Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về kinh tế tư tưởng hồ chí minh về đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm chống tham ô lãng phí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.08 KB, 54 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
"Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Đây là câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh, vị cha già kính yêu của dân
tộc Việt Nam, Người là tấm gương mẫu mực cho toàn Đảng, toàn dân noi
theo.
Hồ Chí Minh(1890-1969) là lãnh tụ thiên tài, là người thầy vĩ đại của
giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, là người con ưu tú của dân tộc Việt
Nam. Trải qua hơn 60 năm đấu tranh cách mạng bất khuất kiên cường, đầy
gian khổ, hi sinh, chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng trọn cuộc đời mình cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng
loài người; sự nghiệp đấu tranh vì tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.
Cuộc đời cao đẹp, phẩm chất đạo đức cách mạng của Người mãi mãi là tấm
gương sáng, là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam trong mọi thời đoạn
lịch sử.
Trong những năm vừa qua, cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh đã được phát động và ngày càng phát triển rộng
khắp các cấp các ngành cũng như đối với toàn thể nhân dân. Cuộc vận động
ngày càng phát triển không chỉ chiều rộng mà cả chiều sâu, góp phần giáo dục
cho mọi tầng lớp nhân dân về đạo đức của Người, về hình thành và phát triển
Đạo đức mới, đạo đức Xã hội chủ nghĩa.
Tại đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh được
chính thức khái quát là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và

1


phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn


hóa nhân loại.
Từ sau đại hội IX của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nghiên cứu
một cách toàn diện về các góc độ khác nhau. Đặc biệt, trong giai đoạn đất
nước ta đã và đang bước vào thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, hội nhập vào nền kinh tế thế
giới thì vấn đề nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế ngày càng trở nên
cần thiết. Bên cạnh các tư tưởng về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn,
về sở hữu các thành phần kinh tế ở Việt Nam, về kinh tế đối ngoại,… thì tư
tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết
kiệm cũng hết sức cần thiết được nghiên cứu.
Xuất phát tử những vấn đề nêu ra ở trên, tôi xin chọn đề tài: “ tư tưởng
Hồ Chí Minh về đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết
kiệm chống tham ô lãng phí” để góp phần làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí
Minh về kinh tế.
Xuất phát từ mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là góp
phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với
thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí.
Với mục tiêu đó, bài tiểu luận giải quyết các nội dung sau:
-

Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh phát triển kinh tế đi

-

đôi với thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí.
Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh phát triển kinh tế đi

-

đôi với thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí.

Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta,
từ đó nhận ra những điểm còn tồn tại và nêu biện pháp khắc phục.
Từ những kiến thức đã học và tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy

mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí
và thực tế cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

2


Minh trong giai đoạn hiện nay. Em xin trình bày nội dung bài tiểu luận như
sau:
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I. TIỂU SỬ HỒ CHÍ MINH VÀ TỔNG QUAN VỀ TƯ TƯỞNG
THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ CỦA NGƯỜI.
1.1.

Tiểu sử Hồ Chí Minh:
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp

của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ
quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ
quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các
dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức
yêu nước ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, với tinh thần yêu
nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã quyết tâm ra đi tìm
con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước.
Thắng lợi vang dội của cách mạng tháng Mười Nga đã đưa Hồ Chủ tịch
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ra sức nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin,

Người đã nhận rõ đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải
phóng xã hội.
Sau một thời gian dài bôn ba và hoạt động cách mạng, năm 1941,
Người về nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã phát lệnh tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2/9/1945, Người đọc bản
Tuyên ngôn độc lập trước nhân dân cả nước và nhân dân toàn thế giới thành
lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông
Nam châu Á
3


Dưới sự lãnh đạo của Người và của Ban chấp hành Trung ương đảng,
nhân dân ta đã đánh thắng quân Pháp xâm lược, vừa đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiếng chống
Mỹ, cứu nước để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước
nhà và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1969, Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp
của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ
quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ
quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các
dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới. Người là tấm gương đạo đức cao
cả, cần, kiệm,liêm, chính, chí công. vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị
Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
(UNESCO) đã công nhận Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hóa kiệt xuất
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, hội nhập với thế glới,
tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

1.2.

