Tải bản đầy đủ (.doc) (350 trang)

VĂN HÓA DÂN GIANVỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔItrong CA DAO NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.36 KB, 350 trang )

HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM
NGUYỄN NGHĨA DÂN

VĂN HÓA DÂN GIAN
VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI
trong
CA DAO NGƯỜI VIỆT
Sưu tầm - Nghiên cứu - Tuyển chọn - Chú thích - Bình luận

HÀ NỘI - 2013

0


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...............................................................................................................................3
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY..............................................................................................................5
PHẦN THỨ NHẤT: DẪN LUẬN...............................................................................................6
MỞ ĐẦU: PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP SƯU TẦM NGHIÊN CỨU.............................6

1. Phạm vi sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian về tình yêu lứa đôi hôn nhân
và vợ chồng trong ca dao người Việt................................................6
2. Phương pháp sưu tầm nghiên cứu ứng dụng trong chuyên luận này..............6
CHƯƠNG I: BÀN THÊM VỀ KHÁI NIỆM VĂN HÓA, VĂN HÓA DÂN GIAN,
KHÁI NIỆM CA DAO, CA DAO TRỮ TÌNH...................................................8

I. Văn hóa và văn hóa dân gian............................................................................8
II. Khái niệm ca dao, dân ca, ca dao trữ tình.......................................................10
CHƯƠNG II: VĂN HÓA DÂN GIAN VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI, HÔN NHÂN VÀ VỢ
CHỒNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT.....................................................14


I. Ảnh hưởng của hoàn cảnh thiên nhiên địa lý, lịch sử, kinh tế,
xã hội đối với nền văn hóa nước ta..............................................................14
II. Bản chất của văn hóa dân gian Việt Nam và tác động tích cực, tiêu cực
của tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo trong ca dao tình yêu
lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng của người Việt..............................................15
III. Biểu hiện của ca dao tình yêu lứa đôi hôn nhân và vợ chồng
trên ba mặt sinh lý, tâm lý và tâm linh.........................................................16
1. Về mặt sinh lý - tình dục.........................................................................16
2. Về mặt tâm lý..........................................................................................19
3. Về mặt tâm linh.......................................................................................27
CHƯƠNG III: TÌM HIỂU VĂN HÓA DÂN GIAN VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI HÔN
NHÂN VÀ VỢ CHỒNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT Ở HAI VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG......31

I. Tính chất thống nhất nhưng đa dạng của văn hóa Việt Nam...................31
II. Tìm hiểu sự khác biệt của văn hóa dân gian về tình yêu lứa đôi,
hôn nhân và vợ chồng trong ca dao hai vùng đồng bằng sông Hồng
và đồng bằng Cửu Long.............................................................32
1. Từ khác biệt về địa bàn cư trú đến khác biệt về tính cách con người
ở hai vùng văn hóa đồng bằng sông Hồng và đồng bằng Sông
Cửu Long:..............................................................................................32
1


2. So sánh các biểu hiện văn hóa dân gian về tình yêu lứa đôi,
hôn nhân và vợ chồng trong ca dao vùng sông Hồng (mở rộng)
và ca dao vùng đồng bằng sông Cửu Long (mở rộng)...........................34
3. Về ngôn ngữ của ca dao tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng:........39
4. Đánh giá chung về tính thống nhất nhưng đa dạng, sắc thái địa phương
khác nhau của văn hóa dân gian về tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ

chồng trong ca dao người Việt vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng
bằng Cửu Long.......................................................................................41
CHƯƠNG IV: QUAN HỆ GIỮA LÒNG YÊU NƯỚC VÀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI,
HÔN NHÂN VÀ VỢ CHỒNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT...........42

I. Lòng yêu nước, tình cảm lớn nhất, thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam. .42
II. Lòng yêu nước của dân tộc ta khi có ngoại xâm được phản ánh
trong ca dao tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng....................................44
CHƯƠNG V: NGÔN NGỮ, KẾT CẤU CỦA CA DAO TÌNH YÊU LỨA ĐÔI,
HÔN NHÂN VÀ VỢ CHỒNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT............48

I. Ngôn ngữ về tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng trong ca dao người Việt. 48
1. Những đại từ nhân xưng:.........................................................................48
2. Những động từ về tình yêu lứa đôi:.........................................................51
3. Ngôn ngữ miêu tả con người, cảnh vật cây cỏ hoa lá ở nông thôn, trong
ca dao tình yêu lứa đôi................................................................................52
II. Kết cấu của ca dao người Việt về tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng......56
1. Về kết cấu “phú - tỉ - hứng” của ca dao:.................................................56
2. Về kết cấu đối đáp trong ca dao tình yêu lứa đôi....................................59
THAY LỜI KẾT LUẬN: ĐẶC ĐIỂM CA DAO TÌNH YÊU LỨA ĐÔI
HÔN NHÂN VÀ VỢ CHỒNG CỦA NGƯỜI VIỆT...............64
PHỤ LỤC 1: THỐNG KÊ CA DAO TÌNH YÊU LỨA ĐÔI, HÔN NHÂN........................67
PHỤ LỤC 2: THỐNG KÊ CA DAO ĐỒNG THÁP MƯỜI (NAM BỘ).............................68
PHỤ LỤC 3: THỐNG KÊ CA DAO TÌNH YÊU LỨA ĐÔI CÓ LỜI TỪ 2 DÒNG
ĐẾN TRÊN 10 DÒNG.........................................................................................69
PHẦN THỨ HAI: CA DAO TÌNH YÊU LỨA ĐÔI-HÔN NHÂN-VỢ CHỒNG..............70
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................349

2



Yêu nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
(Ca dao)

LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam có nền văn hóa dân gian là một bộ
phận hữu cơ rất quan trọng và trong nền văn hóa dân gian Việt Nam, văn học
dân gian là bộ phận văn hóa phi vật thể, sáng tạo của nhân dân từ ngàn xưa để
lại. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống thi ca, do đó thơ dân gian
có thể ra đời rất sớm, lời thơ, lời hát xuất hiện cùng với lao động nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp hoặc hội hè, tín ngưỡng…góp vui cùng động viên để
bớt mệt nhọc khi lao động, đồng thời giao lưu tình cảm đậm đà tính nhân văn
đối với quê hương, đất nước hoặc tình yêu nam nữ, gia đình…
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, thơ dân gian, ca dao, dân ca liên tục phát
triển, riêng với thể thơ lục bát, có thể từ thế kỷ XVI đến nay lưu truyền khắp
trong nước, lời ca dao kết hợp với làn điệu dân ca ở nhiều vùng miền văn hóa
khác nhau của Bắc, Trung, Nam nước ta.
Cho đến nay, việc sưu tầm văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng
tuy chưa đầy đủ nhưng đã được rất nhiều, trong đó ca dao tình yêu lứa đôi còn
lưu truyền ở địa phương cũng như đã xuất bản chiếm có thể trên dưới 50% số
lượng của ca dao nói chung. Cũng đã có một số nhà nghiên cứu, sưu tầm tuyển
chọn, xuất bản riêng về ca dao tình yêu lứa đôi nhưng thường là sưu tầm ca dao
thuộc nhiều chủ đề trong đó có ca dao trữ tình về tình yêu lứa đôi. Chủ đề này
cũng được các nhà nghiên cứu văn học dân gian, các giáo trình đại học, trung
học đề cập cân đối với các chủ đề khác của ca dao.
Với mong ước bước đầu tìm hiểu ca dao tình yêu lứa đôi, chúng tôi nghiên
cứu chuyên luận này dưới góc độ của văn hóa dân gian trên một số bình diện
theo sự hiểu biết có hạn của mình, đồng thời cố gắng tuyển chọn, chú thích, bình
luận đề cao cái hay, cái đẹp và phê phán cái xấu, cái lạc hậu góp phần nhỏ bé

vào “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đề cao thuần
phong mỹ tục của dân tộc ta trong phạm vi của chuyên luận.
Chuyên luận có hai phần chính:
- Phần thứ nhất: Dẫn luận bắt đầu từ khái niệm về văn hóa, văn hóa dân tộc,
văn hóa dân gian, bàn thêm về định nghĩa ca dao, dân ca, ca dao trữ tình để đi
vào vấn đề văn hóa dân gian về tình yêu lứa đôi trong ca dao người Việt.
- Phần thứ hai: Sưu tầm, tuyển chọn, chú thích bình luận hơn 1800 lời ca
3


dao trong phạm vi chuyên luận.
Nghiên cứu chuyên luận này chúng tôi được “thừa hưởng” nhiều công trình
quý báu từ sưu tầm đến nghiên cứu ca dao tình yêu lứa đôi, trong đó phải “ghi
công đầu” cho bộ sách “Kho tàng ca dao người Việt” (2 tập, 3080 trang khổ
16x24cm) do các giáo sư Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật đồng chủ biên.
Nhân dịp này, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các nhà sưu tầm và nghiên cứu
đã đi trước về ca dao của người Việt, có sai sót gì của riêng chúng tôi trong tiếp
nhận ý kiến, nhận định, xin được miễn thứ. Riêng về nội dung chuyên luận này,
xin được cảm ơn GS.TS. Nguyễn Xuân Kính đã có một số gợi ý quan trọng về
văn hóa dân gian vùng đối với ca dao tình yêu lứa đôi.
Cuối cùng, kính mong được sự góp ý của các nhà sưu tầm, nghiên cứu văn
hóa, văn học dân gian. Trân trọng cảm ơn.
Mùa thu năm Quý Tỵ (2013)
Tác giả
NGND. Nguyễn Nghĩa Dân

