A- ĐẶT VẤN ĐỀ
I- Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta được bắt đầu từ cuối
năm 1960. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III( 9- 1960) của Đảng lao động Việt
Nam đã quyết nghị “ Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta
là cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển cơng
nghiệp nặng”. Sự nghiệp đó đến nay vẫn cịn tiếp tục.
Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh và
điều kiện:
- Trong suốt thời gian tiến hành công nghiệp hóa, tình hình trong nước và
quốc tế ln diễn biến rất sôi động, phức tạp và không thuận chiều. Bắt đầu cơng
nghiệp hóa được bốn năm thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Đất nước phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng; miền Nam thực hiện cách mạng
giải phóng dân tộc. Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội được vài
năm thì kẻ thù gây ra chiến tranh biên giới. Chiến tranh biên giới kết thúc lại kéo
theo cấm vận của Mỹ.
- Nếu những năm 60, hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, phát triển nhanh
không thua kém nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, có uy tín trên
thế giới đã tạo ra hồn cảnh quốc tế thuận lợi cho cơng nghiệp hóa ở nước ta, thì
sang những năm 70, 80 hồn cảnh quốc tế lại gây bất lợi cho quá trình cơng
nghiệp hóa ở nước ta. Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa của thế giới( 1973) các nước
xã hội chủ nghĩa do chuyển dịch cơ cấu và đổi mới công nghệ chậm hơn so với
các nước tư bản chủ nghĩa, hiệu quả thấp, uy tín trên thị trường quốc tế giảm, cộng
các sai lầm khác đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, làm mất
đi thị trường lớn và sự giúp đỡ không nhỏ từ các nước này( ước tính 1 năm 1 tỷ đơ
la, chiếm 7% GDP ).
1
Cơng nghiệp hóa ở nước ta xuất phát từ điểm rất thấp về phát triển kinh tếxã hội, về phát triển lực lượng sản xuất và từ trạng thái không phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất.
Năm 1960 công nghiệp chiếm 18,2% thu nhập quốc dân sản xuất, 7% lao
động xã hội trong các ngành kinh tế quốc dân; nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương ứng
là 42,35 và 83%; sản lượng lương thực bình quân đầu người dưới 300 kg; GDP
bình qn đầu người khoảng dưới 100 đơ la. Trong khi phân công lao động xã hội
chưa phát triển và lực lượng sản xuất ở trình độ thấp thì quan hệ sản xuất đã được
đẩy lên trình độ tập thể hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu. Đến năm 1960: 85,8%
tổng số hộ nông dân vào hợp tác xã; 100% hộ tư sản được cải tạo trong tổng số tư
sản công thương nghiệp thuộc diện cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể vào hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp
Đứng trước thực trạng này Đảng ta đã quyết định xóa bỏ cơ chế hành chính,
quan liêu, bao cấp, và xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lược lượng sản xuất ở nước ta hiện nay để thúc đẩy q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa , nhanh chóng đi lên chủ nghĩa cộng sản.
Chính vì những lý do trên mà em quyết định chọn đề tài: “Vấn đề đổi mới
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam”. Em nghĩ rằng việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp em và các
bạn tìm hiểu về vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam liệu có phải là tất yếu và liệu nó
có tuân theo một quy luật nào của tự nhiên hay không?.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Duy Anh, người đã hướng dẫn
và giúp đỡ em trong suốt q trình học tập cũng như trong việc hồn thành bài tiểu
luận đầu tay này.
2
B- NỘI DUNG
I- Cơ sở triết học của đề tài
1- Phương thức sản xuất
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức sản
xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Với một cách thức nhất định của
sự sản xuất xã hội, trong đời sống xã hội sẽ xuất hiện những tính chất, kết cấu và
những đặc điểm tương ứng về mặt xã hội.
Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi
xã hội cụ thể, sự thay đổi phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính
chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội... được chuyển
sang một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân
biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Dựa vào phương
thức sản xuất đặc trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta hiểu thời đại lịch sử đó
thuộc về hình thái kinh tế xã hội nào. C. Mác viết: “ Những thời đại kinh tế khác
nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào”
(1).
Phương thức sản xuất, cách thức mà con người ta tiến hành sản xuất chính
là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản
xuất tương ứng.
3
2- Lực lượng sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C. Mác gọi là “
quan hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội: quan hệ của người với tự
nhiên và quan hệ của con người với nhau.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên.
Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự
nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được chủ
nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất nói lên năng lực thực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra
của cải xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kinh nghiệm sản
xuất, kỹ năng lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật
chất.Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước
hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Trong đó, “
lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động”( 2).
Do đặc trưng sinh học- xã gội riêng có của mình, cong người, trong nền sản
xuất có sức mạnh và kỹ năng lao động thần kinh cơ- bắp. Trong lao động sức
mạnh và kỹ năng ấy đã được nhân lên gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động của con
người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ. Trí tuệ con người
khơng phải là cái gì siêu tự nhiên,mà là sản phẩm của tự nhiên và của lao động.
Nhưng trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội lồi người, trí tuệ hình thành phát
triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn.
Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều kiện của khoa học công
nghệ hiện nay, đã làm cho con người trở thành một nguồn kực đặc biệt của sản
xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
4
Trong tư liệu lao động có cơng cụ lao động và những tư liệu lao động khác
cần thiết cho việc vận chuyển bảo quản sản phẩm....
Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động vào
nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động khơng phải là tồn
bộ giới tự nhiên mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
Con người khơng chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động sẵn có, mà
còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất có liên
quan đến việc đưa những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất.
Điều đó hồn tồn có tính quy luật bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả
năng sản xuất của con người. Đối tượng lao động chính là yếu tố vật chất của sản
phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm các loại:
+ Loại có sẵn trong tự nhiên. Loại này thường là đối tượng của các ngành
công nghiệp khai thác.
+ Loại đã qua chế biến, nghĩa là đã có sự tác động của lao động gọi là
nguyên liệu. Loại này thường là đói tượng của các ngành công nghiệp chế biến.
Với sự phát triển của Cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại, vai trò của
nhiều đối tượng lao động dần dần thay đổi, đồng thời loại đối tượng lao động có
chất lượng mới được tạo ra. Nhưng cơ sở của mọi đối tượng lao động vẫn là đất
đai, tự nhiên: “ lao động là cha, còn đất là mẹ của mọi của cải vật chất”( 3).
Tư liệu lao động: là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền
dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng
lao động theo mục đích của mình.
Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động, hệ thống các yếu tố vật chất
phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất( nhà xưởng, kho tàng, bến bãi,
ống dẫn, băng chuyền, đường sá, các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên
lạc...).
Trong các yếu tố hợp thành tư liệu lao động thì cơng cụ lao động có ý nghĩa
quyết định nhất, là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động,
theo Ph. Ăngghen là “ khí quan của bộ óc con người”, là “ sức mạnh của tri thức
5
đã được vật thể hóa” có tác dụng “ nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ
của con người. Còn Mác gọi là hệ thống xương cốt và cơ bắp của nền sản xuất
Công cụ lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với
đối tượng lao động. Trong quá trình sản xuất, cơng cụ lao động ln ln được cải
tiến, tinh xảo hơn để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn. Nó là yếu tố
động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Cùng với sự biến đổi vá
phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng sản xuất, kiến
thức khoa học của con người cũng tiến bộ, phong phú thêm, những ngành sản xuất
mới xuất hiện, sự phân cơng lao động phát triển. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và
hồn thiện khơng ngừng của nó đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư
liệu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là ngun nhân sâu xa xa của mọi biến cải xã
hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự
nhiên của con người, là cơ sở xác định trình dộ phát triển của sản xuất, là tiêu
chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Đối với mỗi thế hệ mới,
những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát của sự phát
triển tương lai. Vì vậy những tư liệu đó là cơ sở kế tục của lịch sử.
Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao
động, khi chúng kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và kinh
nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa
đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng khơng thể phát huy được
tác dụng, khơng thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.
Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C. Mác đã nêu một tư tưởng
quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã
hội. C. Mác viết: “ Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, lồi người thay đổi
phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm
sống của mình, lồi người thay đổi tất cả quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay
quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại
xã hội nhà tư bản công nghiệp”( 4).
6
3- Quan hệ sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm lực
lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “ quan hệ song trùng” của bản thân
sự sản xuất xã hội- quan hệ của con người với tự nhiên; còn khía niệm quan hệ
sản xuất biểu thị mặt thứ hai của quan hệ đó- quan hệ của con người với con người
trong sản xuất. Sở dĩ qúa trình sản xuất xã hội có thể diễn ra bình thường, chính là
vì trong sự sản xuất đó, mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống
nhất với mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Trong sản xuất, mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên thể hiện thành những trình độ khác nhau của lực
lượng sản xuất. Tuy nhiên, mối quan hệ đó được xây dựng trong và thông qua
những quan hệ khác nhau giữa người với người, tức là những quan hệ sản xuất.