Tổng quan về tư tưởng thực hành tiết kiệm chống tham ô lãng phí của
Hồ Chí Minh:
Tư tưởng về thực hành tiết kiệm chống tham ô lãng phí của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đề cập trong các bài viết của Người về Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
Chí công vô tư, Người coi những nội dung này là những yếu tố cơ bản của
Đạo đức cách mạng.

4


Một ngày sau khi nước nhà giành được độc lập (3-9-1945), Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ toạ phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Người trình
bày sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong
đó có vấn đề thứ tư cần phải giải quyết lúc bấy giờ là “Chế độ thực dân đã
đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ
hoá dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và
những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân
dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt
Nam độc lập”. Để làm được những điều đó, Người đề nghị “mở một chiến
dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM,
LIÊM, CHÍNH”.
Để giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có nhiều tác phẩm viết về vấn đề này, Ngay từ năm 1927, trong
tác phẩm “Đường Kách mệnh”, chương đầu tiên của cuốn sách là Tư cách
một người cách mệnh và tiêu chuẩn đầu tiên trong tư cách một người cách
mệnh chính là: cần kiệm. Sau này là các tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (101947), “ Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”
(1952). “Đạo đức cách mạng” (12-1958) và các bài báo như “Chớ kiêu ngạo,

phải khiêm tốn”, “Cần kiệm liêm chính”, “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh
lệnh”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sách chủ nghĩa cá nhân”... Trước
lúc đi xa, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta,
Người nhắc “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư...” và “Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để
khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân

dân”.

Về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói
một cách ngắn gọn, giản dị, cụ thể, dễ hiểu và dễ làm theo.

5


CẦN tức là “Siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai” và nếu đã cần thì
việc gì, dù khó khăn mấy, cũng làm được.
Người chỉ ra cách thực hiện CẦN sao cho có kết quả. Đó là làm việc
phải có kế hoạch, dù công việc gì, to hay nhỏ, lớn hay bé, đều phải sắp xếp
khoa học và tính toán cẩn thận. Phân công công việc theo năng lực của từng
người, như vậy sẽ không bị mất thời gian và hiệu quả công việc cao.
Cần phải đi đối với chuyên. Nếu không chuyên thì cũng vô ích. Cần
không phải là xổi. Phải biết nuôi dưỡng sức khoẻ, tinh thần và lực lượng để
làm việc lâu dài. Một người lười biếng sẽ làm chậm và ảnh hưởng đến công
việc của rất nhiều người khác.
Cần là nâng cao năng suất lao động.
KIỆM là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”.
Cần với kiệm đi đối với nhau như hai chân của một người. Cần mà
không kiệm “thì làm chừng nào xào chừng ấy”, cũng như một cái thùng

không đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn
không. Kiệm mà không cần, thì không tăng thêm, không phát triển được.
Bác cho rằng cần phải tiết kiệm cả của cải, thời gian và sức lực, bởi của
cải nếu hết còn có thể làm ra được, còn thời gian đã qua đi, không bao giờ
quay trở lại. Muốn tiết kiệm thời gian, bất kỳ việc gì, nghề cũng phải chăm
chỉ, làm nhanh, không nên lần nữa. Không nên ngồi lê, nói chuyện phiếm,
làm mất thời giờ của người khác. Theo Bác “Tiết kiệm không phải là bủn
xỉn”.
Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc
đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn
bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm.
6


Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm”.
Để thực hành tiết kiệm phải kiên quyết với những việc làm xa xỉ, như
kéo dài thời gian lao động không cần thiết, làm hao phí vật liệu trong sản
xuất, luôn tìm cách ăn ngon, mặc đẹp trong lúc đồng bào còn khó khăn, thiếu
thốn, v.v... Phải biết cách tổ chức thì tiết kiệm mới có hiệu quả.
LIÊM là “trong sạch, không tham lam”; “không tham địa vị. Không
tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì
vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.
Liêm phải đi đối với kiệm, bởi có kiệm mới liêm được. Tham lam là
một điều rất xấu hổ. Những hành động bất liêm đều phải dùng pháp luật để
trừng trị, dù đó là người nào, giữ cương vị gì, làm nghề gì. “Một dân tộc biết
cần, kiệm, biết liêm, là dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân
tộc văn minh tiến bộ”. Và như cụ Mạnh Tử đã nói “Ai cũng tham lợi, thì nước
sẽ nguy”.
Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. CHÍNH “nghĩa là không tà, nghĩa là