4


QUY ƯỚC TRÌNH BÀY

Nghĩa của những chữ viết tắt:
BK

: Bản khác

Bl

: Bình luận

Cd

: Ca dao

NXB

: Nhà xuất bản

Sđd

: Sách đã dẫn

Tn

: Tục ngữ

X.

: Xem

X.B.84


: Xem lời ca dao vần B số 84 (ví dụ)

5


PHẦN THỨ NHẤT

DẪN LUẬN
MỞ ĐẦU

PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP SƯU TẦM NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian về tình yêu lứa đôi hôn
nhân và vợ chồng trong ca dao người Việt*
Trong chuyên luận này, dưới góc độ văn hóa dân gian, chúng tôi tập trung
sưu tầm, nghiên cứu về tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng trên một số bình
diện: Quan hệ giữa hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, xã hội với văn hóa dân
gian của nước ta đã ảnh hưởng tích cực, tiêu cực được phản ánh trong ca dao của
người Việt về tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng trên phạm vi cả nước, tìm
hiểu sự thống nhất và khác biệt của biểu hiện ca dao nói trên ở hai vùng miền
văn hóa dân gian điển hình là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long; tìm hiểu thêm về ngôn ngữ và kết cấu của ca dao nói trên, cuối cùng rút ra
những đặc điểm của ca dao tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng của người
Việt chủ yếu từ việc nghiên cứu các bình diện trên. Chuyên luận này nghiên cứu
ca dao tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng từ trước 1945 đồng thời cũng đề
cập đến ca dao chủ đề này từ 1945 đến 1975(1).
Tình yêu lứa đôi là con đường để đi đến hôn nhân và vợ chồng. Tất nhiên
vợ chồng sẽ sinh con cái và quan tâm đến hôn nhân còn có tác động của gia đình
(phía cha mẹ), nói chung cần sự đồng thuận và cũng có khi quyết định nhưng dù
sao vẫn là tác động bên ngoài của tình yêu lứa đôi và hôn nhân. Cho nên chuyên

luận này không mở rộng đến nội dung toàn diện của gia đình vì quan hệ gia đình
còn có các bổn phận, nhiệm vụ của cha mẹ với con cái (và ngược lại) cùng nhiều
mối quan hệ khác như quan hệ với ông bà, bà con nội ngoại nhưng không thuộc
phạm vi nghiên cứu của chuyên luận này.
2. Phương pháp sưu tầm nghiên cứu ứng dụng trong chuyên luận này
Chúng tôi theo phương pháp truyền thống về nghiên cứu văn học dân gian
nói chung cũng như nghiên cứu ca dao nói riêng là trên cơ sở sưu tầm, chọn lọc
kết hợp thống kê khảo sát tổng thể hoặc chọn mẫu theo nội dung để quy nạp,
nhận xét nội dung và thi pháp của ca dao người Việt về tình yêu lứa đôi, hôn
*

Mục đích của tình yêu lứa đôi là hôn nhân và vợ chồng nên tên đầy đủ của chuyên luận này là “Văn hóa dân
gian về tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng trong ca dao người Việt”.
(1)
Thời gian 1945-1975 nhân dân ta chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, nhận thức và tình cảm giữa yêu nước và
tình yêu lứa đôi của thanh niên ta được phản ánh trong ca dao thì lòng yêu nước luôn luôn là tình cảm vượt trội.

6


nhân và vợ chồng(1).
Tư liệu về lời ca dao tình yêu, lứa đôi hôn nhân và vợ chồng được sưu tầm
để nghiên cứu khá phong phú với số lượng sơ bộ thống kê từ nhiều công trình
lớn nhỏ (đã được xuất bản) cho thấy có đến trên dưới 50% lời ca dao (chưa kể
lời dân ca) tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng trong tổng số ca dao về các
chủ đề khác như các quan hệ thiên nhiên, xã hội, nhân văn(2)… Tuy nhiên, ca dao
tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng vẫn còn không ít trên từng vùng văn hóa
dân gian và chắc chắn chưa được sưu tầm đầy đủ. Những ca dao tình yêu lứa
đôi, hôn nhân và vợ chồng của các vùng văn hóa phần nhiều chỉ được sưu tầm
có thể còn lẻ tẻ, do đó với tư liệu sưu tầm được, chúng tôi bước đầu nghiên cứu

vấn đề này trên hai địa bàn lớn là ca dao vùng đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng Sông Cửu Long để so sánh và nhận xét theo quan điểm lịch sử, quan điểm
địa - văn hóa từ sự phát triển kinh tế xã hội của nhân dân ta trải qua lịch sử dựng
xây đất nước.
Ngoài phương pháp nghiên cứu nói trên, chuyên luận này có phần thứ hai
về sưu tầm, tuyển chọn, chú thích và bình luận. Việc tuyển chọn lời ca dao tình
yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng được chú trọng hai mặt nội dung và nghệ
thuật với mục đích giới thiệu những lời ca dao làm nổi bật văn hóa dân gian của
người Việt nói chung hoặc vùng miền văn hóa dân gian nói riêng. Phần bình
luận các lời ca dao có định hướng gắn liền với việc xây dựng “nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (Nghị quyết V Trung ương Đảng CSVN,
Khóa VIII - 1998) do đó đề cao truyền thống tốt đẹp để phát huy, phát triển đồng
thời phê phán những quan niệm, tập tục lạc hậu, tiêu cực cần loại bỏ đã được
phản ảnh trong ca dao của người Việt về tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng.

(1)

Nguồn tư liệu chính để thống kê, khảo sát căn cứ vào công trình Kho tàng ca dao người Việt (Nguyễn Xuân
Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên), công trình “Ca dao về tình yêu lứa đôi” (Phạm Danh Môn) là hai công trình có
gần đầy đủ ca dao tình yêu lứa đôi, hôn nhân, vợ chồng (mỗi công trình trên 5000 lời) và phần “tình yêu lứa đôi”
trong sách “Thơ văn Đồng Tháp” tập 1, do Lê Trí Viễn chủ biên.
(2)
X. Phụ lục 1,2 (cuối sách)

