đầu bằng những cố gắng phục hồi
doanh nghiệp và chỉ m ở thủ tục thanh lý doanh nghiệp khi các biện pháp phục
hồi đã bị thất bại. L uật năm 1994 bảo tồn tất cả tinh thần chung của Luật năm
1985 và có quy định thêm m ột số vấn đề theo xu hướng tăng cường các biện
pháp phòng ngừa bằng những quy định thoả thuận và tăng cường bảo vệ chủ
nợ. Các luật năm 1984, 1985, 1994 được gộp lại trong quyển VI Bộ luật
Thương mại mới m ang tên "Những khó khăn của doanh nghiệp" và hiện nay
đang có hiệu lực.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, việc giải quyết
Inhững vấn đề liên quan đến m ột doanh nghiệp không còn bó hẹp trong biên
;giới m ột quốc gia. Sự khác nhau về nguyên tắc trong pháp luật phá sản đã gây
không ít khó khăn đối với các nhà kinh doanh. Các nước đã có bàn đến các
nguyên tắc chung của L uật Phá sản nhưng cho đến nay vẫn chưa có Luật Phá
lả n chung. Đây là hộ quả tất yếu khách quan, bởi vì pháp luật nói chung cũng
ihư Luật Phá sản nói riêng còn chịu ảnh hưởng của các đặc điểm về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội... của mỗi quốc gia.


11

Phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp. Để giải quyết vấn
đề phá sản cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề như: lợi ích hợp pháp của chủ
nợ, lợi ích hợp pháp của con nợ, quyền lợi của người lao động,... Do tình hình
kinh tế - xã hội thay đổi nên trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của
các quốc gia thì pháp luật phá sản cũng được cải tiến và sửa đổi cho phù hợp
với sự thay đổi đó. Pháp luật phá sản hiện đại từ những năm 70 trở lại đây đã
có những bước cải tiến và hiện đại hóa không phải nhằm mục đích đưa các
doanh nghiệp “mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn” vào tình trạng
phá sản mà giúp các bên liên quan giảm tối thiểu tác động tiêu cực do việc
phá sản gây ra đối với họ. Pháp luật phá sản đề ra những biện pháp tích cực
nhằm giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản, tổ chức, cơ cấu lại
những doanh nghiệp quá yếu kém mà hoạt động của các doanh nghiệp này có
ảnh hưởng không tốt tới hoạt động của các doanh nghiệp khác cũng như cản
trở sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
Ở Việt Nam, pháp luật phá sản đã có từ thời thực dân Pháp đô hộ, luật
này chủ yếu được áp dụng ở miền Nam, nhưng cũng rất ít được áp dụng. Cũng
như các nước thuộc địa khác, pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng của hệ
thống pháp luật thực dân. Những quy định về khánh tận, thanh toán tư pháp đã

có trong Bộ luật Thương mại Sài Gòn năm 1972. Tuy nhiên, do điều kiện kinh
tế xã hội chưa phát triển, hoạt động kinh doanh không phổ biến, các khế ước
mua bán, vay nợ ít nhiều đều liên quan đến ruộng đất nên cách giải quyết vỡ
nợ đều gắn liền với quan niệm sống của người dân như khi cha mẹ mắc nợ thì
có quyền đòi nợ ở con, người mắc nợ bị bắt ở đợ để làm công trả nợ, bắt giữ
đồ đạc của con nợ hoặc giam giữ con nợ. Bởi vậy, khi các đạo luật phá sản
theo mô hình Phương Tây khi du nhập vào nước ta đều không mang lại hiệu
quả cao.
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước nắm độc quyền
mọi hoạt động kinh doanh cơ bản. Các hoạt động kinh doanh đều chỉ dựa vào