thẳng thắn, đứng đắn”.
Một người phải cần, kiệm, liêm, nhưng còn phải chính mới là người
hoàn toàn. Chính đối với mình là không tự cao, tự đại, luôn luôn chịu khó học
tập, cầu tiến bộ, phát triển điều hay và sửa chữa khuyết điểm của mình. Đối
với người, phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ, không nịnh hót người trên, xem
khinh người dưới. Phải để việc nước, việc công lên trên việc tư, việc nhà.
Công việc dù to hay nhỏ đều phải cố gắng hoàn thành. Phải luôn luôn nhớ
“việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng

tránh”

Về CHÍ CÔNG VÔ TƯ, Bác nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với
người, với việc”, “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi
7


hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Người giải thích “...Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to,
cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp
đục khoét, có dịp là ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
Chính nhờ thực hành cần kiệm liêm chính mà trong những năm đầu mới
giành được độc lập nhân dân ta đã thu được nhiều thắng lợi, chiến thắng giặc
lụt, giặc đói và giặc ngoại xâm. Trong những năm hoà bình xây dựng đất
nước, từng bước đời sống nhân dân đã được nâng cao cả về vật chất và tinh
thần.

CHƯƠNG II. NGUỒN GỐC CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẨY
MẠNH SẢN XUẤT ĐI ĐÔI VỚI THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG
THAM Ô, LÃNG PHÍ.


2.1.

Truyền thống văn hóa dân tộc và tình yêu nhân dân, đất nước:
2.1.1. Truyền thống văn hóa dân tộc:

8


Việt Nam là một đất nước trù phú về thiên nhiên, từ ngàn đời nay, con
người đều sống dựa vào khai thác các nguồn tài nguyên, nhưng cùng với đó,
dải đất hình chữ S hàng năm cũng phải đối mặt với sự khó khăn của tự nhiên
như bão, lũ lụt,… Truyền thống dành giụm, tiết kiệm cũng từ đó mà hình
thành và ăn sâu vào tiềm thức các thế hệ Việt Nam.
Hồ Chí Minh khẳng định: hàng ngày ta phải ăn cơm, uống nước, phải
thở khí trời để mà sống, những việc này ngày xưa cha ông ta phải làm, bây
giờ chúng ta phải làm, con cháu sau này cũng phải làm. Cho nên, những việc
đó không bao giờ là cũ, cũng như Cần, Kiệm, Liêm, Chính đối với đời sống
mới.
Người cho rằng việc giáo dục tinh thần tiết kiệm là đạo lý truyền thống
của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay. Vì vậy, khi đất nước bước vào thời kỳ
xây dựng xã hội mới, khi bước vào cuộc thay đổi toàn diện và sâu sắc trong
quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội thì Cần, Kiệm, Liêm, Chính phải trở
thành nền tảng đạo đức của xã hội, một đất nước. Người cho rằng: “Cần,
Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua ái
quốc”. Nhân dịp có phong trào sản xuất và tiết kiệm của chính phủ năm 1952,
Người nói phải “Thi đua giết giặc, thi đua tăng gia, thi đua tiết kiệm”.
2.2.2.

Tình yêu nhân dân, đất nước:


Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, ngay sau khi giành được
chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị chính phủ
phát động một chiến dịch tang gia sản xuất để nhanh chóng dập tắt nạn đói.
Người đề nghị: “trong khi chờ đợi ngô, khoai và những thứ lương thực phụ
khác, phải ba bốn tháng mới có, tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười
ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được
sẽ góp lại phát cho người nghèo”.
Hai mươi lăm ngày sau đó, ngày 28-9-1945, trên tờ báo Cứu quốc số 53,
dưới tiêu đề “sẻ cơm nhường áo”, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:
“Hỡi đồng bào yêu quý,
9


