Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.33 MB, 84 trang )

BỘ Tư PHÁP

BỘ GIÁO ĐỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO VĂN THẮNG

cơ CHẾ PHẤN CÔNG, PHỐI HỢP GIỮA CÁC cơ

QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THựC HIỆN QUYỂN LẬP
PHÁP, HÀNH PHÁP VÀ Tư PHÁP ở Nước TA HIỆN NAY

LUẬN VẨN THẠC s ĩ LUẬT HỌC
8

«

HÀ NỘI 2005

#

*


B ộ G IÁ O DỤC VÀ ĐÀO TẠ O




B ộ T ư PH ÁP







TR Ư Ờ N G ĐẠI H Ọ C LUẬT H À NỘI








ĐÀO VĂN THẮNG

C ơ CHẾ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP GIỮA CÁC c ơ QUAN
NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THựC HIỆN QUYÈN LẬP PHÁP,
HÀNH PHÁP VÀ T ư PHÁP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành:

Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật

Mã số:

60 38 01

Người hướng dẫn:


TS.Nguyễn Minh Đoan
" THƯ VIEN
TRƯỜNG ĐAI HOC iÚ Â ĩ HA NÔ!

LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC




HÀ NỘI 2005






Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các tàí liệu và kết quả trong Luận văn là xác thực.

Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo, Tiến sĩ Nguyễn Minh
Đoan, người đã tận tâm giúp đ ỡ em hoàn thành Luận văn này.

Hà nội, ngày 06 tháng 7 năm 2005


MỤC LỤC
PHẦN MỞ Đ Ầ U ................................................................................................................2
CHƯƠNG Ị : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ Cơ CHÉ THỰC HIỆN QUYỀN L ự c NHÀ NƯỚC...........................5
1.1


Quyền lực nhà nước và cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước...................... 5

1.1.1

Quyền lực nhà nước............................................................................................. 5

1.1.2 Cơ chế thực hiện quyền lực nhà nư ớc............................................................. 14
1.2

Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lực nhà nước................................................................... 19

1.2.1

Sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước..................................................19

1.2.2 Sự phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước....................................................32
CHƯƠNG II: C ơ CHẾ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP GIỮA CÁC c ơ QUAN NHÀ
NƯỚC TRONG VIỆC THựC HIỆN CÁC QUYỀN LẬP PHÁP,
HÀNH PHÁP VÀ TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................42
2.1

Quá trình hình thành và phát triển của cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước ở nước ta ............................................................................42

2.2

Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

ở Việt nam hiện nay.............................................................................................45

2.2.1

Những quy định của pháp luật hiện hành.......................................................45

2.2.2 Những vấn đề đặt ra tò thực tiễn triển khai áp dụng cơ chế phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt nam hiện n a y ................................... 50
KẾT LUẬN....................................................................................................................... 76
TẦI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 78


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
“Đổ/ mới”, mà trước tiên là “đổi mới tư duy” và dám “nhìn thắng vào sự
thật” để đổi mới. Đó là những vấn đề đã được Đại hội Đảng lần thứ VI năm
1986 đề ra, đến nay, sau gần hai mươi năm nhimg “sức nóng” của chúng vẫn
như còn nguyên vẹn. Đổi mới tư duy để có cái nhìn cởi mở, cái nhìn cầu thị, dẹp
bỏ thành kiến là phương châm hành động cần thiết và phù hợp là trong tình hình
hiện nay. Trên tinh thần đó, về mặt nhà nước, sau một thời gian dài trăn trở, thận
trọng, cân nhắc; để rồi lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt nam, những tinh
hoa của Tư tưởng phân quyền - một trong những tư tưởng chính trị đã và đang có
ảnh hưởng rất lớn ở nhiều quốc gia dân chủ trên thế giới - đã chính thức được
thừa nhận và vận dụng trong điều kiện Việt nam. Tại điều 2, Hiến pháp 1992
(sửa đổi năm 2001) quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp” Đây là một bước ngoặt trong tư duy pháp lý về tổ
chức và hoạt động bộ máy nhà nước ở nước ta nói chung và về cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, Hiến pháp quy định là một chuyện,

còn áp dụng cơ chế đó vào thực tế như thế nào lại là chuyện khác. Ở Việt nam
hiện nay có rất nhiều lý do khiến cho cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước nói
trên chưa phát huy được tác dụng trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước như dự kiến của các nhà thiết kế. Một trong những nguyên nhân
có tính quyết định là chúng ta chưa hoàn bị được một lý luận triển khai về vấn đề
đó. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng, khi muốn giải quyết vấn đề gì đó, thì
việc trước tiên phải làm là cần đả thông về mặt nhận thức hay về mặt tư duy lý
luận trong nội bộ nhà nước và toàn xã hội. Trong khi đó, mặc dù hiện nay lý luận


về cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước tuy đã được chúng ta nghiên cứu khá
nhiều, nhưng đó vẫn chỉ là những quan điểm rời rạc, thiếu tập trung và còn nhiều
dị biệt. Điều này đã làm chậm lại rất nhiều quá trình cải cách bộ máy nhà nước
mà hiện nay chúng ta đang tiến hành. Từ những vấn đề mà thực tế đặt ra, với
mong muốn được góp phần vào quá trình xây dựng và hoàn bị một hệ lý luận
triển khai hữu hiệu nội dung hiến định nói trên, tôi đã chọn vấn đề: “Cơ chế phân
công và phổi hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cửu đề tài.
Ở Việt nam, vấn để này, trực tiếp hoặc gián tiếp, đã được nghiên cứu khá
nhiều, theo nhiều khía cạnh, với nhiều mức độ khác nhau, được thể hiện dưới
dạng những bài viết mang tính chuyên luận, và một số luận án tiến sĩ. Tiêu biểu
là các chuyên luận: “Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự phân
công, phổi hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”
của PGS. TS. Lê Minh Tâm; “Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước” của
TS. Nguyễn Minh Đoan; “Cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta” của
TS. Vũ Hồng Anh. Và các luận án tiến sĩ như: “Tư tưởng phân chia quyền lực
nhà nước với việc tổ chức bộ máy ở một số nước” của TS. Nguyễn Thị Hồi;
“Thống nhất, phân công và phối hợp quyền lực nhà nước ở Việt nam” của TS.
Lê Quốc Hùng; và rất nhiều những chuyên luận có nội dung liên quan khác. Các

chuyên luận, luận án này mặc dù còn có những hạn chế, nhưng đã cùng nhau
phác hoạ được những nội dung hết sức căn bản của những vấn đề đặt ra.
3. Mục đích của việc nghiên cửu đề tài.


