Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Luận văn bảo đảm quyền khai sinh, khai tử trong hoạt động công chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.43 KB, 97 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu..............................................................5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn..........................................7
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn..............................................................7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.............................................................8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn...........................................8
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn.............................................................8
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn.........................................................9
6. Những đóng góp và ý nghĩa khoa học của luận văn.....................................9
7. Kết cấu của luận văn.......................................................................................9
Chương 1:...........................................................................................................11
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ TRONG
HOAT ĐỘNG CÔNG CHỨNG........................................................................11
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò và ý nghĩa của quyền nhân thân trong
hệ thống pháp luật Việt Nam............................................................................11
1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân.....................................................................11
1.1.2. Đặc điểm của quyền nhân thân...............................................................13
1.1.3. Vai trò của quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật Việt Nam.........15
1


1.2. Khái niệm, vị trí quyền khai sinh, khai tử trong hệ thống các quyền nhân thân
.............................................................................................................................18
1.2.1. Khái niệm quyền khai sinh, khai tử........................................................18
1.2.2. Sự tác động và ảnh hưởng của quyền khai sinh, khai tử tới các quyền
nhân thân khác...................................................................................................22
1.3. Nội dung quyền khai sinh khai tử theo pháp luật Việt Nam..................24
1.4. Quá trình phát triển của quyền khai sinh, khai tử..................................26


1.4.2. Quyền khai sinh, khai tử trong giai đoạn trước năm 1975....................26
1.4.2. Quyền khai sinh, khai tử trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay............27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................32
Chương 2:...........................................................................................................33
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN KHAI SINH KHAI TỬ
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM......................................33
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền khai sinh khai tử..............33
2.1.1. Quy định của pháp luật về quyền đăng ký khai sinh..............................33
2.1.2. Quy định pháp luật về đăng ký khai tử...................................................51
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền khai sinh, khai tử trong hoạt động công
chứng..................................................................................................................56
2.2.1. Về hệ thống cơ quan quản lý đăng ký khai sinh khai tử........................56
2.2.2. Về đội ngũ cán bộ công chức làm công tác hộ tịch................................58
2.2.3. Dữ liệu hộ tịch được hình thành với hệ thống sổ sách về hộ tịch được
lưu trữ, sử dụng lâu dài.....................................................................................60

2


2.2.4. Cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký và quản lý hộ tịch được đẩy
mạnh, ngày càng tạo thuận lợi cho người dân trong đăng ký hộ tịch.............61
2.2.5. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đăng ký, lưu trữ dữ
liệu về hộ tịch bước đầu được triển khai ở một số địa phương........................64
2.2.6. Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch có yếu tố nước ngoài đã có những
chuyển biến tích cực, nhất là trong lĩnh vực đăng ký kết hôn giữa công dân
Việt Nam với công dân nước ngoài...................................................................64
2.2.7. Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch tại các Cơ quan đại diện..............65
2.2.8. Khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác hộ tịch đối với
công tác quản lý nhà nước và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân....................................................................................................................66

2.2.9. Thực trạng thực hiện pháp luật trong việc khai tử trong hoạt động công
chứng..................................................................................................................67
2.3. Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật trong việc khai sinh khai tử
trong hoạt động công chứng.............................................................................72
Chương 3:...........................................................................................................86
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM
QUYỀN KHAI SINH KHAI TỬ......................................................................86
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền dăng ký khai
sinh khai tử.........................................................................................................86
3.2. Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền khai sinh
khai tử ở Việt Nam hiện nay.............................................................................88
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền khai sinh, khai tử trong
hoạt động công chứng, chứng thực...................................................................88
3


3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền khai sinh, khai tử trong hoạt
động công chứng, chứng thực...........................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................95

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh hiện nay, để đánh giá một quốc gia là tiến bộ và phát triển
người ta thường dùng thước đo đó là sự đảm bảo quyền con người, quyền công
dân. Quyền con người rất đa dạng và được đảm bảo thực hiện bằng nhiều ngành
luật khác nhau, trong đó luật dân sự là một ngành luật đặc biệt quan trọng. Các
quyền dân sự của cá nhân được ghi nhận và bảo vệ ở hai nhóm chính là quyền

tài sản và quyền nhân thân. Quyền nhân thân là nhóm quyền cơ bản và quan
trọng của công dân trong quan hệ dân sự. Các quyền nhân thân của cá nhân
không phải là vấn đề mới mẻ trong pháp luật cũng như trong lĩnh vực nghiên
cứu. Song cùng với sự phát triển của cuộc sống và khoa học kỹ thuật hiện đại
ngày càng có nhiều quyền của con người đòi hỏi phải có sự ghi nhận và bảo đảm
thực hiện bằng pháp luật dân sự nhằm đảm bảo tốt nhất các quyền con người.
BLDS năm 2015 ra đời đã ghi nhận trong đó rất nhiều những sửa đổi, bổ sung
quan trọng, đặc biệt là phần quy định về các quyền nhân thân.
Quyền nhân thân là quyền cơ bản nhất của mỗi con người và được BLDS
năm 2015 quy định tại mục 2 Chương III. Trong đó quyền khai sinh, khai tử là
một trong những quyền nhân thân quan trọng nhất và được quy định tại Điều 30
BLDS năm 2015. Quyền khai sinh là quyền đầu tiên được ghi nhận trong Công
ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, quyền khai sinh được ghi nhận tại Điều
7 của công ước này và được quy định tại Điều 13 Luật Trẻ em năm 2016. Với
việc quyền khai sinh được ghi nhận trong một văn bản có tầm cỡ quốc tế có ý
nghĩa rất lớn bởi vì chỉ sau khi thực hiện quyền khai sinh, các quyền khác như
quyền có họ tên, quốc tịch và những quyền khác mới được thiết lập và thực hiện.
Bên cạnh đó, pháp luật dân sự quy định cá nhân, tổ chức có quyền đăng ký khai
sinh, khai tử đồng thời cũng là nghĩa vụ của họ phải thực hiện việc đăng ký khi
có các sự kiện này xảy ra.