12

chỉ tiêu kế hoạch từ cấp trên đưa xuống. Hoạt động kinh doanh do Nhà nước
quản lý và điều tiết, có lãi thì nộp vào ngân sách Nhà nước, nếu lỗ thì có bù
đắp của Nhà nước, do đó, hầu như không có động lực phát triển kinh doanh và
sự cạnh tranh không được đặt ra. Hoạt động kinh doanh khống hiệu quả được
giải quyết bằng mệnh lệnh hành chính hoặc chia, sáp nhập, giải thể doanh
nghiệp....Từ nguyên nhân đó, vấn đề phá sản hoàn toàn không được đặt ra
trong cơ chế cũ. Từ sau Đại hội Đảng VI năm 1986, chúng ta thực hiện chủ
trương xóa bỏ cơ chế tập trang, quan liêu, bao cấp, xây dựng một nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, hoạt động theo các
quy luật kinh tế chủ yếu của nền kinh tế thị trường. Sự chuyển đổi cơ chế quản
lý đó làm xuất hiện các hiện tượng kinh tế không tồn tại trong nền kinh tế tập
trung, quan liêu, bao cấp. Một trong những hiện tượng kinh tế mới, đó là phá
sản.
Mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành pháp luật phá sản Việt Nam là
Luật Phá sản Doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực thi hành từ ngày

1 tháng 7 năm 1994. Pháp luật phá sản Việt Nam được ra đời trong thời kỳ
Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình đổi mới khi chúng ta hầu như
chưa có kinh nghiệm gì trong việc giải quyết phá sản nên nội dung của Luật
Phá sản Doanh nghiệp năm 1993 nhìn chung còn nhiều nhược điểm.
Sự ra đcd của Luật Phá sản Doanh nghiệp ở nước ta tuy muộn hơn so với
các nước trong khu vực và trên thế giới nhưng đã đóng vai trò quan trọng
trong quá trình hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ
của doanh nghiệp, từng bước bảo đảm trật tự kỷ cương trong lĩnh vực tài
chính, lành mạnh hoá môi trường kinh doanh, đồng thời góp phần thực hiện
mục tiêu xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế thời kỳ
đổi mới của nước ta.


13

Tuy nhiên, qua hơn 10 năm thực hiện Luật Phá sản Doanh nghiệp, số
lượng các doanh nghiệp được giải quyết theo thủ tục phá sản doanh nghiệp là
rất thấp, chưa phản ánh chính xác số lượng doanh nghiệp lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán nợ trên thực tế.
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng có lẽ quan trọng
nhất là do Luật Phá sản doanh nghiệp còn có những nội dung chưa phù hợp
với thực tế nên chưa đi vào cuộc sống. Thực tiễn thi hành Luật Doanh nghiệp
năm 1993 cho thấy quy định của Luật Phá sản Doanh nghiệp và các văn bản
hướng dẫn thi hành còn chưa đầy đủ, thiếu nhiều nội dung cần thiết, một số
quy định lại quá cứng nhắc, không phù hợp với thực tế, thậm chí có nhiều quy
định còn mâu thuẫn với những quy định của các văn bản pháp luật liên quan.
Những hạn chế này đã gây không ít khó khăn vướng mắc cho các cơ quan có
thẩm quyền trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiêp.
Trong quá trình thực thi, Luật Phá sản Doanh nghiệp đã bộc lộ nhiều
điểm bất cập. Do vậy, việc ban hành một Luật Phá sản mới là một yêu cầu

thực tế đạt ra và đã được đưa vào chương trình làm luật của Quốc hội. Sau quá
trình soạn thảo và góp ý kiến, Luật Phá sản mói đã được thông qua ngày 15
tháng 6 năm 2004 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XI, và sẽ có hiệu lực ngày
15 tháng 10 năm 2004. Luật này được ban hành trên cơ sở sửa đổi Luật Phá
sản Doanh nghiệp và bổ sung những quy định còn thiếu nhằm tạo hành lang
pháp lý an toàn cho các doanh nghiệp hoạt động. Trong thời gian tới, các văn
bản hướng dẫn thi hành sẽ được ban hành nhằm đưa Luật Phá sản vào cuộc
sống.

1.1.3. Pháp luật phá sản:
Pháp luật phá sản là một bộ phận của pháp luật kinh tế và có mối quan
hệ chặt chẽ với các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật dân sự, pháp luật
thương mại, pháp luật về doanh nghiệp...