7


CHƯƠNG I
BÀN THÊM VỀ KHÁI NIỆM VĂN HÓA, VĂN HÓA DÂN GIAN,
KHÁI NIỆM CA DAO, CA DAO TRỮ TÌNH

I. Văn hóa và văn hóa dân gian
1. Văn hóa là sản phẩm đặc biệt của con người là sự bộc lộ và phát triển
các “lực lượng bản chất của con người” (ý của Mác). Đó là một khái niệm có
nội hàm rất rộng, rộng đến nỗi ngoài thế giới thiên nhiên ra, toàn thể những
thành tựu của loài người sáng tạo về vật chất và tinh thần đều là văn hóa. Ngay
cảnh vật thiên nhiên, nếu có tác động của con người làm cho cảnh vật đẹp hơn,
có ích hơn, thì cảnh vật ấy là những nơi có văn hóa. Thuật ngữ “Văn hóa” đã
được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa trên thế giới định nghĩa, nếu tính đến năm
1952, hai nhà dân tộc học Mỹ là Kroi.bơ (A.I.Kroeber) và Kluc-hôn (CL.
Kluchohn) đã trích lục được trên dưới ba trăm định nghĩa, nhưng cho đến nay
các nhà nghiên cứu văn hóa vẫn có tham vọng tìm thêm những định nghĩa mới
về văn hóa. Dưới đây, xin nêu một số định nghĩa có tính phổ quát về văn hóa.
- Theo Từ điển triết học của Liên Xô do Rô-den-tan và Lu-din biên soạn
(NXB Sự Thật dịch năm 1976) thì “Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình. Văn hóa là một
hiện tượng xã hội tiêu biểu cho trình độ đạt được trong giai đoạn lịch sử nhất
định”.
- Theo UNESCO, “Văn hóa với ý nghĩa rộng rãi nhất của từ này, đó là
một phức thể, tổng thể các đặc trưng diện mạo về tinh thần và vật chất, tri thức
và tình cảm khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, làng, vùng,
miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương
mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá
trị, những truyền thống tín ngưỡng”. Cùng với định nghĩa trên, UNESCO còn
định nghĩa về “di sản văn hóa vật thể” và “di sản văn hóa phi vật thể” được lưu
truyền và biến đổi qua thời gian, được tái tạo của các cộng đồng. Có thể kể đó là
âm nhạc, múa, truyền thông, truyền miệng, huyền thoại, tư thế (tư thái), nghi
thức, phong tục, tập quán, y dược cổ truyền, nấu ăn và các món ăn, lễ hội, nghề
truyền thống… Dĩ nhiên “cái vật thể” và “phi vật thể” có gắn bó với nhau
(UNESCO, 1994)(1)
- Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới đã định nghĩa về văn

hóa: “Vì lẽ sinh tồn và mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
(1)

Dẫn theo Trần Quốc Vượng - Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam - NXB KHXH 1996.

8


nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa”(1)
- Theo Ngô Đức Thịnh, “hai phạm trù cơ bản của văn hóa là không gian
và thời gian. Nhân tố không gian được biểu hiện thành phạm trù thống nhất và
đa dạng của văn hóa còn nhân tố thời gian được biểu hiện thành phạm trù
truyền thống và biến đổi của văn hóa. Hai phạm trù này được M.J.Herskowitz
hiểu như là hai nghịch lý của văn hóa. Theo ông, văn hóa vừa là cái phổ quát
thống nhất của toàn nhân loại, vừa là cái riêng, cái đặc thù, cái đa dạng của
mỗi tộc người, địa phương. Văn hóa vừa là cái bền vững, trường tồn, vừa là cái
biển đổi liên tục. Cũng theo ông sự biến đổi được coi như một phần của sự bền
vững. Nói cách khác, chỉ có thể hiểu được tính bền vững khi xác định được tỷ lệ
giữa cái biến đổi và cái bảo thủ (M.J.Herskowitz - 1987)”(2)
- Ở phương Đông, theo Từ Hồng Hưng (Trung Quốc) thì từ “văn hóa” do
người Nhật dịch từ “Culture” của phương Tây vào thế kỷ XIX sau đó truyền vào
Trung Quốc, nhưng từ “văn hóa” vốn đã có từ thời Tây Hán (205 trước Công
Nguyên - 25 sau Công Nguyên) và từ xưa “văn hóa” là văn tự, giáo hóa, lễ nhạc,
điển chương, chế độ với nghĩa gốc “văn” là '”vẻ đẹp”, “hóa” nghĩa gốc là “thay
đổi một cách tự nhiên dạy dỗ, giáo hóa, sửa đổi phong tục”, “sáng tạo”, “biến
đổi”(3). Như vậy theo quan niệm phương Đông, văn hóa giáo dục con người
hướng tới cái đẹp và trong quá trình phát triển của loài người, con người phải
đấu tranh loại bỏ cái xấu có hại cho sự phát triển của con người cũng như của

cộng đồng người. Xét về lịch sử xã hội loài người, có thể phân biệt văn hóa nhân
loại, văn hóa từng dân tộc và xét về thời gian của văn hóa có văn hóa cổ đại,
trung đại, hiện đại và ở từng dân tộc cũng được phân chia như vậy phù hợp với
sự phát triển phương thức sản xuất của từng dân tộc. Xét về không gian của văn
hóa có văn hóa từng vùng ở các lục địa và trong từng quốc gia cũng có văn hóa
vùng có nguồn gốc chung của dân tộc đồng thời có đặc trưng do điều kiện kinh
tế, xã hội… tác động đến con người ở từng vùng. Văn hóa của một dân tộc vì thế
có bản sắc riêng biệt, mang dấu ấn riêng biệt. Trong quá trình phát triển của lịch
sử mỗi dân tộc, văn hóa của dân tộc ấy luôn có sự thay đổi, đào thải cái lạc hậu,
phát triển cái tốt đẹp của văn hóa dân tộc, tiếp nhận văn hóa tiến bộ của nhân
loại và dân tộc hóa những giá trị văn hóa nhân loại đó.
2. Văn hóa dân gian, bộ phận quan trọng và đa dạng nhất của nền văn
hóa dân tộc bởi lẽ đó là sản phẩm trực tiếp hình thành từ lao động vật chất và
tinh thần của nhân dân, biểu hiện phong phú, đa dạng trong văn hóa vật thể và
phi vật thể của dân tộc. Trong văn hóa phi vật thể có văn học, nghệ thuật dân
gian, một thành tố thiết yếu để cấu tạo văn hóa dân gian nói riêng và văn hóa
(1)
(2)
(3)

Hồ Chí Minh toàn tập - tập 3. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995 (tr.531)
Ngô Đức Thịnh - Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam - NXB Trẻ 2004
Nguyễn Nghĩa Trọng - Văn hóa nghệ thuật trong đổi mới, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội 2003

9


dân tộc nói chung. Có thể khẳng định từ sơ khai của loài người, với lao động,
con người sáng tạo công cụ lao động để sản xuất bằng đá, đó là văn hóa vật thể
và cùng với ngôn ngữ, lời ca hát xuất hiện, đó là văn hóa phi vật thể. Văn hóa đồ

đá và văn hóa ngôn ngữ ca hát tạo nên nguồn gốc, bản chất đầu tiên của văn hóa
dân gian của các tộc người trên thế giới, về sau thành văn hóa dân gian của từng
dân tộc.
II. Khái niệm ca dao, dân ca, ca dao trữ tình
1. Khái niệm ca dao, dân ca:
Theo nhiều nhà nghiên cứu về ca dao, dân ca như Cao Huy Đình, Minh
Hiệu… thì thuật ngữ ca dao không phải bắt nguồn từ truyền thống văn học dân
gian mà do các nhà sưu tầm soạn sách về thơ ca dân gian mượn từ sách Hán
thi, đồng thời mượn luôn cả cách định nghĩa của họ: “Ca = hát, dao = bài hát
không có chương khúc; ca dao là bài hát ngắn lưu hành trong dân gian thường
tả tình, phong tục của người bình dân”. Định nghĩa này được Dương Quảng
Hàm, biên soạn trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu”. Lúc biên soạn giáo trình
văn học dân gian về ca dao, chúng tôi có phân vân về định nghĩa nêu trên của
Dương Quảng Hàm soạn và có nhận xét “Thực ra nhân dân sáng tác ca dao là để
hát và có những bài hát có cả chương khúc như làn nhịp đuổi (thí dụ bài “Tay
cầm con dao/ Làm sao cho sắc…”) hoặc làn hát cách (thí dụ bài “Làm trai quyết
chí tu chân/ Công danh chớ vội nợ nần chớ lo…”) biến thành những bài ca dao
và ngược lại nhiều bài ca dao thể lục bát có thể hát theo những làn điệu khác
nhau và có thể có nhạc kèm theo (1). Như vậy dân ca được nhân dân sáng tác
trong khi lao động (Lỗ Tấn) hoặc trong các lễ nghi tôn giáo, trong giao lưu tình
cảm, trong cảm hứng trước cảnh vật… và có từ lâu đời trong nghệ thuật ca múa
của nhân dân với ngôn ngữ của dân tộc mình như Cao Huy Đỉnh đã nhận xét:
“Dân ca và văn vần truyền miệng của dân tộc Việt Nam đã ra đời rất sớm và ở
thời đại đồ đồng, chắc nó đã phồn thịnh và phức tạp, trình độ sáng tác và biểu
diễn cũng tương đối cao, nghệ sĩ cũng ra đời với ca công và nhạc cụ tinh tế” (2).
Thể thơ lục bát ở nước ta được sử dụng và sáng tác dân ca, ca dao có thể xuất
hiện từ thế kỷ XVI nhưng trước đó thơ dân gian với hình thức vãn 3, vãn 4…
chắc đã có từ rất xưa. Như vậy, sáng tác thơ dân gian được hình thành cùng với
dân ca, sau này gọi là ca dao (như ý kiến của Cao Huy Đĩnh đã nêu) và đại bộ
phận xuất hiện dưới thể lục bát. Có thể đồng ý với nhận xét của Đỗ Bình Trị:

“Chúng tôi coi ca dao và dân ca chỉ là những thuật ngữ khác nhau chỉ cùng một
đối tượng (của văn học dân gian truyền thống) đó là những câu hát dân gian…
Coi ca dao là một thể loại là không đúng…”(3).
(

1)

Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, tập I, Văn học dân gian, NXB Giáo dục 1961 (Chương VI - Nguyễn
Nghĩa Dân biên soạn).
(2)
Cao Huy Đĩnh - Tìm hiểu quá trình văn học dân gian Việt Nam, NXBKHXH 1996.
(3)
Đỗ Bình Trị - Nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học dân gian Việt Nam - ĐHSP Hà Nội 1 xuất bản - 1978.