Trong tác phẩm Lao động làm thuê và tư bản, C. Mác viết: “ Trong sản xuất, người
ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu
không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi
hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và
quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản
xuất”( 5).
Như vậy, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta, dù
muốn hay khơng cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với
nhau. những quan hệ này mang tính tất yếu và khơng phụ thuộc vào ý muốn của ai
cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất( 6). Cố nhiên, quan hệ sản xuất là do con
người tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu, khách quan sự vận động
của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây:
+ Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc tổ chức quản lý.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
7
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất thuộc
đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là
cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong q trình sản
xuất xã hội ln gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương
đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất
của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ phong
phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống
quan hệ sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó tác động tới nền
sản xuất xã hội nói riêng và tới tồn bộ tiến trình lịch sử nói chung.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu
đối với tư liệu sản xuất- biểu hiện thành chế độ sở hữu- là đặc trưng cơ bản của
phương thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tếxã hội xác định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất ln ln có vai trị quyết định
đối với tất cả các quan hệ xã hội khác . Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan
hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất. Chính quan hệ sở hữuquan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy
định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị
của từng tập đoàn người trong hệ thống sản xuất lại quy định cách thức mà các tập
đoàn trao đổi hoạt động cho nhau, quy định cách thức mà các tập đồn tổ chức
quản lý q trình sản xuất. Cuối cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định
phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối
với hệ thống sản xuất xã hội. “ Định nghĩa quyền sở hữu tư sản khơng phải là gì
khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”.( 7).
Trong các hình thái kinh tế- xã hội mà lồi người đã từng trải qua, lịch sử đã
chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất:
sở hữ tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó tư
liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ cơ sở đó nên về
mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ
8
chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất là tài sản chung
của cả cộng đống nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất và trong đời sống
xã hội nói chung, trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Ngược
lại, trong các chế độ tư hữu, do tư liệu chỉ nằm trong tay một số ít người nên của
cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít người đó. Các quan hệ xã hội,
do vậy, trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Đối kháng xã hội trong
các xã hội tồn tại chế độ tư hữu tiềm tàng khả năng trở thành đối kháng gay gắt.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ trong các chế độ sở hữu tư
nhân của các xã hội điển hình trong lịch sử( sở hữu tư nhân của xã hội chiếm hữu
nô lệ, sở hữu tư nhân trong chế độ phong kiến và sở hữu tư nhân trong chế độ tư
bản) thì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại sở hữu này.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng chế đọ tư bản chủ nghĩa khơng
phải là hình thức sở hữu cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa xã
hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ đóng
vai trị phủ định đối với chế độ tư hữu.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý
sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ,
hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các nhân tố
xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ chức cách thức vận động của các
nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có khả năng đẩy nhanh hoặc
kìm hãm các q trình khách quan của sản xuất.
Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất ln ln có xu hướng
thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy,
việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ
hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Trong trường hợp ngược
lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế- xã hội.
Hiện nay, nhờ ứng dụng những thành tựu to lớn của khoa học quản lý hiện
đại nên vai trò của các quan hệ tổ chức và quản lý đối với sản xuất, đặc biệt đối
9
với việc điều hành sản xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản xuất ở tầm vĩ mô,
trên thực tế đã tăng lên gấp bội so với vài thập kỷ trước đây. Đây là điều rất đáng
lưu ý trong việc phân tích và đánh giá vai trị của các quan hệ sản xuất hiện đại.
Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức- quản lý, trong hệ thống các quan hệ
sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố
có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vân động của toàn bộ nền kinh tế- xã hội.
Mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu và vào trình độ tổ chức quản lý
sản xuất, song do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên
các quan hệ phân phối là “ chất xúc tác” của các quá trình kinh tế- xã hội. Quan hệ
phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn
bộ đời sống kinh tế- xã hội; hoặc trong trường hợp ngược lại, nó có khả năng kìm
hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
4- Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau
mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử
loài người- Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan của quan
hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản
xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều
hướng tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng, bao giờ cũng bắt đâù từ sự biến đổi
và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là của công cụ lao động. Do vậy,
lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự biến đổi của phương
thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử
lồi người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch
10
sử đó. Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người
thơng qua việc sử dụng cơng cụ lao động thực hiện q trình cải biến giới tự nhiên
nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ của lực lượng sản
xuất thể hiện ở:
+ Trình độ tổ chức lao động xã hội.
+ Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
+ Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.
+ Trình độ phân cơng lao động.
Trình độ của phân cơng lao động thể hiện rõ ràng nhất trình độ của lực
lượng sản xuất.
Bên cạnh khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất, cịn có khái niệm tính
chất của lực lượng sản xuất. Chính Ph. Ăngghen đã sử dụng khái niệm này để
phân tích lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Tính chất
của lực lượng sản xuất là tính chất của q trình sản xuất ra sản phẩm. Quá trình
này phụ thuộc vào tính chất của tư liệu sản xuất và lao động. Lực lượng sản xuất
có tính chất cá nhân thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng cơng cụ thủ
cơng và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ. Những công cụ sản xuất như
búa, rìu, cày bừa, xa quay sợi... do một người sử dụng để sản xuất vật dùng, không
cần tới lao động tập thể, lực lượng sản xuất cóa tính chất cá nhân. Khi máy móc ra
đời địi hỏi phải có nhiều người mới sử dụng được, để làm ra một sản phẩm cần
phải có sự hợp tác của nhiều người. Mỗi người làm một bộ phận cơng việc mới
hồn thành được sản phẩm ấy cho nên lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội
hóa. Ph. Ăngghen đã nhận định giai cấp tư sản “ không thể biến những tư liệu sản
xuất có hạm ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh mà lại không biến
chúng từ chỗ là tư liệu sản xuất do cá nhân sử dụng thành những tư liệu sản xuất
xã hội, chỉ có thể được sử dụng chung bởi một số đông người”( 8). Trên thực tế,
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất khơng tách biệt với nhau.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển do lực lượng sản
xuất quyết định.
11
Trong quá trình sản xuất để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao
hơn, con người luôn luôn tìm cách cải tiến, hồn thiện cơng cụ lao động và chế tạo
ra những công vụ lao động mới, tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển
của cơng cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản
xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành
yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối
ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình
thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung
quyết định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội dung thay đổi trước,
sau đó hình thức mới biến đổi theo. Tất nhiên, trong quan hệ với nội dung , hình
thức khơng phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với việc phát triển
của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình
thành, biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp đó là động lực cho lực lượng sản xuất pats triển mạnh mẽ. Nhưng, lực
lượng sản xuất ln phát triển cịn quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn
định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất
khơng cịn phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó,
sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát
triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng
một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của lực
lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới
cũng có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất đã lỗi thời và sự ra
đời của một phương thức mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của các
cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng
xã hội. C. Mác đã nhận định: “ Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các
12
lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện
có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc
cách mạng xã hội”( 9). đó là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản
xuất đối với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng
thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình
thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó đó để phát triển, nó tác động trở lại
đối với lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc lìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời khơng cịn phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở
thành “ xiềng xích trói buộc” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song
tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ
bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất( thúc đẩy hoặc kìm hãm), vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định
hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân
phối phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó ảnh hưởng
đến thái độ của quảng đại quần chúng lao động- lực lượng sản xuất chủ yếu của xã
hội; nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ
lao động, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và
phân công lao động....
13
Tuy nhiên, khơng được hiểu một cách giản đơn tính tích cực của quan hệ
sản xuất chỉ là vai trị của những hình thức sở hữu. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là
một hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm cả ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản
lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới trở thành
động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động của
quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: công xã
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và phương thức sản
xuất cộng sản tương lai.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế kế
tiếp nhau từ thấp lên cao của các phương thức sản xuất. Nhưng không phải bất cứ
nước nào cũng phải nhất thiết, tuần tự trải qua tất cả các phương thức sản xuất mà
loài người đã biết đến. Thự tế phát triển của lịch sử nhân loại cho thấy, tùy theo
điều kiện lịch sử- cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một hoặc một số phương thức
sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất mới cao hơn. Đó chính là sự biểu hiện
của quy luật chung trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Quy luật chung chi phối
sự vận động phát triển của tất cả các nước; cịn hình thức, bước đi cụ thể lại tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
14
II- Cơ sở lý luận của q trình cơng nghiệp hóa- hiện đại
hóa
1-Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ cơng là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển
và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2- Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất- kỹ thuật
tương ứng.