5


Hiện nay trong hoạt động công chứng, chứng thực, viêc đăng ký khai
sinh, khai tử trong thực tế còn một số bất cập trong các quy định của pháp luật
cũng như việc tuân thủ các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ trong
việc đăng ký khai sinh, khai tử khi có các sự kiện trên xảy ra. Đặc biệt là ở các
vùng có đời sống kinh tế khó khăn, nhận thức của con người còn chưa cao thì
việc thực thi quyền khai sinh khai tử gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc.

Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại và phát sinh một số trường hợp chưa
hoặc chậm đăng ký khai sinh, khai tử khi có sự kiện hộ tịch này xảy ra. Việc giải
quyết các sự kiện hộ tịch còn tồn tại do lịch sử để lại và một số mới phát sinh
còn gặp khó khăn, vướng mắc. Một trong những khó khăn của việc đăng ký khai
sinh, khai tử muộn là do người dân còn chưa coi trọng công tác này thậm chí
một số cán bộ tư pháp - hộ tịch có nhiệm vụ thực hiện việc đăng ký vẫn chưa
đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác này.
Với mong muốn tìm hiểu các quy định của BLDS về quyền khai sinh,
khai tử và áp dụng các quy định này vào thực hiễn để giải quyết tình trạng đăng
ký khai sinh, khai tử cho đúng các quy định của pháp luật tôi chọn đề tài “Bảo
đảm quyền khai sinh, khai tử trong hoạt động công chứng” để làm luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền khai sinh, khai tử là một trong số các quyền nhân thân đã được quy
định tại BLDS năm 1995, năm 2005 và BLDS năm 2015. Do tính chất là quyền
quan trọng nên đã có nhiều tác giả đã có những nghiên cứu về quyền nhân thân
trong đó có quyền khai sinh, khai tử ở các khía cạnh khác nhau như sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Bộ Tư pháp: “Một số vấn đề về
quyền dân sự và bảo vệ quyền dân sự trong BLDS Việt Nam”;
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tòa án nhân dân tối cao với
đề tài: “Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của
công dân theo quy định của BLDS”.
6


Điểm chung của các công trình nghiên cứu này là công trình này cũng chỉ
dừng lại ở việc khẳng định vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền
nhân thân nói chung chứ chưa đưa ra được phương hướng giải quyết tranh chấp,
bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân ở những trường hợp cụ thể - trong khi đó
mỗi quyền nhân thân lại có những đặc thù riêng.

Bên cạnh đó, có các nghiên cứu khác như:
- Nguyễn Thị Thùy Trang (2013), Quyền khai sinh, khai tử theo quy định
của pháp luật dân sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng quyền khai sinh, khai tử
trên địa bàn Huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Phạm Văn Chung, Đăng ký khai sinh cho trẻ em bị mẹ bỏ rơi, nhưng xác
định được cha đẻ, Dân chủ và Pháp luật, Số 8/2009, tr. 49;
- Sở Tư pháp Đà Nẵng, Đăng ký khai sinh cho trẻ em bị ảnh hưởng của
chất độc da cam, trẻ lang thang mồ côi tại thành phố Đà Nẵng, Dân chủ và
Pháp luật. Số chuyên đề 3/2008, tr. 9 – 11;
- Lương Thị Lanh, Quyền được đăng ký khai sinh của trẻ em cần được
pháp luật quy định rõ và thống nhất, Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề
12/2004, tr. 14 – 16;
- Nguyễn Quốc Sử, Thời gian đăng ký khai tử - Bao lâu là phù hợp?, Dân
chủ và Pháp luật, Số 4/2011, tr. 57.
Tuy nhiên, những nghiên cứu nói trên vẫn có một số vấn đề chưa khai
thác hoặc chưa khai thác hết hầu như chỉ dừng lại ở việc xem xét, đánh giá các
quy định của pháp luật mà chưa có sự đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định
pháp luật trong việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử trên địa bàn cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Đề tài nghiên cứu “Bảo đảm quyền khai sinh, khai tử trong hoạt động
công chứng” của luận văn nhằm đạt được các mục đích nghiên cứu sau:
7


- Làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cũng của quyền
khai sinh, khai tử trong pháp luật dân sự Việt Nam;
- Phân tích các nội dung của quy định pháp luật dân sự về quyền khai
sinh, khai tử và nêu ra các ưu điểm và hạn chế của quy định hiện hành về quyền

khai sinh, khai tử trong BLDS năm 2015;
- Tập trung nghiên cứu, đánh giá tổng quát thực tiễn áp dụng quy định về quyền
khai sinh, khai tử trong hoạt động công chứng, chứng thực nhưng năm gần đây ở Việt
Nam;
- Đưa ra những giải pháp giải quyết những tồn tại, vướng mắc trong hoạt
động thực tiễn đồng thời làm tài liệu tham khảo cho cấp cơ sở xã, phường thị
trấn, Phòng tư pháp huyện và Phòng công chứng để áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Nhiệm vụ của luận văn là làm rõ khái niệm, tính chất, mục đích, ý nghĩa
của quyền khai sinh, khai tử trong pháp luật dân sự Việt Nam, tập trung nhất vào
quy định hiện hành, đối chiếu, so sánh với quy định của pháp luật về quyền khai
sinh, khai tử qua các giai đoạn phát triển, đánh giá thông qua thực tiễn áp dụng ở
Việt Nam.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài tác giả mong muốn đưa ra một số giải
pháp nhằm sửa đổi bổ sung những quy định cụ thể trong việc áp dụng quy định
về quyền khai sinh, khai tử trên thực tế hoạt động công chứng, chứng thực nhằm
phát huy triệt để nhất quy định về quyền khai sinh, khai tử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên việc bảo đảm quyền đăng ký khai sinh, khai tử tại các
Ủy ban nhân dân, văn phòng công chứng ở xã, thị trấn trên địa bàn cả nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