Thông qua việc nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống cơ chế phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước ở nước ta hiện nay, luận văn có mục đích:
- Làm rõ nội dung của cơ chế phân công và phối hợp nói trên;
- Luận giải và chứng minh rằng, cùng với quy định của Hiến pháp, chúng ta
có thể kết hợp vận dụng nhiều hơn nữa những nội dung tiến bộ của tư tưởng
phân quyền của các học giả Tư sản.
- Từ những kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra một số kiến nghị liên quan.
4. Phạm vi của việc nghiên cứu đề tài.
Việc nghiên cứu đề tài chủ yếu giới hạn trong những quy định của Hiến
pháp và pháp luật hiện hành về cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước, nhưng có
nghiên cứu một số nội dung khác liên quan để bổ sung, làm rõ đề tài nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Phương pháp luận được sử dụng nghiên cứu đề tài là Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; ngoài ra luận văn còn dùng một số phương pháp
nghiên cửu khác như phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phân tích,
tổng hợp.
6. Những đóng góp của Luận văn.
Luận văn nghiên cứu một cách khá toàn diện và hệ thống về cơ chế phân
công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước. Nên
những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng để phục vụ cho việc tham
khảo, học tập và nghiên cứu về những vấn đề liên quan.
7. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
02 chương, 04 mục.



CH Ư Ơ N G I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÊ C ơ CHẾ TH ựC HIỆN QUYÊN

L ực NHÀ NƯỚC

1.1 QUYỂN L ự c NHÀ NƯỚC VÀ c ơ CHẾ THựC HIỆN QUYỀN Lực NHÀ NƯỚC.

1.1.1 Quyền lực nhà nước.
ữ ' Khái niệm quyền lực nhà nước.
Khái niệm quyền lực nhà nước là một khái niệm được phức họp bởi hai hiện
tượng quan trọng nhất của xã hội là quyền lực và nhà nước. Quyền lực là khái
niệm rộng, được quy chiếu về mặt nhà nước nên gọi là quyền lực nhà nước. Nói
vậy không có nghĩa cho rằng quyền lực là một thực thể độc lập, tối cao đến mức
thoát ly cuộc sống, để rồi cho rằng quyền lực đồng nghĩa với sự áp đặt. Thực tế
cho chúng ta thấy rằng, quyền lực không phải là khái niệm thuần tuý xa lạ với
cuộc sống con người; là một thành tố không thể thiếu đối với cuộc sống đó.
Trong xã hội có rất nhiều loại quyền lực khác nhau, các loại quyền lực đó đều
được thể hiện cụ thể thông qua từng lĩnh vực sinh hoạt của các cấp độ tổ chức
cộng đồng xã hội hay là các thiết chế xã hội, và tồn tại vì nhu cầu của các cấp độ
cộng đồng đó. Ví dụ, xã hội có nhu cầu trật tự, nhu cầu tín ngưỡng, nhu cầu tự
do,... và sẽ có các thiết chế xã hội tương ứng với các nhu cầu đó ra đời (bằng
nhiều con đường khác nhau: sự tấn phong, suy tôn, sự ép buộc, sự gian lận...)
nhằm thoả mãn những nhu cầu đó của xã hội. Như thế, nhu cầu xã hội chính là
cội rễ của quyền lực. Nhà nước là thiết chế có khả năng trực tiếp hoặc gián tiếp
đáp ứng được rất nhiều loại nhu cầu của xã hội, hay nhà nước chính là điểm tập
kết của những bức xúc, những tâm tư, nguyện vọng của xã hội; và nhà nước có
nghĩa vụ giải tỏa, làm thoả mãn những yêu cầu đó. Lý giải trên cho chúng ta



thấy, có nhu cầu xã hội rồi mới có nhà nước, có quyền lực nhà nước. Trong chế
độ dân chủ, lý lịch xuất thân của nhà nước càng được thể hiện rõ; nghĩa là trong
chế độ đó, nhà nước chỉ được thiết lập và có được quyền (gọi là quyền lực nhà
nước) làm thoả mãn các nhu cầu xã hội khi có sự đồng thuận của xã hội uỷ
quyền cho phép nhà nước làm việc đó. Theo đó, trong khuôn khổ của luật pháp,
nhà nước cũng có quyền cưỡng chế những công dân, tổ chức và chính các công
chức của mình khi họ có hành vi xâm phạm tới những lợi ích chung của xã hội
và các quyền, lợi ích của công dân khác được luật pháp bảo hộ. Phương thức này
chính là sự phản ánh ý nghĩa chân chính của tuyên ngôn “nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Như vậy, nếu quyền lực được hiểu theo khía
cạnh quản lý xã hội thì quyền lực và nhà nước là hai hiện tượng xã hội tồn tại
trong một thể thống nhất không tách rời là quyền lực nhà nước.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đi đến một khái niệm chung về
quyền lực nhà nước: Quyền lực nhà nước, theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp, là
biểu hiện tập trung sự đồng thuận của cư dân trong một quốc gia; được thi hành
thông qua nhiều phương thức hợp thời khác nhau bởi một thiết chế cộng đồng là
nhà nước - cũng được tạo lập từ sự đồng thuận trên - nhằm làm thoả mãn các nhu
cầu của cư dân trong quốc gia đó.
ữ Đặc điểm của quyền lực nhà nước.
- Có phạm vi tác động rộng lớn, sâu sắc.
Để có thể có được phạm vi và mật độ tác động tối đa, quyền lực nhà nước
được tổ chức triển khai thực hiện thông qua một mạng lưới hệ thống đơn vị hành
chính lãnh thổ các cấp của quốc gia như tỉnh, huyện, xã, cụm, tổ... để làm sao
mọi quyết sách từ phía nhà nước có thể đến được một cách nhanh nhất, nhiều
nhất, tốt nhất tới từng gia đình, từng người dân. Mỗi người dân, trong suốt cuộc