10


Vũ Ngọc Phan cho rằng “Ca dao được phổ biến rộng rãi, còn dân ca gắn
liền với từng địa phương vì dân ca là sản phẩm của từng địa phương thuộc văn
hóa vùng miền khác nhau(1).
Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên cho rằng: “Ca dao là những bài hát
thường ngắn, hoặc hai, bốn, sáu, tám câu, âm điệu lưu loát và phong phú… Theo
cách hiểu thông thường thì ca dao là lời các bài dân ca đã lược bỏ đi những tiếng
đệm, tiếng láy…hoặc ngược lại là những câu thơ có thể bẻ thành làn điệu dân
ca”.
Qua nghiên cứu các cách hiểu về ca dao đã nêu trên, tóm lại mấy điểm:
+ Ca dao là lời thơ, lời ca dân gian truyền miệng + Ca dao được sáng tác
bằng thể thơ có vần từ vãn ba bốn, năm, sáu và định hình ở thể lục bát, song
thất lục bát; + Ca dao được sáng tác để ngâm hoặc để hát theo các làn điệu
dân ca, do đó ca dao và dân ca tuy hai mà một, tuy một mà hai, khi được hát

theo các làn điệu, đó là dân ca, khi tách riêng phần ngôn từ thì đó là ca dao;+
Ca dao và dân ca là tiếng nói tình cảm của quan hệ giữa người với thiên nhiên,
xã hội, tâm tình riêng tư của con người, đặc biệt quan hệ giữa người với người,
do đó đại bộ phận ca dao là ca dao trữ tình; + Cuối cùng ca dao là một thuật
ngữ do các nhà sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian mượn thuật ngữ này của
Hán thi (Trung Quốc) để nói về thơ ca dân gian Việt Nam.
Từ các cách hiểu như trên, có thể nêu nội hàm của khái niệm ca dao: “Ca
dao là thơ ca dân gian truyền miệng của văn học dân gian Việt Nam được
nhân dân sáng tác bằng ngôn từ tiếng Việt để ngâm hoặc để hát theo các làn
điệu dân ca Việt Nam với nội dung trữ tình về quan hệ giữa con người với
thiên nhiên, xã hội, bản thân về quan hệ tình cảm giữa người và người (cá
nhân hoặc tập thể) trong sinh hoạt lao động, lễ nghi, tôn giáo, nhất là trong
giao lưu đối đáp, đặc biệt trong giao duyên tình yêu lứa đôi nam nữ.
Điều dễ phân biệt giữa dân ca và ca dao là dân ca thể hiện bằng những
làn điệu của từng vùng văn hóa, từng địa phương như dân ca quan họ Bắc Ninh,
hát xoan Phú Thọ, hát giặm, hát phường vải Nghệ Tĩnh, hò mái nhì, mái đẩy
Huế, bài chòi Nam Trung Bộ, vọng cổ đồng bằng Nam Bộ… Phần lời của dân
ca được tách ra thành ca dao có ngôn từ địa phương về địa danh, về cách xưng
hô (nàng, chàng, qua, bậu…) hoặc các từ loại (toóc, rạ; hun, hôn…). Do ngôn từ
tách khỏi dân ca để trở thành ca dao sau đó lại đưa truyền miệng từ vùng này
sang vùng khác và được chú trọng nội dung nên ca dao được phổ biến rộng rãi
chắp nối, thay đổi… Nhiều lời ca dao có ở những vùng khác nhau, một số không
ít trở thành ca dao của cả nước nhất là ca dao tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ
(1)

Vũ Ngọc Phan - Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB KHXH 1978

11



chồng.
2. Ca dao trữ tình,
Về thuật ngữ, ở Tây Phương, có thể từ tên một nhạc cụ là đàn “lia” (tiếng
Pháp = lyre) hoặc “lyre” còn có nghĩa là “tài làm thơ” mà có thuật ngữ thơ trữ
tình (poemo lyrique hoặc lyrisme)(1). Ở Đông phương, thuật ngữ trữ tình có
nghĩa là “chất chứa tình cảm”, theo chúng tôi thuật ngữ này sát nội hàm của “trữ
tình” hơn.
Về lý luận, Hê-ghen cho rằng “tác phẩm trữ tình là một trong ba loại hình
cơ bản của văn học (tác phẩn tự sự, tác phẩm kịch và tác phẩm trữ tình”, ông
nhấn mạnh “cái tôi được đặt lên hàng đầu, là chủ thể phát ngôn và thái độ đối
với cái được mô tả”. Có thể hiểu thêm rằng trong tác phẩm trữ tình có sự trùng
hợp giữa khách thể và chủ thể theo chủ quan của người sáng tác và nhân vật
trung tâm của tác phẩm trữ tình cũng chính là người sáng tác ra tác phẩm trữ
tình ấy. Về chủ đề sáng tác, tác phẩm trữ tình thường nói đến các chủ đề vĩnh
cửu của con người như sống, chết, hạnh phúc, tình yêu lứa đôi, mơ ước, hy
vọng…(2)
Từ các nội dung trên, chúng ta thấy ca dao, dân ca về tình yêu lứa đôi của
người Việt rõ ràng là những tác phẩm trữ tình. Vũ Ngọc Phan đã có nhận xét:
“Ca dao xưa có tình và có cảnh, cảnh tình gắn bó với nhau mật thiết, cảnh sinh
tình và tác giả mượn cảnh để nói lên tình của mình, do đó ca dao xưa có sức
truyền cảm mạnh và sống mãi trong nhân dân”(3). Mã Giang cho rằng: “Về cơ
bản, ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những tác phẩm trong
thể loại này dù nói lên quan hệ giữa con người trong lao động, trong sinh hoạt
gia đình, xã hội hoặc nói lên kinh nghiệm sống và hành động thì bao giờ cũng là
bộc lộ thái độ chủ quan của con người đối với những hiện tượng khách quan
chứ không phải miêu tả một cách khách quan những hiện tượng, những vấn đề
cho nên ở ca dao cái tôi trữ tình được nổi lên rõ nét”(4). Cao Huy Đĩnh cho rằng:
“phong phú nhất, sâu sắc nhất là những mảng ca dao về tình yêu nam nữ. Trai
gái gặp gỡ, tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong khi lao động, hội hè
đình đám, vui xuân, họ có thể thổ lộ với nhau bằng câu ví, bằng hình thức giao

duyên trong những cuộc hát đối đáp nam nữ. Nội dung những câu ca dao này
phản ánh được mọi biểu hiện, sắc thái, cung bậc của tình yêu, những tình cảm
thắm thiết trong hoàn cảnh may mắn, hạnh phúc với những niềm mơ ước, những
nỗi nhớ da diết hoặc cảm xúc nảy sinh trước những tình huống rủi ro, ngang trái,
(1)

Theo từ điển Pháp Việt - Lê Khả Kế chủ biên - NXB KHXH 1992.
Xem thêm Từ điển Văn học (bộ mới), NXB..............(X.chữ: “Trữ tình”, do Lại Nguyên Ân biên soạn.
(3)
Vũ Ngọc Phan - Sđd.
(4)
Mã Giang Lân - Tục ngữ ca dao Việt Nam - NXBGD 1993.
(2)