Từ tháng giêng đến tháng bảy năm nay, ở Bắc Bộ ta đã có hai triệu
người chết đói.
Kế đó lại bị nước lụt, nạn đói càng tang them nhân dân càng khốn khổ.
Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không
khỏi động lòng.
Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước:
Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi
bữa một bơ) để cứu dân nghèo.
Như vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa rau bữa cháo để chờ mùa lúa
năm sau, khỏi đến nỗi chết đói”.
Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh còn căn dặn: “ Đảng ta cần phải
có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân” [49, tr.498]. Theo Người, chủ nghĩa xã hội là
“làm cho dân giàu, nước mạnh. Dân có giàu thì nước mới mạnh”. Vì vậy, phải
phát triển kinh tế nhằm “ làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá
giàu, người khá giàu thì giàu thêm” [42, tr.65]. Đường lối phát triển kinh tế
trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ mục đích của chủ nghĩa xã hội là: “

làm sao cho nhân dân được đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy
được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ... Tóm lại, xã
hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt” [47,
tr.591]. Sau đó Người đã viết thư “ Gửi nông gia Việt Nam”, kêu gọi nông dân
“Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa ! Đó là
khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững
quyền tự do, độc lập” [41, tr.115]. Thực hiện cuộc vận động lớn đó, nhân dân
cả nước đã đoàn kết tích cực thi đua sản xuất, nhờ đó, mà nạn đói bị đẩy lùi,
đời sống nhân dân được nâng lên một bước.
Đồng thời, để nâng cao đời sống phải nâng cao năng suất lao động, giữ
gìn máy móc, bảo vệ xí nghiệp, thi hành đúng kỷ cương kỷ luật, đẩy mạnh tập
thể hóa, đồng thời phải phân phối công bằng, hợp lý và thực hành tiết kiệm.
10


Trong đó tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là hai việc cần thiết nhất để
phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. “ Tăng gia sản
xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến thắng lợi chủ nghĩa xã hội,
xây dựng hạnh phúc cho nhân dân” [45, tr.349]. Từ thực tế của gia đình và
cuộc sống của người dân mất nước, Người đồng cảm với nhân dân, thương
dân, trọng dân. Để đùm bọc lẫn nhau, đùm bọc trong cảnh đa số người dân
không lấy gì làm sung túc, theo Người thì yếu tố tiết kiệm trở thành điều kiện
không thể thiếu được. Mỗi người chỉ cần dè sẻn một tý, nhiều người cùng dè
sẻn là có thể cưu mang, đùm bọc người khác. Vì vậy, tinh thần tiết kiệm trở
thành ý thức, tâm lý của cả cộng đồng, tiết kiệm là thước đo của đạo đức.
2.2.

Từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết


kiệm chống tham ô lãng phí không chỉ xuất phát từ truyền thống văn hóa dân
tộc mà nó còn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước và yêu cầu tuyên
truyền, giáo dục cách mạng trong từng giai đoạn nhất định. Người coi đây là
biện pháp quan trọng để tích lũy vốn, để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả,
nhất là ở một nước nghèo nàn và lạc hậu như nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “trong 80 năm, nước ta bị đế quốc Pháp
rồi đến đế quốc Nhật vơ vét hết, vì vậy mà kinh tế của ta nghèo nàn lạc hậu.
Nay chúng ta cần phải có một nền kinh tế khá, để kháng chiến và kiến
quốc. Muốn xây dựng kinh tế, thì phải có tiền của để làm vốn. Muốn có vốn,
thì các nước tư bản dung 3 cách vay mượn nước ngoài, ăn cướp của các nước
thuộc địa, bóc lột công nhân, nông dân.
Những cách đó chúng ta đều không thể làm được.
Chúng ta chỉ có cách là một mặt tang gia sản xuất, một mặt tiết kiệm để
tích trữ them vốn cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của ta”.
Như vậy, tư tưởng phát triển sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm,
chống tham ô, lãng phí không chỉ xuất phát từ truyền thống văn hóa dân tộc,
từ tấm lòng yêu nước thương dân mà còn xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của
11


đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, chỉ có đẩy mạnh sản xuất, thực
hành tiết kiệm thì đất nước mới phát triển được, nhân dân mới có cuộc sống
ấm no hạnh phúc.
2.3. Xuất phát từ mục đích giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và
toàn thể nhân dân:
Vấn đề giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta là vấn đề
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng. Đặc biệt trong điều kiện nước
ta còn nhiều khó khăn, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân
phải biết: Cần, Kiệm, Liêm, Chính để xây dựng đất nước. Người cho đây là
những phẩm giá cơ bản, tốt đẹp nhất để làm người, làm cán bộ, đảng viên.