đời của mình từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, thậm chí cả sau khi chết, đều ít

nhiều chịu sự tác động của quyền lực nhà nước. Như: đăng ký khai sinh khi mới
sinh ra... và được nhà nước chứng tử khi chết đi, được truy tặng danh hiệu vì có
công nhưng đã chết...
- Có phương thức tác động phong phú.
Để đảm bảo rằng, quyền lực nhà nước luôn là thứ cần thiết đối với xã hội
hay để phục vụ nhân dân một cách tốt nhất. Nhà nước đã sử dụng rất nhiều
phương thức tác động khác nhau tuỳ từng đối tượng tác động, điều kiện hoàn
cảnh, giai đoạn phát triển khác nhau. Điển hình có ba loại: phương thức mệnh
lệnh (áp đặt, bắt buộc, cưỡng chế...); phương thức chỉ dẫn, khuyến cáo (tạo điều
kiện, môi trường, chính sách vĩ mô, luật pháp...); phương thả nổi (công dân
được làm tất cả những gì pháp luật không cấm ...).
- Được quy định chặt chẽ bởi luật pháp.
Luật pháp với những quy định chặt chẽ có tính bắt buộc cao, có chế tài phạt
vi phạm nghiêm khắc sẽ là khung khổ, là cơ sở pháp lý việc tổ chức và hoạt động
của quyền lực nhà nước mà cụ thể là hoạt động của các cơ quan công quyền, của
công dân... đảm bảo rằng mọi lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích họp pháp của
công dân không bị xâm hại bởi hành vi trái pháp luật.
- Tính ổn định không cao.
Nhìn chung so với các loại hình quyền lực khác như quyền lực tôn giáo, đạo
đức... thì tính ổn định, bền vững của quyền lực nhà nước thấp. Sở dĩ, quyền lực
nhà nước có sự gắn bó mật thiết với các nhu cầu xã hội, từ những nhu cầu nhỏ
nhất; mà nhu cầu xã hội thì luôn luôn biến động nhanh chóng, nhất là trong điều
kiện nền kinh tế thị trường, thì sự đổi thay cho phù hợp với cuộc sống của quyền


lực nhà nước mà CỤI thể là nhà nước là việc tất yếu và cần thiết; nếu không sẽ trở
thành lực lượng ngáng trở sự phát triển của xã hội.
' ữ M ột số nội dung cơ bản về quyền lực nhà nước.
Để có sự hiếu biết một cách sâu sắc và toàn diện về vấn đề quyền lực nhà
nước, bản chất của quyền lực nhà nước, chúng ta cần lý giải phân tích một số nội

dung cơ bản về quyền lực nhà nước. Chỉ có điều, quyền lực nhà nước là vấn đề
phức tạp, có nhiều biến động, và chịu ảnh hưởng rất lớn bởi màu sắc chính trị ở
tùy từng quốc gia. Do đó, kết quả nghiên cứu về quyền lực nhà nước sẽ vừa là
những giá trị phổ quát, lại vừa có nhiều giá trị đặc thù.
- Nguồn gốc của quyền lực và nhà nước.
Trước tiên, chúng ta cần đồng thuận với nhau rằng, quyền lực và nhà nước
là hai hiện tượng không đồng nhất, nhưng có mối tương quan không thể tách rời.
Trên quan điểm duy vật, chúng ta thấy rằng, quyền lực nói chung thuộc phạm trù
phi vật chất, là khuynh hướng phổ biến trong tự nhiên và xã hội, phản ánh khả
năng tạo lập, điều chỉnh và duy trì một trật tự ổn định tương đối cho bất kỳ một
thực thể hữu cơ hay vô cơ có tính quần cư nào. Đối với xã hội loài người, chúng
ta có thể xếp quyền lực vào dạng là một thể chế xã hội. Còn nhà nước thuộc
phạm trù vật chất bởi những thành tố nhỏ nhất trong bộ máy nhà nước chính là
con người. Tiếp đến, nhà nước chỉ là một bộ phận của một thực thể bao trùm có
tính hệ thống gọi là tổ chức (theo nghĩa là một danh từ). Nói đến tổ chức là muốn
đề cập tới những vấn đề thuộc về cấu trúc, chức năng, mục tiêu của tổ chức đó.
Trong xã hội, chúng ta còn gọi tổ chức là thiết chế xã hội. Thiết chế xã hội được
hình thành và tồn tại trên cơ sở các nhu cầu của chính xã hội. Nhu cầu đầu tiên
đối với xã hội là nhu cầu trật tự, vì trật tự là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội; xét đến cùng căn nguyên của nhu cầu trật tự này chính là


các nhu cầu bản năng của từng cá thể người trong xã hội, trong đó nhu cầu an
toàn về tính mạng và tài sản của các cá nhân trong xã hội là nhu cầu thuộc hàng
cao nhất. Trong tác phẩm “LeviathaĩT (Thuỷ quái) Hobbes có viết: "...rõ ràng,
trong suốt thời gian chung sống mà không cỏ một quyền lực chung để họ phải
kỉnh sợ, họ phải sổng trong tình trạng gọi là chiến tranh mà trong đổ tất cả mọi
con người đều chổng lại nhau" [30, tr.72].
Đây là những lý do căn bản trong số rất nhiều lý do làm phát sinh nhu cầu
trật tự của xã hội và các nhu cầu an toàn cá nhân để rồi tiếp đến làm xuất hiện