8


Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình thực tiễn bảo đảm quyền khai
sinh, khai tử trong hoạt động công chứng. Thực hiện quyền và nghĩa vụ của
công dân trong lĩnh vực này trên ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn

Trong quá trình nghiên cứu, tôi dựa vào phương pháp của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với việc sử dụng các
phương pháp như: Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp
thống kê và phương pháp so sánh, đối chiếu. Qua đó, rút ra những kết luận, đề
xuất những biện pháp nhằm hoàn thiện chế độ cả về mặt lí luận và thực tiễn áp
dụng.
6. Những đóng góp và ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu mới về việc thực thi quyền khai sinh,
khai tử theo quy định của pháp luật hiện hành ở nước ta trong giai đoạn BLDS
năm 2015 vừa mới có hiệu lực. Luận văn còn góp phần nghiên cứu những vấn
đề lý luận về áp dụng pháp luật trong việc thực thi quyền khai sinh, khai tử, làm
phong phú thêm những vấn đề lý luận trong lĩnh vực này.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và cơ
sở thực tiễn cho những người trực tiếp thực thi quyền khai sinh, khai tử.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người trực tiếp
làm công tác đăng ký khai sinh, khai tử tại các cơ quan cấp xã, phường, thị trấn,
Phòng tư pháp và các Phòng công chứng.
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng pháp
luật trong việc thực thi quyền khai sinh, khai tử theo yêu cầu của công dân.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động áp
dụng pháp luật trong việc thực thi quyền của công dân ở nước ta và đề ra những
giải pháp nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong việc thực thi quyền khai
sinh, khai tử đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
7. Kết cấu của luận văn
9


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền khai sinh khai tử

Chương 2: Quy định pháp luật và thực trạng bảo đảm quyền khai sinh,
khai tử trong hoạt động công chứng
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền
khai sinh khai tử

10


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quyền nhân thân trong hệ
thống pháp luật Việt Nam
1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân
Quyền nhân thân là một quyền dân sự của cá nhân, liên quan mật thiết
đến quyền con người. Tiếp cận quyền nhân thân không thể không tiếp cận đến
quyền dân sự, quyền con người. Quyền nhân thân là một loại quyền dân sự
đặc biệt, có thể nói là một loại quyền dân sự gắn với mỗi chủ thể từ khi chủ
thể đó hình thành cho đến khi chấm dứt, không còn tồn tại. Xã hội phát triển
làm cho các quan hệ xã hội trở nên phức tạp, đa dạng và biến hóa hơn, đồng
thời do nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, duy trì cuộc sống xã hội dần hình thành
nhiều các chủ thể với các hình thức tổ chức khác nhau. Cá nhân là chủ thể chủ
yếu, trung tâm trong mọi quan hệ xã hội, tuy nhiên xã hội cũng đã hình thành
và pháp luật đã công nhận nhiều loại chủ thể khác. Pháp luật dân sự quy định
các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác,
hộ gia đình, Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền
nhân thân là một loại quyền con người, tuy nhiên quyền nhân thân không chỉ
gắn với con người với tư cách là cá nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự.
Trong Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp định
nghĩa về quyền nhân thân là: “Quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà
không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định

khác. Quyền nhân thân bao gồm: quyền có họ tên; quyền xác định dân tộc;
quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín;
quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền có quốc tịch;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền lao động;
quyền tự do sáng tạo, quyền tác giả đối với tác phẩm; quyền đối với các đối
11


tượng sở hữu công nghiệp” [37, tr. 653].
Theo quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015, quyền nhân thân
được quy định như sau:
Điều 25. Quyền nhân thân
1. Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường
hợp luật khác có liên quan quy định khác.
2. Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân
thân của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo
pháp luật của người này đồng ý theo quy định của Bộ luật này, luật khác có
liên quan hoặc theo quyết định của Tòa án.
Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân
của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ,
chồng hoặc con thành niên của người đó; trường hợp không có những người
này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích,
người đã chết, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định
khác.
Một quan điểm khác khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân: quan
điểm của TS. Lê Đình Nghị trong luận án tiến sĩ Luật học Quyền bí mật đời tư
theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam (năm 2008), tác giả đã xây dựng

khái niệm về quyền nhân thân trên hai phương diện khách quan và chủ quan.
Nghĩa khách quan: "quyền nhân thân được hiểu là một phạm trù pháp lý bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội
dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân
mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình" [15]. Theo nghĩa
chủ quan, tác giả cho rằng "quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền
với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể
12


chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác" [15]. Có thể thấy tác giả đồng tình với quan điểm của nhà làm luật khi
xây dựng khái niệm về quyền nhân thân.
Từ những lập luận và phân tích trên, tác giả xin đưa khái niệm về quyền
nhân thân như sau: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể,
không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.1.2. Đặc điểm của quyền nhân thân
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với cá nhân mà không thể
chuyển giao cho chủ thể khác. Quyền nhân thân có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quyền nhân thân là một quyền dân sự và là một quyền dân sự
đặc biệt. Con người là nhân vật trung tâm của xã hội và luôn là đối tượng
hướng tới của các cuộc cách mạng tiến bộ trong lịch sử xã hội loài người. Dưới
góc độ pháp luật dân sự thì cá nhân là chủ thể chủ yếu, thường xuyên, quan
trọng và phổ biến của quan hệ dân sự. Các quyền mà pháp luật quy định cho cá
nhân là vì con người và hướng tới con người, trong đó có các quyền nhân thân.
Sở dĩ nói quyền nhân thân là quyền dân sự đặc biệt và các quyền này gần như
chỉ thuộc về cá nhân, trong khi đó các quyền khác (quyền tài sản) có thể thuộc
về chủ thể khác (pháp nhân, hộ gia đình). Bên cạnh các quyền nhân thân được
BLDS quy định thuộc về cá nhân, có trường hợp ngoại lệ đặc biệt quyền nhân

thân có thể thuộc về pháp nhân
Thứ hai, mọi cá nhân đề có sự bình đẳng về quyền nhân thân.
Mọi người đều có quyền nhân thân kể từ khi họ được sinh ra, không
phân biệt giới tính, tôn giáo, thành phần giai cấp... Chúng ta thấy quyền nhân
thân có một sự khác biệt cơ bản với quyền tài sản vì quyền bình đẳng về mặt
dân sự không quy định tất cả mọi người đều có khả năng hưởng những quyền
như nhau. Nguyên tắc bình đẳng về mặt dân sự có nghĩa là mọi cá nhân đều có
những quyền như nhau, đó không phải là một khả năng trừu tượng mà là
13


một thực tế. Lợi ích của quyền nhân thân được quy định như một thực tế chứ
không phải là quy định mang tính hình thức.
Thứ ba, quyền nhân thân có tính chất phi tài sản. Quyền nhân thân không
bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài sản hay không gắn với tài
sản mà thôi. Vì không phải là tài sản nên quyền nhân thân không bao giờ trị giá
được thành tiền. Về mặt pháp lý, chúng ta cần phân định rõ tính chất phi tài sản
của quyền nhân thân. Sáng chế hay giải pháp hữu ích do con người sáng tạo nên
mang giá trị kinh tế, chứ bản thân "Quyền tự do sáng tạo" không phải là tài sản,
không mang giá trị kinh tế.
Thứ tư, quyền nhân thân luôn gắn liền với cá nhân, không thể chuyển
giao cho chủ thể khác. Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền
dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không thể chuyển dịch cho chủ thể khác. Các
quyền dân sự nói chung, quyền nhân thân nói riêng là do Nhà nước quy định cho
các chủ thể dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Do vậy về mặt nguyên
tắc, cá nhân không thể chuyển dịch quyền nhân thân cho chủ thể khác, nói cách
khác thì quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa
các cá nhân.
Thứ năm, quyền nhân thân là một quyền dân sự do Nhà nước quy định
cho cá nhân, Nhà nước không cho phép cá nhân hạn chế quyền nhân thân của

mình cũng như hạn chế quyền nhân thân của người khác.
Quyền nhân thân là một quyền nằm trong nội dung năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân. Pháp luật dân sự quy định cho các cá nhân có các quyền
nhân thân là một sự tuyên bố chính thức về các quyền con người cụ thể được
pháp luật thừa nhận. Việc pháp luật quy định cho cá nhân có các quyền nhân
thân khác nhau là dựa vào các điều kiện kinh tế - xã hội. Do vậy, ở mỗi giai
đoạn khác nhau của lịch sử xã hội loài người, phụ thuộc vào bản chất giai cấp,
chế độ chính trị xã hội... mà quyền nhân thân của cá nhân được quy định một
cách khác nhau. Quyền nhân thân do Nhà nước "trang bị" cho cá nhân, Nhà
14


nước không cho phép bất cứ cá nhân nào làm thay đổi hay chấm dứt quyền đó.
1.1.3. Vai trò của quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Thứ nhất, quyền nhân thân là đối tượng được giải quyết dưới nhiều góc
độ: triết học, chính trị học, sử học, văn học, luật học... BLDS quy định các
quyền nhân thân là sự khẳng định của Nhà nước trong việc tôn vinh và bảo vệ
các giá trị tinh thần của con người. Dưới góc độ khoa học pháp lý, việc ghi nhận
các quyền nhân thân đánh dấu sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật
ở mức độ cao. Con người là mục tiêu của mọi cuộc cách mạng, sự ghi nhận các
quyền của cá nhân, trong đó có quyền nhân thân trong một văn bản pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao của Nhà nước ta thể hiện tính ưu việt của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền của con người. Xã
hội ngày càng phát triển, điều kiện kinh tế xã hội có nhiều thay đổi theo hướng
tích cực thì các giá trị tinh thần của con người càng được chú trọng. Trong bối
cảnh quốc tế hiện nay, việc ghi nhận các quyền nhân thân một lần nữa khẳng
định bản chất của Nhà nước ta - đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Qua
việc quy định các quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật, một lần nữa chúng
ta lại thấy rằng một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ càng được
mở rộng bao nhiêu, thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các

quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với
những biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả.
Thứ hai, các quy định về quyền nhân thân của cá nhân trong hệ thống
pháp luật là cơ sở để cá nhân thực hiện các quyền của mình. Ghi nhận các quyền
nhân thân của cá nhân trong hệ thống pháp luật là sự đảm bảo của Nhà nước
trong việc tôn vinh các giá trị của con người. Tuy nhiên, đây cũng là sự thể hiện
quan hệ giữa Nhà nước với công dân, theo đó Nhà nước đảm bảo quyền cho cá
nhân và cá nhân sẽ thực hiện quyền do Nhà nước ghi nhận.
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đầy đủ cùng với hệ thống các cơ
quan thực thi sẽ tạo điều kiện cho cá nhân thực hiện các quyền của mình. Bằng
15


sự khẳng định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao cho chủ thể khác trừ trường hợp pháp luật có quy
định... pháp luật đã thực hiện việc đảm bảo quyền dân sự cho chính cá nhân chứ
không phải đảm bảo cho chủ thể khác. Sự khẳng định này không chỉ có ý nghĩa
trong lĩnh vực dân sự mà còn có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực khác như
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
Thứ ba, các quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật là cơ
sở pháp lý quan trọng để Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khi các quyền, lợi ích đó bị xâm phạm.
Pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Các
quy định của pháp luật về quyền nhân thân chính là những cơ sở pháp lý quan
trọng để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ
quyền lợi của cá nhân khi các quyền nhân thân bị xâm phạm.
Ngoài việc quy định nội dung các quyền nhân thân, các cơ quan có thẩm
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khi quyền nhân thân bị
xâm phạm, các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân cũng được pháp luật chú
trọng.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, các quy định về quyền nhân
thân nói riêng luôn được Nhà nước ta quan tâm. Trong quá trình hoàn thiện hệ
thống pháp luật, một loạt các quy định về quyền nhân thân được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với điều kiện xã hội mới.
Ở nước ta, trước đây các quyền nhân thân được pháp luật quy định chưa
nhiều. Trong cuộc sống hàng ngày, tên họ, hình ảnh, bí mật đời tư, danh dự,
nhân phẩm uy tín... của cá nhân dễ bị xâm phạm với nhiều động cơ, mục đích
khác nhau, thậm chí người xâm phạm cũng không có động cơ và nhằm mục đích
nào.
Những năm gần đây, cùng với những thành quả của công cuộc đổi mới,
sự ra đời của BLDS năm 1995, BLDS năm 2005, nhiều quyền nhân thân của
16


công dân đã được Nhà nước ghi nhận và thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ.
Chẳng hạn họ tên, hình ảnh (bao gồm ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh do quay phim,
tượng), bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm, uy tín... của cá nhân đã được pháp
luật quy định ở nhiều văn bản pháp luật với các hình thức bảo vệ cụ thể.
Nhiều vụ án đã được tòa án thụ lý xét xử, buộc người vi phạm dù là cá
nhân hay tổ chức đều phải có nghĩa vụ xin lỗi và bồi thường bằng tiền cho
người bị xâm phạm. Các cơ quan nhà nước tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra,
truy tố, xét xử) gây oan; các cơ quan thông tấn, báo chí thông tin sai sự thật,
xuyên tạc, vu khống hoặc cá nhân, tổ chức đạo văn, đạo nhạc, xâm phạm bản
quyền, tự ý sử dụng họ tên, hình ảnh của công dân trên các mẫu quảng cáo, in
lịch mà không hỏi ý kiến và không được sự đồng ý của người đó hoặc thân
nhân của họ (nếu họ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự) đã phải chịu trách
nhiệm về hành vi xâm phạm của mình. Qua đây, chúng ta thấy được các quy
định về quyền nhân thân cùng các biện pháp bảo vệ các quyền đó đã phát huy
tính tích cực trong việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân.
Thứ tư, các quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật ngoài

sự thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc ghi nhận và bảo vệ các quyền
của cá nhân còn có tác dụng tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp như hiện
nay, các quy định về quyền nhân thân của Nhà nước ta không những thể hiện
đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với quyền con người, khẳng
định vị trí và vai trò của cá nhân trong xã hội, bảo đảm cho cá nhân thực hiện
các quyền của mình mà còn là công cụ hữu hiệu để chống lại các quan điểm
phản động của các thế lực thù địch khi chúng xuyên tạc các quy định liên quan
đến quyền con người nói chung, quyền nhân thân nói riêng của Nhà nước ta.
Thứ năm, các quy định về quyền nhân thân ngoài ý nghĩa đảm bảo các
quyền của cá nhân được thừa nhận và bảo vệ còn thể hiện sự công bằng, bình
đẳng trước pháp luật của cá nhân. Sự bình đẳng của cá nhân không chỉ thể hiện
17


ở các quy định về quyền nhân thân của cá nhân mà còn thể hiện trong việc xử lý
các hành vi xâm phạm quyền này, theo đó bất cứ ai có hành vi xâm phạm quyền
nhân thân cũng phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
1.2. Khái niệm, vị trí quyền khai sinh, khai tử trong hệ thống các quyền
nhân thân
1.2.1. Khái niệm quyền khai sinh, khai tử
Quyền khai sinh, khai tử là một trong các quyền nhân thân của cá nhân.
Quyền khai sinh, khai tử là quyền cơ bản của con người. Trong hệ thống các
quyền con người, quyền khai sinh, khai tử nằm trong nhóm quyền dân sự, chính
trị và là một trong các quyền nhân thân của cá nhân.
Quyền khai tử, khai tử trước hết là hành động có sự chủ động của các chủ
thể để nhằm khai báo với cơ quan nhà nước một sự kiện pháp lý phát sinh.
Trong Tiếng Việt, từ “Khai” mang rất nhiều ý nghĩa: “Khai” trong “Khai
sinh” và “Khai tử” được lấy từ “Khai” trong “Khai báo” mang ý nghĩa là hoạt
động nói hay viết cho một cơ quan, tổ chức nào đó hoặc theo yêu cầu của một cơ