14

Pháp luật phá sản có phạm vi điều chỉnh ngày càng rộng. Trước đây,
pháp luật phá sản chỉ áp dụng cho thương nhân, ngày nay cho cả đối tượng
không phải là thương nhân (phá sản người tiêu dùng như luật phá sản của Nga,
Nhật hay phá sản thợ thủ công, nông dân như luật phá sản của Cộng hoà
Pháp). Trước đây, pháp luật phá sản chỉ giải quyết một vấn đề đó là vấn đề
thanh toán tài sản của con nợ. Khi Toà án xác định con nợ lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn thì tuyên bố phá sản ngay rồi
nhân cơ hội đó mà thanh lý tài sản của con nợ chia cho chủ nợ. Ngày nay, thái
độ của Nhà nước đối với con nợ đã khác (nhân đạo hơn vì Nhà nước đã coi
thất bại trong kinh doanh là việc khó tránh khỏi, do đó, không thể quá khắt
khe đối với họ, nên về mặt pháp luật đã có sự thay đổi đáng kể. Điều này thể
hiện ở chỗ, trong luật phá sản hiện đại, ngoài thủ tục thanh lý truyền thống
còn có thủ tục mới là thủ tục phục hổi. Mục đích của thủ tục này là tạo cơ hội

cho doanh nghiệp theo phương châm “còn nước còn tát” và Toà án chỉ tuyên
bố phá sản khi đã không còn khả năng cứu giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình
trạng mất khả năng thanh toán mà thôi.
Tóm lại, pháp luật phá sản không bao giờ đứng yên một chỗ mà luôn
luôn phát triển cùng với những thay đổi trong đời sống kinh tế - xã hội của các
quốc gia. Tuy nhiên, nhìn chung bất luận ra đời ở quốc gia nào thì Luật Phá
sản cũng phải quy định về những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc sau đây:
- Ai có thể bị tuyên bố phá sản;
- Ai có thể làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản;
- Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết việc phá sản;
- Tình trạng phá sản là gì;
- Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi và thủ tục thanh lý tài sản;
- Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản (Toà án,
Hội nghị chủ nợ, nhân viên quản lý tài sản, con nợ...);
- Trình tự, thủ tục giải quyết một vụ phá sản;


15

- Tài sản phá sản gồm những gì;
- Cơ chế bảo vệ tài sản của con nợ;
- Thứ tự ưu tiên thanh toán...
Trên cơ sở phân tích các nội dung cơ bản của Luật Phá sản, có thể nêu
ra một định nghĩa như sau về pháp luật phá sản: Pháp luật phá sản là toàn bộ
các quy phạm pháp luật quy định về điều kiện mở thủ tục phá sản, điều kiện
áp dụng thủ tục phục hổi hoặc thủ tục áp dụng thủ tục thanh lý doanh nghiệp,
quy định trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản cũng như thi
hành quyết định tuyên bố phá sản, về địa vị pháp lý và mối quan hệ giữa các
chủ thể tham gia tố tụng phá sản và các vấn đề khác phát sinh trong quá trình
giải quyết vụ việc phá sản.

Tuỳ theo pháp luật từng nước mà pháp luật phá sản có nguồn khác
nhau. Pháp luật phá sản của Việt Nam bao gồm những văn bản quy phạm
pháp luật, còn pháp luật phá sản của Cộng hoà Pháp bao gồm những văn bản
quy phạm pháp luật và án lệ về giải quyết phá sản.

1.2.

NHŨNG YẾU TỐ ẢNH HUỞNG ĐẾN

n ộ i d u n g c ủ a luật

PHÁ SẢN.

1.2.1. Tính chất của nền kinh tế:
Trong quan hệ với kinh tế thì pháp luật là cái được phản ánh, là cái phụ
thuộc. Luật Phá sản cũng vậy, bản thân nó luôn luôn bị chi phối bởi hoàn cảnh
kinh tế - xã hội cụ thể của từng nước. Đây là lý do giải thích tại sao bên cạnh
những quy định chung, có tính chất thống nhất, trong pháp luật về phá sản của
các nước tồn tại rất nhiều điểm khác biệt. Vậy, những yếu tố có khả năng tác
động đến nội dung của Luật Phá sản là gì? Trong luận văn này chúng tôi xin
nêu ra một trong số các yếu tố ấy.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, hệ thống pháp luật thuộc
kiến trúc thượng tầng do hệ thống kinh tế quyết định. Hệ thống pháp luật được