12


thành bại, khổ đau với những lời than thở oán trách”(1). Tán thành ý kiến của Cao
Huy Đĩnh có thể thấy thêm cao dao trữ tình còn có những lời độc thoại, đối thoại
không chỉ đối thoại với người tình mà còn đối thoại với trời, đất, với ông Tơ, bà
Nguyệt, với tâm linh về tiền duyên, túc trái số phận mang màu sắc tâm linh.
Với các nội dung trên, có thể định nghĩa ca dao trữ tình (hoặc ca dao dân
ca trữ tình - phần lời của dân ca) của Việt Nam là thơ dân gian, đại bộ phận là
ca dao (dân ca) tình yêu lứa đôi do chủ thể sáng tác cũng chính là nhân vật trữ
tình, là nhân vật trung tâm của lời thơ nhằm bộc lộ cái tôi để biểu lộ tình cảm
chủ thể trước những khách thể khác nhau theo lăng kính chủ quan của chính
bản thân người sáng tác.
Cũng do ca dao trữ tình chủ yếu bộc lộ cái tôi trữ tình của tác giả dân gian
nên về mặt nghệ thuật, khách thể nhiều khi được miêu tả bằng hình ảnh, hình
tượng tưởng tượng, lãng mạn, hư cấu. Cho nên trong ca dao nói chung, có

những lời đơn thuần miêu tả phong cảnh đất nước, ca dao về lịch sử, phong tục,
đặc sản địa phương… thì không nên xếp vào ca dao trữ tình.

(1)

Cao Huy Đĩnh: Tìm hiểu quá trình văn học dân gian Việt Nam - NXB KHXH - 1996.

13


CHƯƠNG II
VĂN HÓA DÂN GIAN VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI, HÔN NHÂN
VÀ VỢ CHỒNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT
I. Ảnh hưởng của hoàn cảnh thiên nhiên địa lý, lịch sử, kinh tế, xã hội đối
với nền văn hóa nước ta:
Việt Nam có vị trí địa lý ở Đông nam Châu Á rộng khoảng 33 vạn ki lô mét
vuông, thuộc vùng nhiệt đới, khu vực gió mùa, mưa nắng nhiều, ở miền Bắc có
bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, nhưng ở miền Nam chỉ có hai mùa, mùa khô và
mùa mưa. Nước ta có hai sông lớn là Hồng Hà và Cửu Long tạo nên hai đồng
bằng lớn ở Bắc và Nam, đất đai phì nhiêu. Ở miền Trung do độ dốc của dải
Trường Sơn và đất hẹp nên sông ngắn, ít phù sa. Lãnh thổ nước ta trải dài dọc
theo biển Đông trên 3000km với hơn 3000 đảo lớn nhỏ trong đó có hai quần đảo
lớn là Hoàng Sa và Trường Sa, thuận lợi cho phát triển ngư nghiệp, nuôi trồng
thủy hải sản. Thiên nhiên và địa lý tạo điều kiện tốt cho nông nghiệp phát triển,
từ cổ đại nhân dân ta đã trồng lúa nước. Nước ta có 54 dân tộc, đa số là người
Việt sinh sống ở vùng đồng bằng, các dân tộc thiểu số sinh sống ở trung du,
miền núi, riêng ở Nam bộ một số dân tộc ít người như người Khơ-me, Chăm,
Hoa, Stiêng, Mạ, M’nông ở xen kẽ với người Việt trên đồng bằng Cửu Long.
Về lịch sử, người Việt cổ đã sinh sống rất xa xưa trên địa bàn phía Bắc, đến nay
đã mấy nghìn năm, bắt đầu từ thời đại Hùng Vương dựng nước. Phía Bắc nước

ta là cái nôi hình thành dân tộc với nền văn hóa Đông Sơn văn hóa Đại Việt,
Thăng Long, Hà Nội. Trong hoàn cảnh tự nhiên và xã hội đó, nhân dân ta từ xa
xưa đã có truyền thống cần cù lao động, chế ngự thiên nhiên để phát triển nông
nghiệp. Lịch sử dân tộc ta sau thời đại Hùng Vương bị phong kiến phương Bắc
đô hộ một nghìn năm trong thiên niên kỷ thứ nhất của công nguyên. Trong một
nghìn năm đó, dân tộc ta đã nhiều lần khởi nghĩa từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý
Nam Đế, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, Họ Khúc và đến Ngô
Quyền thì đất nước ta được hoàn toàn độc lập với các triều đại Ngô, Đinh, Lê,
Lý Trần, Lê trong thiên niên kỷ thứ hai sau công nguyên. Tuy nhiên, trong giai
đoạn này, đất nước ta vẫn bị xâm lăng và nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng,
chiến thắng vẻ vang chống Nguyên Mông, chống Minh, Thanh. Đến thế kỷ thứ
XIX, dưới triều Nguyễn, đất nước ta lại bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ,
mãi đến 1945 mới giành được độc lập nhưng tiếp theo đó, do âm mưu xâm lược
của Pháp, của Mỹ, nhân dân ta phải kháng chiến chống Pháp, Mỹ cho đến 1975
mới giành được độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Trong quá trình đấu tranh
đó, truyền thống yêu nước được hình thành, phát triển trở và thành một nhân tố
14


cực kỳ quan trọng cùng với truyền thống chống và chế ngự thiên nhiên, những
truyền thống đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa dân tộc, văn hóa dân gian
của nhân dân ta. Nền văn hoá của dân tộc Việt Nam ta lại nằm giữa hai nền văn
hóa Trung Hoa và Ấn Độ, từ xưa đã giao lưu và chịu ảnh hưởng của Nho giáo,
Đạo giáo, Phật giáo và từ đầu thế kỷ XIX, chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp rồi
văn hóa Mỹ và đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của các nền văn hóa này. Điều quan
trọng là nền văn hóa của Việt Nam ta đã đấu tranh tạo cho mình một bản sắc
riêng biệt: “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự tôn tự cường dân tộc, tinh
thần cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ quốc, lòng nhân ái bao
dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, đức hy
sinh cao thượng, tất cả vì độc lập dân tộc hạnh phúc của nhân dân, là sự tế nhị

trong cư xử, tính giản dị trong lối sống”(1).
II. Bản chất của văn hóa dân gian Việt Nam và tác động tích cực, tiêu cực
của tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo trong ca dao tình yêu lứa đôi,
hôn nhân và vợ chồng của người Việt
Văn hóa dân gian bắt nguồn từ văn hóa của một dân tộc, là sản phẩm vật
chất (vật thể) và tinh thần (phi vật thể) có gốc từ bản chất của nhân dân lao động
dân tộc đó. Biểu hiện sớm nhất của bản chất văn hóa dân gian của một dân tộc là
ngôn ngữ, thơ ca tự nhiên tự phát của dân gian. Trong văn hóa dân gian của
nhiều dân tộc, đây là bản chất chung, riêng đối với dân tộc Việt Nam ta, một dân
tộc có truyền thống sáng tác thi ca, ca dao là một minh chứng đậm nét nhất. Bản
chất ấy rất tự nhiên, gần gũi thiên nhiên, lời ca dao chất phác, hồn nhiên, duyên
dáng, hữu ích, có thể so sánh với nghệ thuật thơ hoàn chỉnh và cũng khiến cho
nhà thơ, nhà văn tài hoa tiếp xúc, học tập ví như câu thơ của đại thi hào Nguyễn
Du: “Thôn ca sơ học tang ma ngữ” (Câu hát thôn dã giúp ta học những tiếng nói
trong nghề trồng dâu gai).
Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử của dân tộc Việt Nam ta, ảnh hưởng, tác
động (bằng thể chế chính trị, luật pháp…) của Nho giáo, Phật giáo, phần nào của
Đạo giáo rồi văn hóa Pháp, Mỹ, nhưng sâu sắc nhất vẫn là Nho giáo. Mác nói:
“Những tư tưởng của giai cấp thống trị cũng là những tư tưởng thống trị của mỗi
thời đại, nói một cách khác giai cấp đó đang là thế lực thống trị xã hội về mặt
vật chất thì cũng là thế lực thống trị về mặt tinh thần”(2).
Phần tích cực của Nho giáo với tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã được
văn hóa dân tộc, văn hóa dân gian Việt Nam tiếp thu và Việt Nam hóa thể hiện
trong đạo làm người, điều nhân, điều nghĩa, tính thiện. Phần tiêu cực của Nho
(

(2)

1)


Phát biểu của Tổng bí thư Đảng CSVN Lê Khả Phiêu tại hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương
(Khóa VIII - 1998) bàn về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Mác Ăngghen - Hệ tư tưởng Đức - Về văn học nghệ thuật - NXB Sự thật 1958.