15
Cơ sở vật chất của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của
lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật( công nghệ) tương ứng mà
lực lượng lao động xã hội sử dụng, tác động vào để sản xuất ra của cải vật chất
đáp ứng nhu cầu xã hội.
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất- kỹ thuật của một xã hội
là: sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học- kỹ
thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất
thống trị.
Nói cơ sở vật chất- kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ
sở vật chất- kỹ thuật đó đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương
thức sản xuất đó được khẳng định sự thay thế phương thức sản xuất cũ và được
phát triển đúng trên cơ sở bản thân nó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất- kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Cơ sở vật chất- kỹ
thuật của chủ nghĩa tư bản, đặc trưng của nó là nền đại cơng nghiệp cơ khí hóa và
chỉ khi xây dựng xong cơ sở đó, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới trở
thành phương thức sản xuất thống trị.
Chủ nghĩa xã hội- giai doạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ
nghĩa tư bản- đòi hỏi một cơ sở vật chất- kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ
kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học- kỹ thuật
hiện đại.
Do vậy có thể hiểu: Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền
công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa
trên trình độ khoa học- cơng nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch
và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
quan và được thực hiện thơng qua cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là vì: cơ sở
vật chất- kỹ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên quan đến sự
16
phát triển về chất đối với lượng sản xuất, và năng suất lao động; đối với việc đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội và đối với sự thắng
lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội.
Có hai loại nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội: các nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, các nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa( các nước có nền kinh
tế kém phát triển).
Đối với những nước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những nước này
đã có sẵn nền đại cơng nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại cho nên chỉ cần điều
chỉnh nền đại cơng nghiệp đó theo u cầu của chủ nghĩa xã hội thì về cơ bản đã
có cơ sở vật chất- kỹ thuật của xã hội mới. Do đó, vấn đề cơng nghiệp hóa khơng
cần phải đặt ra. Sở dĩ chúng ta phải điều chỉnh nền đại công nghiệp cơ khí của chủ
nghĩa tư bản theo yêu cầu của xã hội vì nền đại cơng nghiệp cơ khí của chủ nghĩa
tư bản dù hiện đại đến đâu chỉ là tiền đề vật chất cho xã hội mới chứ chưa phải là
cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội vì nó dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
phân bố khơng đều giữa xá ngành, vùng do đó tất yếu phải điều chỉnh nó.
Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, những nước này nền kinh tế lạc
hậu chủ yếu dựa vào sản xuất nơng nghiệp. Vì vậy, muốn có cơ sở vật chất- kỹ
thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại thì phải tất yếu tiến hành cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu khách quan vì:
+ Nó là con đường duy nhất để tạo ra sự phát triển về chất đối với lực lượng
sản xuất và năng suất lao động. Chất của lực lượng sản xuất là hệ thống công cụ
lao động hiện đại với trình độ cơng nghệ hiện đại.
+ Cơng nghiệp hóa tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần
ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội bởi vì cơng nghiệp hóa sẽ làm cho
lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng, khối kượng của cải sản xuất
ra ngày càng nhiều tù đó mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã
hội nói chung và của con người nói riêng.
17
+ Là con đường duy nhất để đảm bảo sự thắng lợi cuối cùng vủa chủ nghĩa
xã hội.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa khơng những là tất yếu mà còn là
điều kiện sống còn của chủ nghĩa xã hội. Cơng nghiệp hóa là tất yếu khách quan
đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta.
3- Tác dụng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động,
tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển
kinh tế; do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân; góp phần
quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường vai trò kinh tế của Nhà
nước; nâng cao năng lực tích lũy, tăng cơng ăn việc làm, nhờ đó làm tăng sự phát
triển tự do và tồn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người- nhân tố trung
tâm của nền sản xuất xã hội.
- Tạo điều kiện vật chất cho tăng cường củng cố an ninh và quốc phòng.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ, đủ
sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa cơng nghiệp
hóa với lực lượng sản xuất. Cơng nghiệp hóa là để thực hiện xã hội hóa về mặt
kinh tế, kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng và toàn diện; do vậy, Đảng ta cho rằng: “ Phát triển lực lượng sản
xuất, cơng nghiệp hóa đất nước... là nhiệm vụ trung tâm”( 10) của thời kỳ quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
4- Nội dung cơ bản của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
a- Trang bị kỹ thuật và cơng nghệ theo hướng hiện đại
trong các ngành của nền kinh tế quốc dân
18
Nội dung này được thực hiện qua hai cách:
* Tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật để
tự trang bị
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật: cuộc cách mạng kỹ thuật
mà nội dung chủ yếu của nó là cơ khí hóa xuất hiện đầu tiên ở nước Anh vào ba
mươi năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ Xĩ. Đến
khoảng giữa thế kỷ XX xuất hiện cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại.