16

hình thành và phát triển để phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế và các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trên thế giới hiện nay, nhìn chung tổn tại hai hệ thống kinh tế khác

nhau về bản chất là kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch hoá. Trong nền kinh
tế kế hoạch hoá, các vấn đề pháp luật về phá sản hay chống cạnh tranh không
được đặt ra, bởi ở đó mọi hoạt động kinh tế đều chịu sự điều tiết của Nhà nước
theo kế hoạch đã được định ra, không có sự cạnh tranh và do đó không có phá
sản.
Nền kinh tế của Việt Nam trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
năm 1986 cũng là nền kinh tế kế hoạch hoá. Mọi nhu cầu chủ yếu trong đời
sống của người dân cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh đều chịu sự điều
tiết của Nhà nưóc. Các doanh nghiệp hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nưóc,
nếu kinh doanh thua lỗ, Nhà nước sẽ can thiệp bằng các biện pháp hành chính
như chia, sáp nhập các doanh nghiệp, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp....Do
vậy, trong nền kinh tế kế hoạch, vấn đề phá sản không được đặt ra, và đương
nhiên cũng không tổn tại pháp luật về phá sản.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Nhà nước ta chủ
trương chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ sự chuyển đổi này, nhiều vấn đề kinh tế
mới nảy sinh. M ột yêu cầu đặt ra là cần có hệ thống pháp luật điều chỉnh
những ván đề mới phát sinh trong nền kinh tế. Từ khi có Luật Công ty năm
1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, môi trường kinh doanh của
chúng ta được m ở rộng thông thoáng, thuận lợi hơn rất nhiều. Đặc biệt là khi
có Luật Doanh nghiệp năm 1999, môi trường kinh doanh thật sự được cải
thiện, nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời tạo môi trường cạnh tranh đích
thực. Cạnh tranh chính là quy luật của nền kinh tế thị trường. Chúng ta xây
dựng nền kinh tế thị trường có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận những thuộc
tính của nó, trong đó có thuộc tính cạnh tranh - nguyên nhân sâu xa của tình


17

trạng phá sản và pháp luật về phá sản. Trong môi trường ấy, những doanh

nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tồn tại, còn những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
sẽ bị loại bỏ. Và pháp luật về phá sản doanh nghiệp ra đời nhằm đáp ứng yêu
cầu “thoát khỏi thị trường” của những doanh nghiệp đẫ không chịu được sức
ép "thương trường là chiến trường”.
Pháp là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển do vậy, Pháp có hệ
thống pháp luật về phá sản tương đối ổn định và phát triển. Trong tiến trình
xây dựng nền kinh tế thị trường và hoàn thiện pháp luật, chúng ta cần học tập,
tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quý giá của các nước đã rất thành công trong
lĩnh vực này trong đó có Pháp.

1.2.2. Trình độ phát triển của nền kinh tế:
Nếu như nền kinh tế thị trường đã quyết định sự ra đời của pháp luật về
phá sản thì trình độ phát triển của chính từng nền kinh tế đó lại quyết định sự
khác nhau trong pháp luật về phá sản của các nước khác nhau. Điều này giải
thích tại sao cũng là nền kinh tế thị trường nhưng Luật Phá sản của Mỹ lại
không giống Luật Phá sản của Cộng hoà liên bang Nga; cũng là kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa nhưng Luật Phá sản của Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa không giống với Luật Phá sản của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vì sao vậy? Vì các nước này tuy giống nhau về tính chất của nền kinh tế
nhưng rất khác nhau về trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, về công nghệ, về
năng lực sản xuất, tính chất của cạnh tranh v.v... Ví dụ, ở các nước Tư bản
chủ nghĩa do kinh tế phát triển đã dẫn đến sự phát triển của nhiều thiết chế phi
nhà nước có thể giúp Nhà nước thực hiện một số công việc phát sinh trong quá
trình giải quyết phá sản. Cụ thể là, ở các nước kinh tế phát triển cao, bên cạnh
Toà án, người ta đã có một tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các chuyên gia
quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Vì vậy, khi có
một vụ phá sản, Toà án yêu cầu tổ chức này giới thiệu cho mình chuyên gia là


18


nhân viên quan lý tài sản. Người này sẽ giúp Toà án và các chủ nợ thực hiện
việc quản lý doanh nghiệp mắc nợ, quản lý tài sản của con nợ và vì vậy không
cần thành lập một tổ chức có tính chất nhà nước, của Nhà nước như ở Việt
Nam là Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh lý tài sản như trước đây và Tổ quản lý,
thanh lý tài sản như hiện nay.
Như vậy là, do trình độ phát triển của nền kinh tế của nước ta và các
nước là khác nhau nên cơ chế giải quyết các vấn đề giống nhau là có thể khác
nhau.