nhu cầu quản lý. Thiết chế nhà nước được tạo lập để đáp ứng nhu cầu quản lý
đời sống xã hội chung và các nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Như vậy,
sự ra đời của nhà nước chỉ là hệ quả của nhu cầu quản lý nảy sinh từ xã hội mà
thôi; các thiết chế xã hội nói chung và thiết chế nhà nước nói riêng sẽ là yếu tố
vật chất để hiện thực hoá yếu tố phi vật chất là nhu cầu quản lý đó. Đối với nhà
nước, quá trình hiện thực hóa nhu cầu quản lý xã hội không hoàn toàn dựa ữên
những mệnh lệnh cảm tính theo sở thích của người nắm quyền, mà luôn có
khuynh hướng dựa trên cơ sở những tôn chỉ, luật lệ, quy tắc được thiết lập hoặc
thừa nhận bởi ý chí của toàn thể cộng đồng dân chúng. Khuynh hướng này ngày
càng được hoàn bị theo tiến trình phát triển của xã hội. Những tôn chỉ, luật lệ,
quy tắc xã hội đó tựa như chiếc vòng kim cô để hạn chế và kiểm soát hành vi của
từng công dân và quan trọng hơn cả là hành vi của những người thực thi quyền
lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân có thể là mô hình tốt để
luật pháp thể hiện một cách đầy đủ năng lực và vai trò đích thực của nó đối với
đời sống xã hội, một mô hình mà ở đó công dân thì được làm tất cả những gì mà
pháp luật không cấm còn nhà nước thì chỉ được hành xử trong giới hạn thẩm
quyền mà luật quy định. Giới hạn thẩm quyền luật định cho nhà nước chính là


cái khung khổ luật pháp mà theo đó nhà nước có được quyền lực hợp pháp gọi là
quyền lực nhà nước.
- Chủ thể của quyền lực nhà nước,
Vấn đề chủ thể của quyền lực nhà nước gắn liền với vấn đề nguồn gốc xuất
xứ của quyền lực nhà nước. Nguồn gốc của quyền lực nhà nước có thế được hiểu
rất khác nhau qua các thòi kỳ lịch sử, đại loại là: quyền lực nhà nước là của đấng
tối cao thần thánh; quyền lực nhà nước là của một giai cấp thống trị trong xã hội;
quyền lực nhà nước là của toàn thể dân chúng trong một quốc gia. Nhưng tựu
chung lại ở điểm: Mọi loại quyền lực nhà nước đều có chủ thể, và mọi nhà nước
đều phải nhân danh chủ thể quyền lực để thực hiện quyền lực sao cho phù hợp
với ý chí của chủ thể quyền lực, của dân chúng. Nhà nước sẽ phải nhân danh chủ

thể quyền lực khi thực thi công vụ là m ột trong những nguyên tắc căn bản để bảo
đảm nhà nước không thể thao túng, chiếm đoạt quyền lực của chủ thể quyền lực.
Cùng với sự phát triển của văn minh xã hội, loài người ngày càng có xu
hướng đi tìm nguyên nhân của những hiện tượng xã hội ngay trong chính bản
thân xã hội. Con người vừa là chủ thể, vừa là phương tiện, vừa là đối tượng chịu
tác động của các hiện tượng xã hội, trong đó có quyền lực nhà nước. Do đó, vị
trí, phẩm giá của con người ngày càng được tôn trọng, đặc biệt trong các nền dân
chủ hiện đại.
Công dân của một quốc gia ngày càng có nhiều quyền để tự quyết định lấy
cuộc sống riêng cho mình và cho cả xã hội; mối quan hệ giữa công dân và nhà
nước cũng tiến triển theo hướng thân thiện; nhà nước đang có sự chuyển đổi
nhanh chóng từ phương thức quản lý cai trị sang phương thức quản lý phục vụ.
Trào lưu dân chủ hoá này đang giúp nhà nước tìm lại chính mình, với chức năng
nguyên thủy của nó phục vụ chứ không phải can thiệp, nhà nước trở lại với tư


cách là bên nhận sự ủy quyền của nhân dân trong văn bản có bản chất là một khế
ước ủy quyền xã hội - Hiến pháp. Cũng theo trào lưu đó, dân chủ đã trở thành
giá trị có tính phổ quát toàn cầu, dân chủ trở thành một trong những tiêu chí quan
trọng để đo lường sự phát triển lành mạnh của mỗi quốc gia.
Như vậy, người dân là chủ thể đích thực của quyền lực nhà nước, là chủ sở
hữu hợp Hiến đối với quyền lực nhà nước. Những quyền này của người dân cần
phải được bảo đảm bằng những quy định của Hiến pháp và một cơ chế bảo vệ
hữu hiệu để các quyền đó không bị xâm phạm bởi các công chức nhà nước. Mọi
quan điểm trái ngược với chân lý này đều trở nên lạc lõng và cần phải được
nhanh chóng loại bỏ. Tâm đắc với vấn đề này, chúng ta hãy cùng nhau suy ngẫm
lại câu nói bất hủ của vị cựu Tổng thống Mỹ tài danh Abraham Lincoln: Nhà
nước "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dần" ("ớ / the people, by the people,
fo r the people"), đã trở thành một trong những nền tảng chính trị cho bất kỳ một
chế độ dân chủ nào trong thế giới hiện đại.

- Chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong “Leviathan”, Thomas Hobbes viết: “...Phương pháp duy nhất để
thiết lập thứ quyền lực công cộng này là mọi người đem quyền lợi của riêng
mình giao cho một cá nhân hoặc một tập thể nhóm người, dựa trên nguyên tắc
đa sổ tán thành, đem ỷ chí của tất cả mọi người biển thành ỷ chí duy nhất, từ đổ
hình thành một nhân cách thống nhất" [30, tr.73].
Như trên đã nói, dân chúng là chủ sở hữu đối với quyền lực nhà nước nên
dân chúng có quyền tự mình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với quyền lực
nhà nước. Nhưng rất tiếc, điều lý tưởng này chỉ tồn tại về m ặt lý thuyết, bởi lẽ,
thực tế thì người dân không đủ khả năng để tự mình thực thi quyển lực của mình.
Do đó, riêng với quyền chiếm hữu và quyền sử dụng quyền lực này thì người


dân ủy quyền cho nhà nước là thiết chế duy nhất có đủ khả năng đảm nhiệm
được. Người dân chỉ giữ lại cho mình quyền định đoạt đối với quyền lực nhà
nước. Việc ủy quyền trên được thể hiện bằng văn bản pháp lý có giá trị tối cao là
Hiến pháp. Như vậy, trong trường hợp này, Hiến pháp có tư cách là một khế ước
uỷ quyền xã hội ghi lại việc thoả thuận và trao nhận quyền chiếm hữu và quyền
sử dụng quyền lực giữa chủ thể quyền lực là người dân với nhà nước. Theo đó,
nhà nước chỉ có quyền thực thi quyền lực nhân dân trong phạm vi ủy quyền. Nhà
nước sẽ phải luôn nhân danh nhân dân khi thực thi quyền lực nhà nước. Nhân
dân tin tưởng trao quyền lực của mình cho nhà nước cũng giống như trao "thanh
Bảo kiếm" để nhà nước "thế dân hành đạo"; trường hợp, nếu nhà nước vi phạm
cam kết ủy quyền thì người dân thực hiện quyền định đoạt của mình là thu hồi
lại quyền lực đã trao cho nhà nước.
- Phương thức tác động của quyền lực nhà nước đổi với xã hội.
+ Phương thức mệnh lệnh.
Đây là phương thức đặc trưng, cơ bản nhất của quyền lực nói chung cũng
như đối với quyền lực nhà nước, và quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Ở
nước ta, phương thức này có tính truyền thống, được vận dụng triệt để và toàn

diện trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo mô hình kế hoạch - tập trung. Hiện
nay, trong cơ chế kinh tế thị trường, với chủ trương nhà nước chỉ điều tiết vĩ mô
đối với nền tế và chủ trương phân cấp quản lý mạnh cho chính quyền địa phương
thì việc áp dụng phương thức này đã có nhiều biến đổi, linh hoạt, tích cực vận
dụng một cách đồng bộ các phương thức quản lý có tính mềm dẻo nhằm tạo sự
chủ động, sáng tạo cho từng đơn vị.


+ Phương thức định hướng.
Theo phương thức này, nhà nước xây dựng chính sách, pháp luật, tạo điều
kiện, môi trường tốt theo hướng công khai, minh bạch nhằm định hướng cho các
hoạt động xã hội nảy nở và phát triển. Phương thức quản lý này rất phù hợp với
một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước như ở nước ta hiện nay.
+ Phương thức khuyến cáo.
Theo phương thức này, công dân có quyền tự do lựa chọn những hoạt động
tốt nhất cho bản thân, gia đình và xã hội mà không vi phạm những điều cấm của
luật pháp. Nhà nước chỉ thực hiện chức năng khuyến cáo công dân hãy luôn tuân
thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong mọi hoạt động của mình.
Cần lưu ý rằng, các phương thức tác động này luôn được sử dụng một cách
tổng hợp và đầy biến hóa tùy thuộc vào điều kiện của từng quốc gia và trong
từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia đó.
Với bốn nội dung hết sức căn bản nêu trên, quyền lực nhà nước đã được
hiểu một cách linh hoạt và khá toàn diện; vừa có tính truyền thống vừa có tính
hiện đại; các khuynh hướng tiến bộ của thời đại cũng được phản ánh khá đậm
trong những nội dung đó. Vì vậy, quyền lực nhà nước không nên chỉ nhìn nhận
bó hẹp ở một góc độ nào đó, vì khi nói tới quyền lực nhà nước là chúng ta
thường đồng nghĩa với sức mạnh áp chế của nhà nước, sự cai trị, sự cưỡng bức,
sự phục tùng..., mà cần có cách hiểu quyền lực theo hướng cởi mở, nhiều chiều,
toàn diện phù hợp với các xu thế của thời đại, để quyền lực nhà nước trở nên
thân thiện và có ý nghĩa với xã hội chứ không phải là đối lập với xã hội.



1.1.2 Cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.
Khái niệm cơ chế cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.
Để hiểu sâu về khái niệm cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước, trước tiên
chúng ta hãy bắt đầu từ khái niệm cơ chế nói chung. Xét ngay bản thân từ “cơ
chế”chúng ta thấy chứa đựng hai nội dung phản ánh nội hàm của nó và cũng là
nội hàm của khái niệm cơ chế. Cụ thể là, “Cơ” là bộ phận, là những thành tố cấu
thành, hay là sự cấu trúc, sự phân nhánh các chức năng, bộ phận tham gia trong
cùng hệ thống, thì đại diện cho thành phần có tính vật chất; “Chế” là quy tắc, chế
độ, nguyên lý trong hệ thống để đảm bảo cho các bộ phận, chức năng của hệ
thống tồn tại trong mối liên kết thống nhất thì đại diện cho thành phần phi vật
chất. Chỉ có sự hội tụ thống nhất của hai yếu tố này thì mới được coi là một cơ
chế.
Trên cơ sở những hiểu biết căn bản cơ chế nói chung, chúng ta có thể hiểu
khái niệm cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước như sau: Cơ chế thực hiện quyền
lực nhà nước là mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước. Theo đó, về mô
hình tổ chức, nhà nước được cấu trúc theo một dạng thức có tính phổ biến và phù
hợp với những điều kiện tự nhiên và xã hội của quốc gia, lãnh thổ nơi nhà nước
gắn bó; còn về mô hình hoạt động cũng là việc nhà nước tuân theo những
nguyên lý hoạt động vừa phổ biến vừa đặc thù cho từng quốc gia. Tuy về mặt tư
duy thì chúng ta có thể phân chia như vậy, còn ừên thực tế thật khó phân biệt
thành hai bộ phận của cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước như trên, vì cũng
giống như quyền lực nhà nước, chúng tồn tại trong sự trộn lẫn, phụ thuộc, thống
nhất; có cái này thì đồng thời cũng có cái kia, hay không có cái này thì cũng
không có cái kia. Nên khó có thể phân biệt đâu là mô hình tổ chức nhà nước, còn
đâu là mô hình hoạt động nhà nước. Mặc dù vậy, ít ra chúng ta cũng phân biệt