quan, tổ chức nào đó để cho biết rõ điều cần biết về mình hoặc những điều mình
biết. Tuy nhiên, với từ “Khai” trong “Khai sinh” còn có thể hiểu thêm theo nghĩa
bắt đầu hay đầu tiên của sự việc.
Thuật ngữ “khai sinh” theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý
– Bộ Tư pháp, được hiểu như sau:
“Khai sinh là việc khai báo và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác
nhận một cá nhân được sinh ra; là một trong những sự kiện hộ tịch để xác định
cá nhân là thực thể của tự nhiên, của xã hội.
Mọi người khi sinh ra đều có quyền được khai sinh. Cha, mẹ hoặc người
thân thích có nghĩa vụ khai sinh cho trẻ sơ sinh theo quy định của pháp luật về
hộ tịch. Giấy khai sinh là một chứng thư hộ tịch quan trọng ghi rõ họ, tên, này
tháng năm sinh, nơi sinh, họ tên cha, mẹ người được khai sinh nhằm xác định rõ
nguồn gốc của một cá nhân cụ thể và để phân biệt giữa cá nhân này với cá nhân
18


khác trong trường hợp cần thiết.” [Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý,
tr.412]
Bên cạnh đó, Từ điển Luật học còn định nghĩa về việc “đăng ký khai
sinh” như sau: “Đăng ký sự kiện sinh cho đứa trẻ mới được sinh tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký khai sinh là Ủy
ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi người mẹ có hộ khẩu thường trú
hoặc nơi đứa trẻ sinh ra. Trường hợp đặc biệt có thể đăng ký khai sinh tại Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi người mẹ đăng ký tạm trú” [Từ điển Luật học của Viện
Khoa học pháp lý, tr. 232]
Cũng theo Từ điển Luật học nói trên, khái niệm khai tử được đồng nhất
với khái niệm đăng ký khai tử, theo đó, “đăng ký khai tử” được hiểu như sau:
“Đăng ký khai tử là thủ tục pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm
xác định sự kiện chết của một con người và xác định sự chấm dứt các quan hệ
pháp luật của người đó, đồng thời, là phương tiện để Nhà nước theo dõi biến

động dân số của mình.
Cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký khai tử là Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người chết. Trường hợp không xác định
được nơi cư trú cuối cùng của người chết thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người
đó chết thực hiện việc đăng ký khai tử.” [Từ điển Luật học của Viện Khoa học
pháp lý, tr. 232]
Quyền khai sinh, quyền khai tử đã được quy định trong BLDS của
nhiều nước trong đó có BLDS Cộng hòa Pháp năm 1919, cụ thể:
Điều 55 BLDS Cộng hòa Pháp năm 1919 quy định: “Trong thời hạn ba
ngày kể từ ngày sinh trẻ, việc khai sinh cho trẻ phải được thực hiện trước viên
chức hộ tịch tại nơi trẻ sinh ra. Trong trường hợp trẻ sinh ra không được khai
sinh trong thời hạn pháp luật quy định, thì viên chức hộ tịch chỉ có thể ghi việc
sinh vào sổ hộ tịch khi có bản án, quyết định của Tòa án quận nơi trẻ sinh ra,
nhưng phải ghi chú tóm tắt vào lề của trang tương ứng với ngày sinh. Nếu
19


không xác định được nơi sinh của trẻ thì Tòa án có thẩm quyền sẽ là Tòa án nơi
cư trú của người yêu cầu khai sinh” [19].
Điều 78 BLDS Pháp năm 1924 quy định: “Khi một người chết, giấy
chứng tử do viên chức hộ tịch của xã nơi người đó chết lập theo lời khai của
thân nhân người chết hoặc theo lời khai của người biết được những thông tin
chính xác và đầy đủ nhất về hộ tịch của người chết” [19].
Sau khi Liên hợp quốc ra đời, quyền khai sinh, khai tử trở thành mối
quan tâm chung của cộng đồng quốc tế. Quyền khai sinh, khai tử được ghi
nhận trong Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 và nhiều
công ước khác của Liên hợp quốc. Khoản 2 Điều 24 của Công ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị năm 1966 ghi nhận: "Mọi trẻ em đều phải được
đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời và phải có tên gọi" [11].
Bên cạnh những quy định trong các công ước mang tính toàn cầu, áp

dụng cho mọi đối tượng không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc….., một
số công ước quốc tế của Liên hợp quốc điều chỉnh những quan hệ trong từng
lĩnh vực, đối với từng đối tượng cụ thể cũng đề cập đến việc ghi nhận và bảo
vệ quyền khai sinh, quyền khai tử là một bộ phận không thể thiếu của quyền
con người. Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em quy định tại
Điều 7: "1. Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và
có quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời, và trong chừng mực có
thể, quyền được biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc” [12].
Ở Việt Nam hiện nay ngoài những quy định có tính nguyên tắc liên
quan đến đăng ký khai sinh, khai tử tại BLDS năm 2015 (quy định về quyền
nhân thân), Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 (quy định về
quyền được đăng ký khai sinh và có quốc tịch), còn có nhiều nghị định, thông
tư liên tịch và thông tư điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực hộ tịch. Cho đến
nay, mặc dù Nhà nước ta chưa có một đạo luật riêng về hộ tịch nhưng hệ
thống pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực hộ tịch (kể cả văn bản pháp luật điều
20


chỉnh lĩnh vực hộ tịch trong nước và hộ tịch có yếu tố nước ngoài) trong đó có
quy định về khai sinh, khai tử đã ngày càng được tăng cường và đã phát huy
hiệu quả, góp phần tích cực cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch.
BLDS năm 2015 quy định quyền khai sinh, khai tử đã được quy định
nằm trong quyền nhân thân cụ thể:
“Điều 30. Quyền được khai sinh, khai tử
1. Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh.
2. Cá nhân chết phải được khai tử.
3. Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì
phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn
giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có
yêu cầu.