Người nói:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”.
Sở dĩ, Người luôn giáo dục nhân dân ta bốn đức tính trên là vì: con
người Hồ Chí Minh, nhân sinh quan Hồ Chí Minh, là sự kết hợp nhuần
nhuyễn tinh hoa văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Sinh ra từ
một vùng đất có truyền thống yêu nước và sớm được hưởng thụ một nền giáo
dục nghiêm túc trong văn hóa phương Đông, trên cơ sở kế thừa và vận dụng
sang tạo lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tiếp nhận
những yếu tố tiến bộ, bổ sung những nội dung mới nhằm giáo dục đạo đức
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Vì vậy, Người coi trọng bốn đức tính
Cần, Kiệm, Liêm, Chính là đạo lý truyền thống của dân tộc từ bao đời nay.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 3-9-1945),
Người đề nghị “tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân
bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”.
12


Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở việc giáo dục đạo đức cho mỗi cán bộ,
đảng viên mà khi bước vào xây dựng xã hội mới Người đã mở rộng nội dung
kinh tế của Cần, Kiệm, Liêm, Chính từ chỗ là đức tính của từng con người,
từng cán bộ, đảng viên đến chỗ là nền tảng đạo đức của cả một xã hội. Người
nói: “chúng ta muốn xây dựng xã hội mới, một xã hội tự do bình đằng, một xã
hội cần, kiệm, liêm, chính – cho nên chúng ta phải tẩy cho sạch hết những
thói xấu của xã hội cũ”. “Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống
mới, nền tảng của Thi đua ái quốc”.


CHƯƠNG III: NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT ĐI ĐÔI VỚI THỰC HÀNH TIẾT
KIỆM, CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ.
3.1. Mục tiêu của đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm,
chống tham ô lãng phí:
13


3.1.1. Đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham
ô lãng phí nhằm nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi kinh tế là cơ sở, là nền tảng để chăm lo
phát triển con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội,… Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, để cải
tạo nền kinh tế cũ, xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phải
huy động sức lực của toàn dân, mọi cấp, mọi ngành thi đua đẩy mạnh sản
xuất.
Sinh ra, lớn lên ở một vùng quê nghèo khổ nhưng giàu truyền thống yêu
nước, văn hiến, Hồ Chí Minh được nuôi dưỡng, thấm nhuần sâu sắc triết lý
sống của cha ông: Muốn dựng làng và giữ nước phải bắt đầu từ việc làm
người một cách thành thật, đúng nghĩa. Người cũng bộc lộ rất sớm một nét
tính cách lớn: Sống có lý tưởng trong tâm hồn, trung kiên trong bản chất.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ thuở nhỏ Hồ Chí Minh đã có ý thức gắn
vận mệnh cá nhân mình với vận mệnh chung của đồng bào, đất nước, luôn
đau đáu một nỗi niềm: Hỏi xem non nước mất hay còn! Đấy chính là những
biểu hiện ban đầu của một nhân cách lớn, một trí thức chân chính: luôn trăn
trở, đau đớn trước nỗi nhục mất nước, đồng bào nô lệ, lầm than, suy nghĩ về
những vấn đề liên quan đến số phận con người và các giá trị làm người. Bài
học đạo đức lớn nhất mà Hồ Chí Minh để lại cho mọi thế hệ người Việt Nam
chính là bài học ở đời và làm người mà nội dung và chiều sâu nhân văn của

nó là yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức, bóc lột.
Yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước là suy nghĩ thường trực,
nhất quán trong con người Hồ Chí Minh. Người đi sang Pháp, sang các nước
phương Tây nhằm mục đích học hỏi xem bên ngoài người ta làm thế nào để
rồi về nước giúp đồng bào mình giải phóng khỏi gông cùm nô lệ, áp bức. Và
Hồ Chí Minh đấu tranh không ngừng, không nghỉ, thậm chí phải hy sinh bằng
mọi giá giành được độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.