được rằng, nếu như yếu tố tổ chức có tác dụng tạo cơ chế phân công chức năng

trong nhà nước, thì yếu tố hoạt động lại có tác dụng tạo cơ chế phối hợp giữa các
chức năng đó; tổ chức dễ tạo sự cắt khúc quyền lực nhà nước, thì hoạt động
chính là yếu tố đảm bảo sự gắn kết, liên thông, kiểm soát giữa các bộ phận của
quyền lực nhà nước; mô hình tổ chức thực hiện quyền lực thường mang tính chất
tĩnh, bảo thủ, còn mô hình hoạt động thể hiện tính linh hoạt, năng động, nhiều
biến hoá.
& Đặc điểm của cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước..
- Được quy định bởi luật pháp.
Trong một nền pháp quyền, luật pháp là chuẩn mực tối thượng phù hợp với
nhu cầu phổ biến trong xã hội. Nhà nước là một thành tố của xã hội, có quyền
làm ra luật pháp nhưng cũng có nghĩa vụ tuân thủ luật pháp đó. Vì vậy, cơ chế
thực hiện quyền lực nhà nước phải được quy định bởi pháp luật, mà trước hết là
Hiến pháp. Mà cụ thể là mô hình tổ chức và cách thức hoạt động của nhà nước
được quy định bởi luật pháp, nhà nước không được làm những gì ngoài giới hạn
quy định của luật pháp.
- Là trung tâm của các quan hệ chỉnh trị xã hội.
Nhà nước cũng là một ữong những thiết chế xã hội hay là một bộ phận của hệ
thống thiết chế xã hội. Nhưng so với các tổ chức xã hội khác, nhà nước có vị trí
và vai trò hết sức đặc biệt vì nhà nước có tư cách là đại diện của toàn bộ người
dân trong một đất nước, không có sự phân biệt công dân là thành viên của một tố
chức xã hội nào đó hay là công dân tự do. Hay nói đúng hơn, nhà nước với cơ
chế thực hiện quyền lực nhà nước luôn là sự phản ánh một cách tập trung nhất,
thường xuyên nhất, rộng rãi nhất ý chí, tâm tư, nguyện vọng của mọi công dân,
tố chức, đảng phái trong xã hội. Các công dân đều hướng về nhà nước, thông qua


nhà nước để tìm kiếm cho bản thân những phúc lợi do nhà nước cung cấp. Trên
cơ sở này, cho phép chúng ta khắng định, cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước
là trung tâm của các quan hệ chính trị xã hội.
- Cổ mục tiêu rộng lớn nhất.

Cũng xuất phát từ vai trò, vị trí của nhà nước trong xã hội, cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước có mục tiêu bao trùm, chi phối đối với các mục tiêu khác
trong xã hội. Trên cơ sở mục tiêu chung của cơ chế thực hiện quyền lực nhà
nước, các công dân, tổ chức xã hội tự xác định những mục tiêu cụ thể cho riêng
mình nhưng phải phù hợp với những mục tiêu chung. Tất nhiên, nhà nước khôn
nên cứng nhắc trong quá trình thực hiện mục tiêu chung, mà nên có sự linh hoạt,
nhạy bén trước những đổi thay của cuộc sống để có sự điều chỉnh kịp thời.
-

Có tính tự kiểm soát, tự điều chỉnh,
Nếu coi bộ máy nhà nước cũng là một hệ thống, thì cơ chế thực hiện quyền

lực nhà nước chính là khả năng tự cân chỉnh lại hoặc tự thích nghi đối với các
yếu tố nội vi và ngoại vi của hệ thống chung, như về hình thái, cấu trúc, chức
năng, mục tiêu của hệ thống khi phát hiện có sự sai lệch xuất hiện trong hệ thống
hay do có sự chuyển biến của nội tại hệ thống, của điều kiện môi trường, và sự
ảnh hưởng chi phối của hệ thống khác. Sự cân chỉnh này được tiến hành đồng
thời với hoạt động kiểm tra, rà soát, phát hiện, chế ước hoặc thay đổi một hoặc
nhiều yếu tố trong hệ thống. Sự giám sát, kiểm tra trong bộ máy nhà nước là sự
phản ánh những thuộc tính đó của hệ thống chung.
Tính tự điều chỉnh của cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước nếu bị con
người can thiệp một cách thô bạo hoặc thiếu khách quan sẽ làm sự vận hành của
bộ máy nhà nước trở lên cứng nhắc, tạo ra nguy cơ trùng lặp, xung đột, hình


thức, ừàn lấn, thiếu sự chế ước về chức năng giữa các cơ quan của bộ máy nhà
nước.
& M ột sổ loại cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.
Như chúng ta đã biết, nhà nước cũng như quyền lực nhà nước xuất hiện là do
những yêu cầu nội tại từ chính đời sống xã hội. Đời sống xã hội thì chứa đựng vô