Mờy thập niên đã qua, nhất là thập niên gần đây loài người đang chứng kiến
những thay đổi rất to lớn, trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã
hội. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có 5 nội dung chủ yếu sau
- Về tự động hóa: Máy tự động q trình, máy cơng cụ điều khiển bằng số,
rơ bốt.
- Về năng lượng: Ngoài những dạng năng lượng truyền thống( nhiệt điện,
thủy điện) ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguên tử là chủ
yếu.
- Về vật liệu mới: chỉ trong khoảng chưa đầy 40 năm lại đây các vật liệu
mới đã xuất hiện với chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà
vật liệu tự nhiên khơng có được. Thí dụ: vật liệu tổ hợp hay cịn gọi là composit
với các tính chất mong muốn; gốm zin côn hoặc các- bua- si- lích chịu nhiệt cao...
- Về cơng nghệ sinh học: cơng nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và
nuôi cấy tế bào được ứng dụng ngày càng nhiều trong cơng nghiệp, nơng nghiệp, y
tế, hóa chất, bảo vệ mơi trường...
Vào khoảng những năm 80, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật( hay công
nghệ) hiện đại chuyển sang giai đoạn thứ ba- giai đoạn có nhiều quan điểm khác
nhau đặt tên gọi cho nó. Tương ứng với giai đoạn thứ ba cuộc cách mạng này cịn
có một nội dung mới: điện tử và tin học.
- Về điện tử và tin học: một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và hấp dẫn, nhất là
lĩnh vực máy tính, diễn ra theo 4 hướng nhanh( máy siêu tính); nhỏ( vi tính); máy
tính có xử lý kiến thức( trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa( viễn tin học).
19
Cuộc cách mạng này có hai đặc trưng chủ yếu:
Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách đây hơn
100 năm C. Mác đã từng dự đoán về mối quan hệ và sự phát triển giữa khoa học
và lực lượng sản xuất. Người viết “ Thiên nhiên khơng tạo ra máy móc, đầu xe lửa
điện báo... tất cả các thứ đó là thành quả của bộ óc con người, được bàn tay con
người tạo ra là sức mạnh tri thức đã được vật hóa. Sự phát triển vốn cố định là chỉ
tiêu cho thấy rằng tri thức xã hội chung đã biến thành lượng sản xuất với mức độ
cao, và do đó cũng là chỉ tiêu nói lên mức độ phụ thuộc và biến đổi của chính
những điều kiện hoạt động xã hội với trí tuệ chung”( 11).
Nói khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nó bao gồm cả khoa
học tự nhiên- kỹ thuật lẫn khoa học- xã hội, nhất là khoa học kinh té; nó do con
người tạo ra thơng qua con người- nhân tố trung tâm- nhân tố chủ thể- đến lực
lượng sản xuất. Nó địi hỏi phải có chính sách đầu tư đúng đắn cho khoa học kỹ
thuật. Ngày nay, bất cứ sự tiến bộ nào của kỹ thuật( công nghệ) sản xuất đều phải
dựa trên những thành tựu của khoa học làm cơ sở lý thuyết cho nó.
Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học rút ngắn lại và phạm
vi ứng dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở
rộng.
ở nước ta, một nước bỏ qua chế độ tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa được tiến hành trong điều kieej thế giới đã trải qua hai
cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật diễn ra trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực
hóa. Trong hồn cảnh đó cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ở nước ta phải bao
gồm cơ khí hóa và hiện đại hóa, coi nó là “ then chốt” và coi khoa học- công nghệ
“ động lực” cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
* Việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cịn được thực hiện thơng qua
nhận chuyển giao cơng nghệ mới từ các nước tiên tiến
- Nhận chuyển giao công nghệ mới là cách đi sớm đưa nhanh nước ta lên
hiện đại gắn với con đường rút ngắn con đường phát triển hiện đại.