14


Hồ Chí Minh phát biểu mục đích cuộc sống mà Người theo đuổi là: “Tôi
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Nói
chuyện với đồng bào trước khi sang thăm Pháp (30-5-1946), Hồ Chí Minh
khẳng định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ
quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non,
hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc
nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc
Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó...
Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích, làm cho ích
quốc lợi dân”.
Ở Hồ Chí Minh, yêu nước phải gắn liền với yêu dân, yêu đồng bào.
Không thể nói yêu nước mà lại không thương dân, không lấy nguyện vọng,
mong muốn, nhu cầu của dân làm nguyện vọng, ham muốn của mình. Là lãnh
tụ dân tộc, là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh nhận thức rất
rõ trách nhiệm của cá nhân là lo cho dân, cho nước từ việc lớn đến việc nhỏ:
từ việc tìm đường cứu nước, bảo vệ, đấu tranh thống nhất đất nước, xây dựng,
phát triển mọi mặt xã hội, đến việc tương, cà, mắm, muối... để thỏa mãn các
nhu cầu thiết yếu của nhân dân, để mọi người đều có cơm ăn, có áo mặc, có

chỗ ở, được học hành, có điều kiện khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.
Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn day dứt với một suy nghĩ:
Người chưa làm tròn nghĩa vụ cách mạng với dân, với nước. Vì thế, Hồ Chí
Minh từ chối mọi danh hiệu, phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước, nhân
dân, bạn bè quốc tế dành riêng cho Người. Năm 1963, khi biết tin Quốc hội
định trao tặng Người Huân chương Sao vàng cao quý, Hồ Chí Minh đã phát
biểu rất chân thành: “Tôi vừa nhận được một tin tức làm cho tôi rất cảm động
và sung sướng. Đó là tin Quốc hội có ý định tặng cho tôi Huân chương Sao
vàng, Huân chương cao quý nhất của nước ta. Tôi xin tỏ lòng biết ơn Quốc
hội. Nhưng tôi xin Quốc hội cho phép tôi chưa nhận Huân chương ấy. Vì
15


sao? Vì Huân chương là để tặng thưởng người có công huân; nhưng tôi tự
xét chưa có công huân xứng đáng với sự tặng thưởng cao quý của Quốc hội”.
Và Người mong muốn: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ
quốc hòa bình thống nhất, Bắc – Nam xum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho
phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì
toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”.
Hồ Chí Minh là người đã hóa thân một cách toàn vẹn và trọn vẹn vào
trong nhân dân. Hồ Chí Minh là người thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh,
nâng cao dân trí để không ngừng thực hành dân chủ cho nhân dân.
Trong hoạt động cách mạng cũng như trong cuộc sống đời thường, Hồ
Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh và sự sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân.
Người từng nói: Dân ta rất thông minh, biết giải quyết mọi công việc một
cách nhanh chóng mà nhiều cán bộ nghĩ mãi không ra,“Nếu lãnh đạo khéo thì
việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”. Đó là sự tổng
kết thực tiễn cách mạng rất sâu sắc: Phải không ngừng học dân. Có gần dân,
gắn bó mật thiết với nhân dân mới hiểu được rằng: “Nhân dân ta rất cần cù,
thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất nhiều kinh

nghiệm quý báu”. Vì vậy, Người khuyên cán bộ “cần tham gia tổng kết
những kinh nghiệm quý báu ấy”.
Người tâm niệm: Nhà nước được độc lập mà dân không được hưởng tự
do, dân vẫn cứ chết đói, chết rét thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Là công
bộc, là đầy tớ của dân thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ phải chăm lo cho
đời sống của nhân dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại cuộc
họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ
mục tiêu của nước ta là:
“1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”.
16


Người còn nói “Chúng ta đã hi sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng
ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của
tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên
“dân là chủ”, “mọi quyền hành đều ở nơi dân”, nhân dân thật sự là ông chủ tối
cao của chế độ mới. Người viết:“Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính
quyền do người dân làm chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”, “nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có
quyền nói” hay “Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”,
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”. Trong chế độ
mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ thực sự cho
người dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành. Dân là chủ, nghĩa là trong
xã hội Việt nam, nhân dân là người chủ của nước, nước là nước của dân. Các
cơ quan đảng và nhà nước là tổ chức được dân ủy thác làm công vụ cho dân.