1.2.3.

Khả năng làm chủ của các nhà doanh nghiệp trong việc giải

quyết các công việc của mình.
Phá sản là việc của chủ nợ và con nợ, do đó về nguyên tắc là họ phải
đứng ra giải quyết hầu hết các vấn đề của mình. Chỉ những việc gì mà họ, do
hạn chế về địa vị pháp lý của mình mà không làm được thì lúc đó Nhà nước
mà cụ thể là Tòa án mới phải ra tay. Tuy nhiên, do ý thức tự giác và khả năng
tự quyết đinh của các thương nhân Việt Nam hiện nay nhìn chung là còn quá
thấp nên họ không tự giải quyết được các vấn đề phát sinh. Vì vậy, rất nhiều
công việc phát sinh từ quá trình giải quyết phá sản đều phải được Tòa án xem
xét, quyết định. V í dụ, ở các nước do các thương nhân là những người có trình
độ cao về văn hóa pháp lý cũng như kiến thức kinh doanh nên ở các nước này,
Hội nghị chủ nợ là nhân vật có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các
vấn đề phát sinh. Trong khi đó, ờ nước ta Toà án lại phải can thiệp rất nhiều
thì mới giải quyết được vụ việc phá sản. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà ở
nước ta Toà án luôn luôn được thiết kế như một chủ thể có vai trò quyết định,
một nhân vật trung tâm trong tố tụng phá sản.


1.2.4. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực:


19

Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, mang
lại nhiều lợi ích và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở
một nền thương mại và đầu tư công bằng.
Việt Nam đang là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn kinh tế quốc
tế như APEC, AFTA...và trong tương lai sẽ gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật phá sản cũng như các văn bản
pháp luật khác phải tính đến vấn đề hội nhập nhằm làm cho pháp luật phá sản
của Việt Nam không chỉ phù hợp vói tình hình kinh tế - xã hội của đất nước
mà còn mang được “hơi thở” của thòi đại. Nếu pháp luật phá sản chỉ giải
quyết được vấh đề “đổi mới” mà không giải quyết được vấn đề “đối ngoại” thì
chắc chắn rằng nó sẽ không đóng được vai trò thúc đẩy, mở rộng quan hệ
thương m ạ i, hợp tác đầu tư với nước ngoài.


CHƯƠNG II
NHữNG N ộ i d u n g c ơ b ả n c ủ a l u ậ t p h á s ả n c ủ a v i ệ t n a m ,
CÓ s ự

so SÁNH VỚI LUẬT PHÁ SẢN CỦA CỘNG HOÀ PHÁP.

2.1. Đ ố i TUỢNG Á p

dụng củ a luật ph á sả n .

Đối tượng áp dụng luôn luôn là vấn đề đặt ra đầu tiên đối với nhà làm

luật khi xây dựng một văn bản luật, bởi chỉ khi xác định được đối tượng áp
dụng thì mói đưa ra được những quy định điều chỉnh phù hợp vói đối tượng
đó, mới nâng cao được chất lượng của việc điều chỉnh pháp luật đối vói chúng.
Nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, do đó các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ngày
càng có nhiều cơ hội để tham gia kinh doanh. Theo thống kê của Bộ K ế hoạch
và Đầu tư thì những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi có Luật Doanh nghiệp
năm 1999, số lượng doanh nghiệp được đăng ký tăng lên rất đáng kể: Đăng ký
kinh doanh được ví là "khai sinh" cho doanh nghiệp. Vậy, khi doanh nghiệp
không còn tồn tại thì cần có cơ chế giải quyết như thế nào. Đó là một đòi hỏi
hoàn toàn chính đáng và Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993 đã đáp ứng
được điều đó mặc dù kết quả đạt được là chưa cao. Theo Luật Phá sản Doanh
nghiệp năm 1993 và Nghị định số 189/1994/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm
1994 hướng dẫn thi hành Luật Phá sản Doanh nghiệp (sau đây xin gọi tắt là
Nghị định số 189), những đối tượng áp dụng của Luật Phá sản Doanh nghiệp
bao gồm:
- Doanh nghiệp nhà nước;
- Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Doanh nghiệp tư nhân;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn;
- Công ty cổ phần;


×