20
- Thực chất của việc chuyển giao công nghệ mới là sự chuyển đổi quyền sở
hữu và quyền sử dụng hàng hóa kỹ thuật cơng nghệ từ các nước cơng nghiệp tiên
tiến sang các nước có nền kinh tế kém hoặc đang phát triển.
- Nếu như hàng hóa thơng thường thì sự vận động của ló đi từ nơi có giá
thấp đến nơi có giá cao, thì trái lại hàng hóa kỹ thuật cơng nghệ lại có đặc điểm đi
từ nơi có trình độ cao đến nơi có trình độ thấp.
- Để hiện thực hóa việc chuyển giao cần coi trọng các điều kiện về vốn và
đội ngũ làm công tác nhận chuyển giao...
b- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao
động xã hội
Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa trong q trình cơng nghiệp hóa tất yếu phải phân cơng lại
lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chun mơn hóa lao động, tức là
sự chun mơn hóa giữa các ngành trong nội bộ từng ngành và giữa từng vùng
trong nền kinh tế quốc dân. Phân cơng lao động có tác dụng rất to lớn: nó là địn
bẩy của sự phát triển cơng nghệ và năng suất lao động; cùng với cách mạng khoa
học kỹ thuật nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự phân
công lại lao động xã hội trong q trình cơng nghiệp hóa tn thủ các q trình có
tính quy luật sau:
- Tỷ trọng và tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng và số tuyệt
đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
- Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động
giản đơn trong tổng lao động xã hội.
- Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất chất( dịch vụ) tăng
nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
21
ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển
khai trên cả hai địa bàn: tai chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp
phát triển theo chiều sâu.
Trong hai địa bàn này cần ưu tiên địa bàn tại chỗ; nếu cần chuyển sang địa
bàn khác( đi vùng kinh tế mới) phải có sự chuẩn bị chu đáo.
Vấn đề phân cơng lao động xã hội có liên quan chặt chẽ với việc xây dựng
cơ cấu kinh tế hợp lý.
Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: cơ cấu ngành và lĩnh vực
kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và hướng phát triển tên các vùng kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa hẹp là tổng thể quan hệ kinh tế giữa các
ngành, các lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng kinh tế... trong đó, quan hệ giữa công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ là ba bộ phận có tầm quan trọng- “ bộ xương” của
cơ cấu kinh tế. Các quan hệ này được xem xét dưới các khía cạnh: trình độ cơng
nghệ, quy mơ, nhịp điệu phát triển giữa chúng.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối
ưu( hợp lý). Xây dựng một cơ cấu kinh tế được gọi là tối ưu khi nó đáp ứng được
các yêu cầu sau:
- Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh
tế.
- Phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và
đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, ngành, xí nghiệp,
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản xuất và đời
sống ngày càng được quốc tế hóa, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “
cơ cấu mở”.
22
- Xây dựng cơ cấu kinh tế là một quá trình trải qua những chặng đường nhất
định, do vậy xây dựng cơ cấu kinh tế của chặng đường trước phải sao cho tạo
được đà cho chặng đường sau.
ở nước ta qua hàng chục năm xây dựng cơ cấu kinh tế đã đem lại những
thành công nhất định, tạo dựng được một bộ phận cơ sở vật chất, công nghệ nhất
định. Song trong việc bố trí cơ cấu kinh tế có những sai lầm không nhỏ về cơ cấu
ngành, chạy theo cơng nghiệp nặng, cơ khí q nhiều, xem nhẹ cơng nghiệp và kết
cấu hạ tầng; chạy theo quy mô lớn; công nghệ lạc hậu... Qua nhiều lần đại hội,
Nhưng kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dưới ánh sáng của sự đổi
mới nói chung, trong đó có đổi mới việc xây dựng cơ cấu kinh tế, đến nay đã đưa
lại chuyển động bước đầu quan trọng.
Thông qua cách mạng khoa học kỹ thuật và phân cơng lại lao động với
những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng ta đã
xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý: cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp- dịch vụ
gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng.
Cơ cấu nói trên ở nước ta trong thời kỳ quá độ được thực hiện theo phương
châm: kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ cơng nghệ mũi nhọn- tiên
tiến vừa tận dụng được nguồn nhân lực dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng
cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy quy mơ vừa và
nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều
kiện; giữ được nhịp độ( tốc độ) phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành,
các lĩnh vực kinh tế và các vùng trong nền kinh tế...