4. Việc khai sinh, khai tử do pháp luật về hộ tịch quy định.”
Được khai sinh, khai tử là quyền chủ động, mà người đem lại quyền đó
là cha, mẹ, ông, bà, anh, chị, người giám hộ, người đang nuôi dưỡng trẻ bị bỏ
rơi. Khai sinh là hành vi pháp lý của cha mẹ và người đại diện cho chính
quyền (Chủ tịch xã) xác nhận sự kiện sinh ra một công dân mới cho Nhà nước.
Việc đăng ký và quản lý khai sinh, khai tử nhằm theo dõi sự biến động
dân số tại địa phương, bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và
gia đình cũng như chính sách, chế độ của mỗi cá nhân. Hơn nữa, việc đăng ký
và quản lý khai sinh, khai tử còn làm cơ sở để hoạch định chính sách phát
triển kinh tế và an sinh xã hội, dân số, an ninh quốc phòng.
Có thể thấy vị trí của quyền khai sinh, quyền khai tử có mối liên quan
mật thiết với các quyền nhân thân khác được quy định trong BLDS. Mối liên
quan giữa quyền khai sinh, khai tử với các quyền nhân thân khác được thể
hiện ở chỗ quyền khai sinh, khai tử vừa có ảnh hưởng trực tiếp đối với các
quyền nhân thân khác, khi thực hiện các quyền nhân thân khác thì trong nội
dung của các quyền này cũng chịu ảnh hưởng của việc thực hiện nội dung của
21


quyền khai sinh, khai tử.
1.2.2. Sự tác động và ảnh hưởng của quyền khai sinh, khai tử tới các
quyền nhân thân khác
Có thể khẳng định rằng quyền khai sinh, khai tử ảnh hưởng trực tiếp, có
mối liên quan đến việc thực hiện một số quyền nhân thân. Trong việc thực hiện
nội dung các quyền nhân thân, quyền khai sinh, quyền khai tử có thể được dẫn
chiếu để khẳng định quyền của chủ thể.
Quyền của cá nhân đối với họ, tên là quyền nhân thân liên quan đến sự
cá biệt hóa được BLDS quy định. Trong các quyền nhân thân thì quyền nhân
thân mang tính cá biệt hóa cá nhân thể hiện rất rõ đặc trưng của luật Dân sự.
Khi tham gia quan hệ mỗi cá nhân độc lập với nhau và độc lập với các chủ thể

khác của quan hệ pháp luật. Việc phân biệt cá nhân này với cá nhân khác và
phân biệt cá nhân với chủ thể khác của quan hệ pháp luật không những có ý
nghĩa trong việc xác định rõ quyền, nghĩa vụ của chủ thể mà còn có ý nghĩa
trong việc xác định trách nhiệm pháp lý của chủ thể khi tham gia quan hệ pháp
luật nói chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng.
Mỗi cá nhân sinh ra đều có tên gọi của mình do bố mẹ hoặc ai đó đặt
cho để phân biệt cá nhân đó với những cá nhân khác và đó là quyền của mỗi cá
nhân. Trên thực tế thì quyền này mặc nhiên là có để mỗi cá nhân có thể phân
biệt nhau. Có nhiều dấu hiệu để phân biệt cá nhân này với cá nhân khác nhưng
có lẽ tên gọi là dấu hiệu đầu tiên để cá biệt hóa cá nhân. Mặc dù một người có
thể có nhiều tên gọi khác nhau như tên khai sinh, tên thường gọi, biệt hiệu, bí
danh… Họ tên không chỉ đơn thuần là yếu tố về mặt nhân thân mà nó còn là
yếu tố pháp lý quan trọng để cá nhân xác lập thực hiện quyền cũng như nghĩa
vụ, trách nhiệm pháp lý nhân danh chính mình. Do vậy, họ tên của một người
cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận bằng việc cấp giấy
khai sinh cho một người. Khi cá nhân tham gia quan hệ pháp luật, mỗi cá nhân
chỉ được công nhận mang một tên riêng để phân biệt với những cá nhân khác.
22


Đó là tên của người đó được ghi trong giấy khai sinh. Quyền đối với họ tên là
quyền nhân thân của cá nhân, cá nhân có quyền này kể từ khi sinh ra. Tuy
nhiên, việc thực hiện quyền này lại không do chính họ thực hiện mà lại hoàn
toàn phụ thuộc vào người có trách nhiệm đi khai sinh. Như vậy, để thực hiện
quyền có họ, tên thì cá nhân đó phải được đăng ký khai sinh và như vậy đồng
nghĩa với việc bảo đảm quyền được khai sinh.
Quyền kết hôn là quyền nhân thân được BLDS quy định, ngoài ra trong
Luật Hôn nhân và gia đình cũng ghi nhận nguyên tắc này và cụ thể hóa trong
các quy định có liên quan về điều kiện đăng ký kết hôn. Hai bên nam, nữ phải
đủ điều kiện do luật quy định mới được cơ quan Nhà nước thực hiện đăng ký