15


giáo tác động vào văn hóa dân tộc ta cũng rất sâu rắc. Trong một nghìn năm Bắc
thuộc, quân thù muốn đồng hóa dân tộc Việt Nam ta với Hán tộc từ tư tưởng đến
phong tục tập quán với quyền lực phong kiến về tam cương, ngũ thường, tam
tòng, tứ đức…với phụ quyền, gia trưởng làm cho dân ta đặc biệt người phụ nữ
bị chèn ép từ nhiều phía. Phật giáo vào nước ta khá sớm, đề cao từ bi, bác ái
(lòng thương người, làm điều thiện) nhưng lại tác động tiêu cực về diệt dục xem
đời người là cõi tạm hoặc không nên đấu tranh (nhưng nhân dân ta và triều Lý,
đặc biệt triều Trần vẫn đề cao đấu tranh đặc biệt trong chống ngoại xâm). Đạo
giáo ảnh hưởng tiêu cực về mê tín dị đoan, văn hóa Pháp, Mỹ không ảnh hưởng
nhiều trong dân gian Việt Nam, dân gian cũng không tiếp thu bao nhiêu phần
tích cực của các nền văn hóa này.
Tuy trong xã hội có giai cấp thống trị và giai cấp bị trị (tuyệt đại đa số là
nhân dân lao động) tư tưởng chính thống của xã hội thuộc về giai cấp thống trị
được thể chế hóa để áp đặt nhân dân lao động và toàn xã hội phải thực hiện,
nhưng với tinh thần dân tộc, sự cô kết chặt chẽ của họ tộc gia đình - làng - xã
với “phép vua thua lệ làng”, ý thức dân chủ của người lao động vẫn được duy
trì, phát triển và điều này đã được phản ánh đậm nét trong văn hóa, văn học dân
gian, trong tục ngữ, ca dao, dân ca… Trong phạm vi chuyên luận này, trên ba
mặt sinh lý, tâm lý, tâm linh, ca dao tình yêu lứa đôi hôn nhân và vợ chồng đã
biểu thị rõ bản chất của văn hóa dân gian, tuân thủ mặt tích cực của các tư tưởng
nói trên đồng thời đấu tranh để giữ vững bản chất văn hóa của mình.
III. Biểu hiện của ca dao tình yêu lứa đôi hôn nhân và vợ chồng trên ba mặt
sinh lý, tâm lý và tâm linh

1. Về mặt sinh lý - tình dục
Trời đất có âm dương sau mới có vạn vật, có vạn vật gồm hai giống đực và
cái trong thực vật cũng như trong động vật. Sau hàng triệu triệu năm, con người
xuất hiện, ban đầu có bản năng như các động vật rồi dần dần có ý thức, ngôn
ngữ, lao động. Cũng như sinh vật, con người có giống đực, giống cái, tức nam
giới và nữ giới. Sinh sôi nảy nở từ giao phối giữa nam và nữ, con người sống
thành bầy, dần dần thành bộ lạc, bộ tộc, chủng tộc, xã hội nguyên thủy theo quy
luật của tự nhiên, theo quan hệ sinh lý, tình dục. Quan hệ sinh lý, tình dục được
điều chỉnh kết hợp bản năng với ý thức. Con người nhận thức về vũ trụ, về thế
giới, tin ở sức mạnh siêu nhiên, từ đó xuất hiện các tín ngưỡng về “vạn vật hữu
linh” trong đó có tín ngưỡng “phồn thực” (phồn: nhiều; thực: nảy nở) và con
người thờ cúng sinh thực khí của nam và của nữ, nghênh rước mô hình nỏ,
nường được nhận thức là thiêng liêng… Ở tiểu vùng văn hóa đất Tổ (Phú Thọ),
có những tập tục độc đáo chẳng hạn trong lễ cầu đinh tức cầu có con, người ta
trình diễn các tục múa mo, múa bông, tục cướp kén cầu con (tức cướp hình
16


dương vật, âm vật), tục cướp quả còn giữa trai và gái, tục cầu tế nỏ nường…
Trên địa bàn nước ta, tín ngưỡng này đã xuất hiện từ xa xưa. Ở Trung bộ
(nguyên là đất Chiêm Thành) trên các tháp Chàm hiện còn ở tháp cổ Mỹ Sơn
(Quảng Nam) tại ngôi đền chính Kalan Chăm, có thờ thần Linga và Yoni (1) hay ở
đầu thị xã Phan Rang, có hai ngọn tháp một to một nhỏ tọa lạc trên ngọn đồi
cao, gọi là đồi Trầu. Tháp to là tháp Ông, tháp nhỏ là tháp Bà. Trên đỉnh tháp to
là một tảng đá to, hình trụ, gọi là Linga tượng trưng cho dương vật của đàn ông.
Trong tháp có pho tượng đức vua ngồi trên một bệ đá gọi là Yoni, tạc theo hình
âm hộ của đàn bà(2).
Cho nên từ thượng cổ, với xã hội loài người, quan hệ sinh lý, tình dục là
quy luật tự nhiên của thiên nhiên được loài người coi trọng để phát triển chủng
tộc, nòi giống, gia đình, dòng họ… Trai gái lớn đến tuổi phát dục, dậy thì, quan

hệ với nhau về yêu đương về sinh lý (“nữ thập tam, nam thập lục”) và văn hóa
dân gian về hôn nhân bắt nguồn từ đó.
+ Đàn ông nằm với đàn ông,
Như gạch, như ngói, như chông, như chà!
Đàn ông nằm với đàn bà,
Như lụa, như lĩnh như hoa trên cành!

Về sau trải qua các chế độ nộ lệ, đặc biệt chế độ phong kiến, con người bị
gò bó vào những thể chế mệnh danh đạo đức như Nho giáo chủ trương “nam nữ
thụ thụ bất thân” “nam nữ hữu biệt”… đã chi phối mạnh mẽ đạo đức, lối sống
của con người. Thể chế gò bó của Nho giáo, của chế độ phong kiến ấy có tác
động vừa trong tầng lớp thượng lưu, vừa trong nhân dân. Tuy nhiên, với nhân
dân lao động tự do yêu đương giữa nam và nữ là việc bình thường, dân chủ, hợp
quy luật, hợp tình người. Với lao động, giao lưu giữa nam nữ trở nên tự do, lời
nói, tiếng hát thường tập trung biểu thị tình cảm rồi tình yêu lứa đôi. Với nếp
sống có văn hóa, người lao động khi có cảm tình với nhau, yêu nhau họ không
sỗ sàng thô bạo. Tiếp xúc thể xác, họ cầm cổ tay là chính, chắc cũng có hôn
nhau nhưng kín đáo.
+ Gặp nhau anh nắm cổ tay,
Ai gột nên trắng, ai day nên tròn?
+ Gặp nàng anh nắm cổ tay,
Anh yêu vì nết, anh say vì tình.

Cần phải có cách nhìn nhân bản khi nghe những lời ca dao tả chân hoặc
bộc trực tự nhiên lạc quan rất “con người”.
(1)
(2)

Dẫn theo tư liệu về Tháp cổ Mỹ Sơn của Sở Văn hóa Quảng Nam.
Dẫn theo Hoàng Quốc Hải - Bài “Đền Hùng nơi hội tụ tâm linh dân tộc (Báo Văn nghệ ngày 16/4/2005)


17


+ Vú em chum chúm hoa cau,
Cho anh bóp tý có đau anh đền.
+ Thấy em gò má hồng hồng,
Em đừng mắc cỡ anh bồng anh hôn.
+ Thân em tội nghiệp vì đâu,
Ngày ngày em chổng phao câu lên trời.

Lời ca đó của con trai được người con gái đáp lại:
- Bây giờ nông vụ chi kỳ,
Em mà không chổng lấy gì anh ăn?

Có nho sĩ bình dân đã miêu tả thân hình phụ nữ hiện thực bằng ngôn ngữ
văn chương:
+ Gặp ba trò khiến hỏi ba trò:
Đường lên trên bụng có đò hay không?
- Cao sơn lưỡng nhũ ở trên,
Tiểu khê ở dưới muốn lên phải sào.
Dang tay mở khóa động đào,
Nhất can trực nhật đến ao phụng hoàng.
Đường lên trên bụng cứ sang,
Cần chi đò dọc, đò ngang tốn tiền!