III- Vấn đề đổi mới quan hệ sản xuất dẫn đến phát triển lực
lượng sản xuất trong q trình cơng nghiệp hóa- hiện đại
hóa ở Việt Nam
ở nước ta trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây, đã có lúc
chúng ta tưởng rằng có thể thiết lập được một quan hệ sản xuất cao hơn, đi trước
23
để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Song kết quả lại diễn ra trái với
mong muốn của chúng ta. đó là lực lượng sản xuất khơng phát triển, tình trạng trì
trệ kéo dài, hàng hóa sản xuất rra kém chất lượng, giá thành cao không thể cạnh
tranh với hàng ngoại, lại khan hiếm không đủ để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu
dùng, đời sống nhân dân rất khó khăn.
Tình hình trên do nhiều ngun nhân chủ quan và khách quan khác nhau.
Song, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta đã áp đặt chủ quan
một quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất . Trong điều kiện lực
lượng sản xuất cịn ở trình độ thấp kém, phổ biến là sản xuất nhỏ nhưng vì muốn
tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã nhấn mạnh quá mức quan hệ sở
hữu mà chưa chú ý đúng mức tới quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối,
trao đổi. Từ đó đã dẫn đến việc mở rộng ồ ạt hai hình thức sở hữu tồn dân và tập
thể, các thành phần kinh tế khác bị ngăn cấm hoặc
xóa bỏ để chuyển sang kinh tế quốc doanh và tập thể qua các đợt cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh. Bên cạnh đó, việc duy trì q lâu cơ chế hành
chính, tập trung, quan liêu, bao cấp và kèm theo nó là sự phân phối bình qn, lợi
ích cá nhân chưa được quan tâm đúng mức đã kìm hãm sức sản xuất của xã hội.
Các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước chưa được phát huy tác dụng.
Động lực sản xuất bị giảm, người lao động xa lánh tư liệu sản xuất, thờ ơ với các
kế hoạch của tập thể và Nhà nước.
Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta gần 40 năm qua đã chứng minh rằng:
quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất không chỉ khi nó
trở nên lạc hậu, mà cả khi nó được áp đặt một hình thức đi trước quá xa so với lực
lượng sản xuất, một lần nữa quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại thể hiện rõ tính tất yếu và tính phổ
biến mạnh mẽ của nó bất chấp cả ý muốn chủ quan của con người. Dù mong muốn
đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhanh chóng thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế, chúng ta cũng không thể bất chấp quy luật, mà trái lại phải tôn
24
trọng và hành động đúng quy luật khách quan. Đó là một trong những bài học lớn
mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ.
Đảng ta đã nhận thức đúng quy luật khách quan nên đã có những đướng lối,
chủ trương đúng đắn, kịp thời. Chỉ thị 100- CT/ TƯ của ban bí thư ngày 13- 11981 về khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong lĩnh vực
nơng nghiệp là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình đổi mới. Nhưng cái mốc
quan trọng đánh dấu sự đổi mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã hội là Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986.
Với Nghị quyết Đại hội VI, chúng ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với cơ chế
hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển dần kinh tế sang cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế mới khuyến khích phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng quan hệ kinh tế với các
nước, các khu vực trên thế giới, động viên mọi người làm giàu trong khuôn khổ
luật pháp cho phép.
Đường lối của đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân lao
đọng hứng khởi hưởng ứng và đã đem lại nguồn sinh khí mới, tạo đà cho nền kinh
tế phát triển nhanh chóng và dần dần đi vào thế ổn định. Sau tám năm thực hiện
công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng trưởng
kinh tế khá, lạm phát được đẩy lùi, đời sống nhân dân được cải thiện từng bước.
Sở dĩ có sự chuyển biến đi lên theo hướng vững chắc như vậy chính là nhờ chúng
ta đã đổi mới từng bước quan hệ sản xuất cho phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, do đó đã giải phóng sức sản xuất của xã hội, khai thác được các
tiềm năng cả ở bên trong và bên ngoài, làm cho lực lượng sản xuất nước ta có
những bước phát triển nhảy vọt về chất.
Việc giải phóng lực lượng sản xuất có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta, bởi vì:
Thứ nhất: nền kinh tế nước ta còn kém phát triển do điểm xuất phát thấp,
đang ở trạng thái đan xen nhiều loại hình và thành phần kinh tế ở những trình độ
rất khác nhau như phân tán và tập trung, thủ công và hiện đại, lạc hậu và tiên
25