kết hôn mà một trong những điều kiện Luật Hôn nhân gia đình quy định về độ
tuổi kết hôn. Do vậy, giấy khai sinh là một trong những giấy tờ để làm cơ sở
đối chiếu để thực hiện việc đăng ký kết hôn.
BLDS ghi nhận quyền của cá nhân đối với việc thay đổi họ, tên. Cá
nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay
đổi họ, tên của mình hoặc theo yêu cầu của những người do pháp luật quy
định nếu đáp ứng đủ các yêu cầu về điều kiện. Tuy nhiên họ, tên cần thay đổi
là họ, tên đã được đăng ký khai sinh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu
tên đó chưa được đăng ký khai sinh thì không thể thực hiện yêu cầu thay đổi.
Do vậy, để thực hiện yêu cầu thay đổi họ, tên thì người thay đổi họ, tên đó buộc
phải có tên khai sinh và giấy khai sinh là giấy tờ buộc phải có khi thực hiện
việc thay đổi họ, tên.
Theo quy định về quản lý hộ khẩu thì muốn xóa tên một người đã chết
trong sổ hộ khẩu gia đình, chủ quản lý hộ khẩu phải căn cứ vào giấy chứng tử
của chính quyền xã và đây là quy định không thể thiếu trong thủ tục này.
Tóm lại, quyền khai sinh, khai tử là một loại quyền nhân thân nằm trong
nhóm các quyền nhân thân có liên quan đến sự cá biệt hóa cá nhân, thể hiện sự
công nhận của Nhà nước đối với các giá trị tinh thần của cá nhân. Tuy nhiên,
23


trong mối liên quan với các quyền nhân thân khác thì quyền khai sinh, khai tử
lại ảnh hưởng trực tiếp, tác động qua lại với các quyền nhân thân này. Đây
chính là biểu hiện của sự thống nhất trong các quy định của pháp luật về quyền
nhân thân của cá nhân nói riêng và quyền dân sự của cá nhân nói chung. Việc
xác định rõ mối liên hệ giữa quyền nhân thân với quyền khai sinh, khai tử có ý
nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo thực hiện quyền của cá nhân đối với các
quyền nhân thân của mình được pháp luật thừa nhận. Ngoài ra đây cũng chính
là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền có cơ chế thích hợp trong việc bảo
vệ quyền nhân thân của cá nhân.

1.3. Nội dung quyền khai sinh khai tử theo pháp luật Việt Nam
Nội dung quyền khai sinh, khai tử được quy định trong BLDS năm 2015
và Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ nhất, về nội dung quyền khai sinh:
Theo quy định tại Khoản 1,3,4 của Điều 30 BLDS năm 2015: “Quyền
khai sinh khai tử: 1. Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh. 2. Trẻ em
sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì phải được khai
sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì không phải khai
sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu. 3. Việc khai sinh, khai
tử do pháp luật về hộ tịch quy định.”
Quyền được khai sinh là quyền cơ bản của mỗi con người và được quy
định theo pháp luật hộ tịch tại Điều 35, 36 Luật Hộ tịch năm 2014. Ở khoản 3
Điều 30 quy định về thời điểm bắt đầu được phép khai sinh cho đứa trẻ. Văn bản
thể hiện sự kiện hộ tịch khai sinh là Giấy khai sinh. Giấy khai sinh là giấy tờ tùy
thân sớm nhất của một cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp để
xác nhận pháp lý về sự hiện diện của cá nhân đó và chứng nhận sự sinh ra của
một cá nhân. Giấy khai sinh thường có ghi về họ, tên, chữ đệm, thông tin về
ngày, tháng, năm sinh, thông tin về giới tính, dân tộc, quốc tịch, quê quán thông
tin về quan hệ cha, mẹ, con hoặc các thông tin cơ bản khác tùy theo quy định
24


đặc thù của từng quốc gia. Giấy khai sinh là giấy tờ tùy thân có giá trị suốt cuộc
đời và từ khi có giấy khai sinh thì cá nhân có đầy đủ quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật đã quy định.
Việc khai sinh giúp các cơ quan nhà nước quản lý về các vấn đề liên quan
tới dân số.
Thứ hai, về nội dung quyền khai tử
Theo quy định Khoản 2 3 4 Điều 30 BLDS năm 2015, cá nhân chết phải
được khai tử như sau:

“2. Cá nhân chết phải được khai tử.
3. Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì
phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì
không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu.
4. Việc khai sinh, khai tử do pháp luật về hộ tịch quy định.”
Bên cạnh đó, cá nhân chết phải được khai tử và quy định theo pháp luật
hộ tịch tại điều 32, 33, 34 Luật Hộ tịch năm 2014. Ở khoản 3 Điều 30 BLDS năm
2015 có quy định về khai tử cho trẻ sơ sinh. Văn bản thể hiện sự kiện hộ tịch
Khai tử là Giấy Khai tử. Giấy khai tử được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp cho gia đình người đã mất xác nhận tình trạng của người chết. Giấy chứng tử
về mặt pháp lý là căn cứ rõ ràng nhất xác định thời điểm chết của người được
khai tử – căn cứ để xác định thời điểm mở thừa kế, diện thừa kế, di sản thừa kế.
Việc khai tử giúp các cơ quan nhà nước quản lý về các vấn đề liên quan tới
dân số.
Có thể thấy, khoản 3 Điều 30 là quy định về thời gian khai sinh khai tử cho
trẻ sơ sinh. Tuy nhiên tại cuối khoản 3 có quy định “nếu sinh ra mà sống dưới
hai mươi bốn giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ
đẻ có yêu cầu”. Bất kì cá nhân nào sinh ra đều có quyền được khai sinh và khai
sinh là sự cộng nhận về sự tồn tại, về quyền, về nghĩa vụ cho các cá nhân đó.
Việc pháp luật, không yêu cầu khai sinh với những đứa trẻ sống dưới hai bốn giờ
25


×