Còn đây là tả chân bằng hình ảnh:
+ Trèo lên cây khế nửa ngày
Váy thì trụt mất, lưỡi cày thò ra.
Lưỡi cày ba góc chẻ ba,

Muốn đem đòn gánh mà va lưỡi cày.

Với sự điều chỉnh của xã hội, của văn hóa, người con gái biết giữ mình và
có thái độ đúng mực, tự trọng”:
+ Thương thì dựa vế kè lưng,
“Việc ấy” xin đừng để trọng về sau.

Đạo đức dân gian điều chỉnh hành vi sinh lý, tình dục giữa trai và gái, lên
án thói gian dâm, tệ nạn “họp chợ trên bụng đến trăm con người” xấu xa:
+ Gái đâu có gái lạ đời,
Chỉ trừ có một ông trời không chim!
Long thần, thổ địa cũng tìm,

18


Thổ công, vua bếp cũng chim cả rồi!

Và nếu tầng lớp thượng lưu phong kiến có “can thiệp” thì người lao động
trả lời:
+ Ngày trông quan lớn như thần,
Đêm sao tẩn mẩn tần mần như ma?
Hai tay quan lớn gian tà,
Sờ hết chỗ nọ lại sà chỗ kia!

Và khi đã thành vợ chồng, quan hệ sinh lý trở thành trò vui dí dỏm rất tự
nhiên:
+ Thân anh sung sướng hai lần,
Nhỏ mần vú mẹ, lớn mần vú em!
+ Đương khi lửa tắt cơm sôi,

Lợn kêu, con khóc chồng đòi tòm tem!
- Bây giờ lửa đã đỏ lên,
Lợn no, con nín tòm tem thì tòm!

Về quan hệ sinh lý, trên đây chỉ nói về tình dục. Tình dục không nên bỏ
qua nếu không muốn hiểu sâu về văn hóa dân gian, một vấn đề rất “con người”.
Nha văn Pháp La-rốt-sơ Phu-côn (La Roche Foucault) viết: “Không nên nghĩ về
tình dục như một cái gì đó tồn tại khách quan mà quyền lực cố gắng kìm chế
hoặc như một lĩnh vực mờ tối mà tri thức cố gắng từng bước khám phá ra. Tình
dục là một tạo tác mang tính lịch sử(1) - Điều đáng quan tâm là không nên để
những ham muốn quá trớn, khiêu dâm tạo nên lối sống bừa bãi trái với đạo đức,
phong tục của dân tộc.
2. Về mặt tâm lý
Đây là nội dung tình cảm với biểu hiện rất phong phú, đa dạng trong ca dao
tình yêu lứa đôi, hôn nhân và vợ chồng. Ngôn từ của ca dao được hát lên với các
làn điệu dân ca từ lúc đôi trai gái gặp nhau, có cảm tình với nhau, yêu thương
nhau, khi xa nhau thì nhớ nhung, tiếp xúc ban đầu có thể qua lao động, rồi từ lao
động, tình yêu nảy nở. Sinh hoạt nông nghiệp là môi trường lý tưởng cho trai gái
gặp nhau, tỏ tình với nhau:
+ Cô kia đi đường ấy với ta,
Trồng đậu, đậu tốt, trồng cà, cà sai.
Cô kia đi đường ấy với ai,
Trồng bông, bông héo, trồng khao khoai hà!
(1)

” Dẫn theo Phan Thị Kim Anh - Tạp chí Văn hóa dân gian số 1 (145) - 2013 - bài “Người phụ nữ Việt miền
Tây Nam Bộ từ góc nhìn văn hóa giới)

19



Trong tiếp xúc ban đầu, người con gái nông dân khá dè dặt và lễ phép:
+ Sáng ngày tôi đi hái dâu,
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.
Hai anh đứng dậy hỏi han,
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu?
- Thưa rằng tôi đi hái dâu,
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
Thưa rằng: Bác mẹ tôi răn,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.

Nhưng khi họ đã hiểu nhau, tình yêu trong sáng, chân thật nảy nở dẫn dắt
đến những mối tình thắm thiết tuy vẫn còn giấu cha mẹ - như lời ca dao, dân ca
quan họ quen thuộc từ xa xưa:
+ Yêu nhau cởi áo cho nhau,
Về nhà mẹ hỏi qua cầu đánh rơi.
+ Yêu nhau trao nón cho nhau,
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay…

Con gái Việt Nam ở tuổi dậy thì có vẻ đẹp thiên phú được dân gian kết lại
trong thành ngữ như khuôn “mặt trái xoan”, “mắt lá răm” “lông mày lá liễu”
“má lúm đồng tiền” “hàm răng hạt huyền” “tóc bỏ đuôi gà” “đáy thắt lưng
ong”… Con gái nông dân không có “mặt hoa da phấn” như con gái tầng lớp
thượng lưu bởi họ phải lao động, qua lao động nắng gió có thể làm cho da đen
nhưng họ vẫn “có duyên”. Đây là cái duyên “tổng hợp” từ nết na, lời ăn tiếng
nói kết hợp với dáng đẹp bề ngoài, dễ gây cảm tình (Duyên là một khái niệm về
hiện hữu của người phụ nữ khác với “nhân duyên” là một khái niệm tâm linh
cũng có liên quan đến tình yêu, hôn nhân, sẽ bàn ở mục sau).
+ Người xấu duyên lặn vào trong,
Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài.

+ Còn duyên đóng cửa kén chồng,
Hết duyên ngồi gốc cây hồng lượm hoa!
+ Còn duyên như tượng tô vàng,
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa!
+ Còn duyên kén cá chọn canh,
Hết duyên ếch đực cua kềnh cũng vơ!

Trong tình yêu lứa đôi cùng với môi trường thuận lợi là lao động nông
nghiệp (có thể cả ngư nghiệp, lâm nghiệp nữa) về sau là buôn bán… còn có giao
lưu nghệ thuật (hát đối đáp, hát giao duyên) là đầu mối để dẫn dắt đến tình yêu 20


Tâm hồn người lao động Việt Nam rất phong phú, trong sáng, họ biết mơ mộng,
lãng mạn với tư tưởng bay bổng của mình. Vũ Ngọc Phan có một nhận xét xác
đúng “Chúng ta nên nhớ rằng họ là tác giả những thần thoại và truyện cổ tích,
trong đó óc tưởng tượng của họ nhiều khi rất sâu sắc, bóng bẩy và tình cảm của
họ cũng rất thắm thiết, tạo cơ sở cho văn học trữ tình. Cho nên trong ca dao,
dân ca, chúng ta phải nhận thấy tâm tình họ có lúc bộc lộ mộc mạc, chất phác
nhưng cũng có lúc rất bay bướm, tế nhị”(1).
+ Sáng trăng suông sáng cả bờ sông,
Ta được cô ấy ta bồng ta chơi.
Ta bồng ta tếch lên trời,
Hỏi ông Nguyệt Lão tốt đôi chăng là?

Khi bộc trực, khi thẳng thắn, khi tế nhị, khi bóng gió xa xôi, nam nữ thanh
niên lao động thể hiện tình yêu lứa đôi trên nhiều cung bậc. Khi đã có cảm tình
chân thật với nhau qua tiếp xúc, họ có quyết tâm gắn bó, không gian sông núi
không thể làm cách bức tình yêu:
+ Thương (yêu) nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.


Và không biết có phải nho sĩ bình dân nào đó “tính toán” thêm:
+ Thương (yêu) nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua!