vàn những khác biệt trong không gian và thường xuyên biến đổi theo thời gian.
Có bao nhiêu quốc gia, bao nhiêu lãnh thổ, bao nhiêu dân tộc, bao nhiêu thời
đại...thì tồn tại bấy nhiêu những bản sắc, những đặc thù. Nhà nước và quyền lực
nhà nước được thoát thai từ những xã hội đó nên không thể không chịu ảnh
hưởng chi phối của những điều kiện đặc thù đó. Theo đó, những biểu hiện về tổ
chức, mô hình hoạt động của nhà nước và quyền lực nhà nước hay chúng ta
thường gọi là cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước cũng đa dạng phong phú
tương tự như cái cơ sở để nó hình thành và tồn tại. Tuy nhiên, bằng tư duy trừu
tượng chúng ta phát hiện ra rằng, ẩn chứa ở tầng sâu của vô số những khác biệt
có tính ngẫu nhiên đó là những nguyên lý, những quy luật, những mối liên hệ đã
tạo nên một mạng lưới gắn kết phụ thuộc theo một trật tự, thứ bậc có tính hệ
thống; cho nên, ở chừng mực nào đó con người vẫn có thể khái quát một số mô
hình, cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước có tính điển hình, phổ biến trong lịch
sử và hiện tại để cho mọi quốc gia, mọi dân tộc và có thể là cho mọi thời đại có
thể học hỏi, vận dụng tùy thuộc vào điều kiện riêng có của mình để làm sao
mang lại những hiệu quả tốt nhất của hoạt động quản lý, điều hành xã hội; bảo
vệ các quyền và lợi ích của con người. Theo đó, dựa theo những tiêu chí nhất
định, chúng ta có phân loại cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước trong lịch sử và
hiện tại như sau:


Theo học thuyết Maxỉt.
Có năm kiểu nhà nước tương ứng với năm cơ chế thực hiện quyền lực nhà
nước:
> Cơ chế hiện quyền lực nhà nước trong nhà nước Chủ nô;
> Cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước trong nhà nước Phong kiến;
> Cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước trong nhà nước Tư sản;
> Cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước trong nhà nước XHCN.
Theo mức độ tụ tản của quyền lực nhà nước.
Có ba cơ chế cơ bản:

> Cơ chế tập trung quyền lực nhà nước;
> Cơ chế phân chia quyền lực nhà nước;
> Cơ chế trung tính.
Theo hình thức chính thể.
> Cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước trong chính thể quân chủ:
Chính thể quân chủ tuyệt đối;
Chính thể quân chủ hạn chế.
> Cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước trong chính thể cộng hoà:
Chính thể Cộng hoà Tổng thống;
Chính thể Cộng hoà Đại nghị;
Chính thể Cộng hoà lưỡng tính.
Theo chế độ chỉnh trị.
> Cơ chế thực hiện quyền lực trong nhà nước độc tài;
> Cơ chế Phương thức thực hiện quyền lực trong nhà nước dân chủ
Theo hình thức cẩu trúc nhà nước.
> Cơ chế thực hiện quyền lực trong nhà nước có cấu trúc đơn nhất;


> Cơ chế thực hiện quyền lực trong nhà nước có cấu trúc liên bang.
Như phần trên đã nói, những mô hình cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước
trên đây tuy là những mô hình điển hình và ưu tú, nhưng thực tế đã chímg minh
rằng, việc áp dụng hoàn toàn mô hình của quốc gia này lên quốc gia khác mà
không tính đến những giá trị đặc thù của quốc gia áp dụng, thì rất khó có thể
thành công được. Đối với các nhà lập hiến Việt nam thì họ cũng đã nhận thức rõ
điều này. Vì vậy, quá trình tìm kiếm một mô hình thích hợp cho Việt nam được
các nhà lập hiến Việt nam tiến hành trên tinh thần kế thừa những tinh hoa tổ
chức nhà nước trong lịch sử truyền thống của chính dân tộc mình; đồng thời có
tham khảo, học hỏi những mô hình, kinh nghiệm quý của các dân tộc khác trên
thế giới. Cơ chế phân công và phổi hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được quy định tại điều 2, Hiến

pháp 1992 chính là sản phẩm của tinh thần đó.

1.2 Cơ CHẾ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP GIỮA CÁC c ơ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC
THỰC HIỆN QUYỀN Lực NHÀ NƯỚC.

1.2.1 Sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước.
Cơ sở của sự phân công.
- Cơ sở tự nhiên.
Có rất nhiều biểu hiện sinh động trong tự nhiên và xã hội chứng tỏ rằng,
phân tách (chẻ tách) là một nguyên lý về cấu trúc chức năng phổ biến trong tự
nhiên. Đó là một phương thức tồn tại của sự vật; phân tách là bằng chứng về tính
phức tạp không giới hạn của bất kỳ sự vật nào. Nguyên lý phân tách là tò bản
chất nội tại của sự vật chứ không phải là tò tư duy thuần túy. Cơ chế tự điều
chỉnh chính là nguồn nội năng bí ẩn của sự vật quyết định mọi sự phân tách đó.


Theo đó thì bất kỳ sự cưỡng ép, áp đặt nào lên nguyên lý phân tách đều không
tránh khỏi những hiện tượng xung đột, chồng lấn, vô hiệu, rối loạn về chức năng,
và sau cùng là sự tiêu vong của sự vật đó.
Như vậy, sự phân tách tự nhiên là căn ngiiyên của sự phân công chức năng
của bất kỳ hệ thống nào, trong đó có nhà nước,

về bản chất, bản thân nhà nước

luôn có sự phân tách hay phân công về chức năng. Ý chí chủ quan có thể đồng
nhất được các chức năng của nhà nước nhưng không có khả năng duy trì cho nhà
nước đó tồn tại và có ích lợi một cách lâu bền. Sự đồng nhất chỉ là tạm thời, là
giải pháp tình thế; sự phân công là vĩnh cửu, là giải pháp chiến lược; đồng nhất
là trạng thái đông cứng, trì trệ, là cơ hội cho tệ quan liêu, tham nhũng hoành
hành, phân công là trạng thái năng động, cấp tiến, là điều kiện mở để các nhánh