Và khi yêu hay không yêu thì:
+ Thương nhau nước đục cũng trong,
Ghét nhau nước chảy qua đồng cũng dơ(1)

Ca dao và dân ca về tình yêu lứa đôi cũng phản ánh tất cả các cung bậc tình
cảm, thuận chiều, nghịch chiều. Về chữ nghĩa, tình cảm “hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố,
dục” (mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn) đều được thể hiện nhưng nổi
lên và tập trung trong hàng trăm lời nói về yêu thương giữa đôi trai gái từ đó
(1)
(1)

Vũ Ngọc Phan - Sđd - Tr.250.
Phương ngôn người Tày về tình yêu lứa đôi có nghệ thuật so sánh độc đáo:
+ Yêu nhau thóc nấu thành cơm,
Không yêu nếp nắm thành rơm rã rời!
Yêu nhau dấm khế ngọt bùi,
Không yêu đường mật ai ơi chua lòm!
Yêu nhau nước lã ngọt ngon,
Không yêu nước mía chỉ còn nước sông!
Yêu nhau ăn thóc cả bông,
Không yêu ăn đến thịt rồng chẳng ngon!
Yêu nhau vượt núi trèo non,
Không yêu một quãng đường mòn cũng xa!
(Nguyễn Nghĩa Dân dịch)


21


phát sinh các tình huống thuận chiều hoặc nghịch chiều trong quan hệ tình ái với
nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài các biểu hiện có vẻ công thức nói trên theo
chữ nghĩa, các cung bậc tình yêu lứa đôi còn phong phú hơn nhiều. Sau khi tiếp
xúc với nhau, có cảm tình với nhau, trai gái đã hát:
+ Một chờ, hai đợi, ba trông,
Bốn thương, năm nhớ, bảy tám…mong, chín mười chờ.
+ Tối trời đôm đốm chớp giăng,
Xa nhau một bữa, mấy cái khăn ướt dầm!

Và “nhiệt độ” của nhớ nhung, có thể xem là “tuyệt đối”:
+ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than!

Họ có thể viết thư tỏ tình nhưng họ cho rằng gặp nhau vẫn hơn, khỏi “lâu
tình”
+ Anh thương em thì tới thăm em,
Anh đứng thơ (thư) gửi, thơ (thư) đem lâu tình! (Cd Đồng Tháp)

Và nếu có viết thư cho nhau thì “chữ trung phần cha, chữ hiếu phần mẹ, đôi
ta chữ tình” kẻ cũng phải đạo và như vậy thư tình giữa trai gái Việt Nam ta
không phải bị kết tội như có nơi trên thế giới (1). Trong ca dao, dân ca Việt Nam,
chỉ có trai gái yêu nhau nếu không lấy được nhau trên thế gian này thì họ muốn
chết:
+ Ví dầu không lấy được chàng,
Mang thân đi xuống suối vàng cho xong!

Bao trùm là tình yêu, tình thương giữa đôi trai gái, tình yêu tình thương đó

có vui, có buồn, có giận, có trách, có tiếng cười và cũng có nước mắt:
+ Nhìn nhau lệ ướt thấm bâu,
Nỗi thương chưa xiết, nỗi sầu lại vương!
Nghĩ thôi đã giận lại thương,
Trách cho dạ đấy không tường lòng đây!

TÌnh thật bên trong đôi lúc lại biểu hiện bằng lời nói trái ngược với lời nói
bên ngoài:
+ Đàn bà nói có là không,
Nói yêu là ghét, nói lấy chồng là đi tu!
(1)

Ở Ap-ga-nit-tan (Afganishtan), Caren Swan lông (Karen Swallon) cho biết: “Một cô gái đã bị thiêu chết sau
hai tuần bị đánh đập dã man bởi những người anh em vị họ tìm được Bức thư tình mà cô đã viết. Việc viết thư
tình cho người yêu là một tội chết trong cộng đồng ở nơi này (Báo văn nghệ 6/4/2012).

22


Với lời này thì thương là ghét và ngược lại:
+ Thương chồng nấu cháo củ tre,
Nấu canh vỏ đỗ, nấu chè nhân ngôn.
Ghét chồng nấu cháo le le,
Nấu canh đỗ đãi, nấu chè hạt sen.

Đến mức độ cho phép, tình yêu trải qua thề thốt, “qua cắt tóc bằng dao lá
trúc”, trai gái cầu xin đất trời chứng giám, ông Tơ, bà Nguyệt “xe chỉ hồng” cho
lứa đôi.
Và sẽ thiếu sót nếu không nói đến nếp sống văn hóa dân gian sau đây: Từ
buổi sơ giao, có cảm tình rồi tình yêu nảy nở cho đến khi thành vợ thành chồng,

với tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện” rất nhiều ca dao nói về trầu, cau, vôi
(có đến hàng trăm lời). Trầu, cau, vôi bắt nguồn từ truyện cổ tích Cao Tân, Cao
Lang đã đúc nên sự kết dính của tình yêu lứa đôi, đã thành phong tục truyền
thống trong cưới hỏi:
+ Gặp nhau đây ăn miếng trầu xanh,
Chả ăn cầm lấy cho anh bằng lòng.
+ Thương nhau vì bởi miếng trầu,
Em trao anh bắt tận đầu ngón tay.

Bởi tình yêu lứa đôi chân thật nên nói chung trai gái đã thành công. Tình
yêu thuận chiều đó đã kết vào hàng nghìn lời ca dao thắm thiết, thống kê cho
biết có đến 75% trong tổng số ca dao tình yêu lứa đôi (1). Ngoài nguyên nhân
chính là tình yêu, tự do hôn nhân giữa đôi trai gái phải kể đến nguyên nhân về
đạo đức, vì nhân, vì ngãi (nghĩa) vì tôn trọng lẫn nhau, vì đã hứa hẹn, thề thốt…
+ Không tham rộng ruộng lớn vườn,
Ham vì nhân ngãi, cang thường mà thôi!
+ Thương nhau không phải vì tiền,
Mà vì nhân nghĩa, vì duyên chúng mình!

Mong ước lớn nhất mà cũng rất hiện thực là tình yêu chung thủy:
+ Gương không có thủy gương mờ,
Thuyền không có lái lững lờ dòng sông!
Mong sao nghĩa thủy tình chung,
Cho thuyền cập bến gương trong nghìn đời!

Ca dao đề cao hôn nhân một vợ một chồng xem đó là cơ sở vững chắc nhất
(1)

X.Phụ lục 1 (ở cuối phần I).


23


của tình yêu lâu dài:
+ Người ta thích lấy nhiều chồng,
Em thì chỉ thích một ông thật bền.
Thật bền như tượng đồng đen,
Trăm năm quyết với cùng em một lòng!

Tình yêu lứa đôi có đích cuối là hôn nhân là hạnh phúc lớn nhất của đôi trai
gái thành vợ chồng, là cơ sở pháp lý của xã hội văn hóa, văn minh, là nền tảng
của gia đình sinh con đẻ cái, phát triển dòng họ, giống nòi, dân tộc… Với kinh tế
nông nghiệp từ hôn nhân, có vợ chồng rồi có gia đình, mỗi gia đình là một đơn
vị sản xuất, khi xưa, và nay cũng vẫn còn “ngũ đại đồng đường”, “tứ đại đồng
đường” sinh sống tình nghĩa, thuận hòa, chung sức lao động, phát triển kinh tế.
Tình huống ngược lại - yêu nhau mà không lấy được nhau cũng nhiều hình
nhiều vẻ, có nguyên nhân chủ quan ví như không tâm đầu ý hợp, tuổi không
hợp, tình yêu chỉ từ một phía; có những nguyên nhân khách quan do dư luận xã
hội “gièm pha”, do cha mẹ ngăn cản, do thách cưới bên cha mẹ cô gái quá cao,
cha mẹ chàng trai phải lo, nói chung không lo nổi (thực chất không muốn gả con
gái của mình cho chàng trai kia). Có nhiều lời ca dao phản ánh “yêu cầu” nhà
trai “siêu thực” “không tưởng” nào “ống thuốc bằng bạc”, “ống vôi bằng vàng”,
“Xe tứ mã cho quan viên”, “bảy vạn dê lợn” cho đến “răng nanh chú Cuội”,
“râu Thiên Lôi”… thì thực chất chẳng bao giờ có cưới hỏi: cho nên sự giầu
nghèo về kinh tế đã cản trở, làm tan vỡ tình yêu lứa đôi!
+ Mới hay lấy vợ trên đời,
Không tiền, không của tối trời nằm không!
+ Mới hay duyên nợ ba sinh,
Cái giàu làm mất cái tình đôi ta!


Thống kê về tình huống không thuận trong yêu nhau, dẫn đến không lấy
được nhau chiếm đến 25% tổng số ca dao về tình yêu lứa đôi (1). Đau đớn, người
con gái kêu lên:
+ Tay bưng chén quế, tay chế nước đường,
Vãng lai, lai vãng, tình thương cạn rồi!
+ Nào khi mô mo ấp lấy bẹ,
Vì bạc tiền thầy mẹ chia rẽ đôi ta!
Nay chừ thiếp một đàng, chàng một nẻo kêu ca không thấu trời!

Tưởng không có gì đẹp hơn:
(1)

X.Phụ lục 1 (ở cuối phần I)

24


×