quyền lực tựa như "trăm hoa đua nở", và nếu sự phân công đó đồng thời với sự
tồn tại cơ chế kiểm soát, giới hạn (chế ước) vói mức độ phù hợp giữa các nhánh
quyền lực thì tình trạng quan liêu, tham nhũng, lạm dụng quyền lực chắc chắn sẽ
bị giảm thiểu rất nhiều.
- Cơ sở xã hội.
Bên cạnh cơ sở thuộc về bản chất tất yếu của sự phân công quyền lực nhà
nước, thì ừong một nền dân chủ, luật pháp mà cụ thể là Hiến pháp và các đạo
luật là hình thức chính thức có hiệu lực bắt buộc và phổ biến nhất để hiện thực
hoá tính tất yếu đó của sự phân công quyền lực đó. Luật pháp chính là hình thức
công khai phản ánh ý chí của toàn xã hội, một trong những quy ước xã hội được
sinh thành song cùng với sự sinh thành của quyền lực quản lý của nhà nước.
Luật pháp là khung khổ của mọi hoạt động xã hội, là công cụ tốt nhất mà xã hội
có được để điều khiển, quản lý mọi hoạt động của chính bản thân xã hội nhằm


tạo lập, duy trì một trạng thái hữu ích đối với từng cá nhân và cả xã hội; không
chỉ cho đa số mà còn với cả tiểu số và từng cá nhân.
Xã hội càng phát triển, tính phức tạp của các quan hệ xã hội càng cao thì
phương thức tác nghiệp kiêm nhiệm, tích hợp theo kiểu "nhất cử đa tiện" đã trở
nên không còn phù hợp, mà thay vào đó là phương thức tác nghiệp có tính
chuyên biệt hoá theo kiểu "nhất nghệ tinh". Đó là xu hướng chủ đạo đã, đang, và
sẽ mãi mãi diễn ra như vậy trong toàn bộ tiến trình phát triển của xã hội. Quy
luật này tác động tới mọi hoạt động sống của xã hội chứ không riêng gì trong tổ
chức và hoạt động của nhà nước. Nhà nước nhân danh toàn thể công dân của
mình để làm công việc mang tính toàn cục, tính quá trình là: kiến lập - thực thi bảo vệ - hoàn bị luật pháp. Xét toàn bộ, đây là quá trình diễn ra thường xuyên,
liên tục, nhằm ứng phó kịp thời mọi biến phát của đời sống xã hội; nhưng xét
trong từng thời điểm cụ thể, bất kỳ một đạo luật nào cũng có một chu kỳ sống
trong một không gian và thời gian có sự ổn định tương đối. Đó là căn cứ cho
phép chúng ta có thể nhận biết và xác định được một cách rố ràng các giai đoạn
khác nhau, các hoạt động khác nhau, nằm trong cùng một quá trình và có cùng

một mục tiêu. Mỗi một hoạt động trong chu kỳ hay quá trình đó lại có những đặc
điểm khác nhau. Đặc điểm của mỗi hoạt động sẽ quyết định hình thức tổ chức và
phương thức làm việc riêng có cho hoạt động đó. Sự khác nhau này cũng là cơ
sở tự nhiên để hình thành nên các nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực
trong bộ máy nhà nước; có hay không có sự chuyên nghiệp của mỗi cơ quan nhà
nước cũng là bắt đầu từ đây. Từ sự phân công nội tại của quá trình đó, bộ máy
nhà nước lại được phân chia thành các cơ quan khác nhau để mỗi một cơ quan
đảm nhiệm một loại công việc có cùng tính chất và phần giáp ranh gần với phần
tính chất của cơ quan khác, để tiến tới sự chuyên nghiệp hoá và duy trì đến mức


thành chức năng riêng có hoặc vốn có của mình. Và thế là, chính qúa trình này
đã là nguyên nhân có tính hình thức (pháp lý) cùng với những nguyên nhân có
tính bản chất khác quyết định tới sự phân công chức năng ưong bộ máy nhà
nước; các phân việc làm luật pháp, thực thi luật pháp, xét xử và bảo vệ pháp chế
đã dẫn tới sự thiết lập các cơ quan chuyên trách là: cơ quan Lập pháp là Quốc
hội hay Nghị viện; cơ quan Hành pháp là Chính phủ; cơ quan Tư pháp là Toà án,
Viện kiểm sát. Từ những lập luận trên, chúng ta thấy rằng, sự phân công nội tại
về mặt nội dung của quá ữình đã quyết định tới sự phân công về mặt hình thức tổ
chức thực hiện quá trình; đó là quá trình lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây chính
là cơ sở xã hội của sự phân công trong bộ máy nhà nước,
ữ M ục tiêu chung của sự phân công.
A.A.Misin trong tác phẩm "Nguyên tắc phân chia quyền lực trong cơ cấu
Hiến pháp Hoa Kỳ" đã khuyến cáo rằng: "Các cơ quan Nhà nước thực hiện
những chức năng khác nhau nhimg tất cả đều hoạt động vì mục tiêu chung, Vì
vậy, sẽ là vô nghĩa khi giải thích sự phân chia quyền lực như là sự tập hợp
những thiết chế Nhà nước độc ỉập, tách biệt nhau" [24, ữ.40].
Sự phân công về nội dung - hình thức như lập pháp - Quốc hội, hành pháp Chính phủ, xét xử, bảo vệ pháp chế - Toà án, Viện Kiểm sát tuy có khác nhau về
mục đích bộ phận nhưng đều theo đuổi những mục tiêu tổng quát của toàn bộ hệ
thống bộ máy nhà nước là làm cho nhà nước ta thực sự là nhà nước của nhân

dân, do nhân dân và vì nhân dân; là bảo vệ và duy trì sự toàn vẹn, thống nhất về
lãnh thổ; nền độc lập và chủ quyền của quốc gia. Chính vì thế, nên sự phân công
giữa các cơ quan nhà nước không có nghĩa là sau sự phân công, mỗi cơ quan nhà
nước cỏ toàn quyền định đoạt trong lãnh địa quyền lực riêng có của mình (mà
đường biên của lãnh địa quyền lực này thì cũng không bao giờ là cố định cả, vì


×