Người thấy được một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta
mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng
đáng cho dân. Cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân,
gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm; phải
luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu đựng gian khổ, quan tâm và tìm mọi cách giải
quyết kịp thời, hiệu quả những nhu cầu mà dân đặt ra, kể cả chấp nhận sự hy
sinh để bảo vệ dân, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Trong các cuộc nói chuyện với cán bộ và nhân dân các địa phương,
Người tiếp tục khẳng định tính tất yếu của việc đẩy mạnh sản xuất. Người coi
đẩy mạn sản xuất là vấn đề trọng tâm, gốc rễ của mọi vấn đề kinh tế. Vì vậy
tất cả mọi đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng ta đều không
ngừng nhằm đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm để nâng cao đời sống vật
chất, văn hóa của nhân dân. Người nói: “tiết kiệm là cốt để giúp vào tăng gia

17


sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán
bộ và nhân dân”.
Ngay khi đất nước vừa giành được độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
quan tâm đến việc vận động nhân dân tăng gia sản xuất để đẩy lùi nạn đói và
ổn định đời sống. Trong thư Gửi nông gia Việt Nam, Người nhắc nhở: “hiện
nay chúng ta có hai việc quan trọng nhất: cứu đói ở miền Bắc và kháng chiến
ở miền Nam. “Thực túc thì binh cường”, “cấy nhiều thì khỏi đói”. Vì vậy,
Người kêu gọi nông dân: “tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng
gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của
chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập”. Thực hiện lời kêu gọi của Người,
nhân dân cả nước đã đoàn kết và tích cực thi đua sản xuất với khẩu hiệu “tấc
đất tấc vàng”, nhờ đó nông nghiệp được ngày càng khôi phục và phát triển,
nạn đói được đẩy lùi, đời sống của nhân dân được nâng lên một bước”.

Khi đất nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp, để đáp ứng yêu cầu của cuộc khánh chiến, Người đề nghị phải đẩy
mạnh “tăng gia sản xuất để làm cho dân ai cũng đủ mặc đủ ăn”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn tăng gia sản xuất có hiệu quả, phải
huy động toàn bộ sức lực của dân, trí tuệ của dân, của cải của dân nhằm đem
lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Với Người, tăng gia sản xuất phải đi liền
với tiết kiệm, Người nói, “làm cho nhiều, tiêu thì ít, làm chóng tiêu chậm, tức
là đầy đủ”. Nghèo trở nên đủ, đủ trở nên giàu, giàu thì giàu thêm”.
Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người xác định “Đặc
điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa”. Vì vậy, trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta
phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, đó là một cuộc biến
đổi toàn diện, sâu sắc và khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta
phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
Nhờ xác định đúng đặc điểm, nội dung, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ, Người
18


đã chỉ rõ những việc cần làm trong phát triển kinh tế, văn hóa. Trong đó người
luôn đề cao vai trò của cán bộ và nhân dân trong việc đẩy mạnh sản xuất, thực
hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí để xây dựng và phát triển nền kinh tế
quốc dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong đời sống nhân
dân. Người đã nhiều lần khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân”. Để thực hiện mục đích cao đẹp
đó,theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân lao động phải tự xây lấy, phải phát
huy tính độc lập, sang tạo của mỗi người. Muốn vậy, nhân dân ta phải ra sức
thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí và quan
liêu.
Đối với chính phủ, Người nhấn mạnh “Hết sức chăm lo đời sống nhân

dân. Phải ra sức phát triển sản xuất và thực hiện tiết kiệm, lại phải phân phối
cho công bằng hợp lý, từng bước cải thiện việc ăn, mặc, ở, học, phục vụ sức
khỏe và giải trí của nhân dân”. Có lúc Người yêu cầu: “Lâu nay, chúng ta đòi
hỏi nhân dân đóng góp. Từ đây, chúng ta phải ra sức hướng dẫn và giúp đỡ
nhân dân hơn nữa trong việc sản xuất và tiết kiệm, để cải thiện đời sống của
bộ đội và nhân dân, để làm cho dân giàu nước mạnh”.
3.1.2. Đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm,
chống tham ô lãng phí nhằm giáo dục nhiệm vụ dân chủ cho toàn dân.
Ngoài mục tiêu kinh tế, kế hoạch đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với
thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí còn nhằm mục tiêu giáo dục chính
trị sâu sắc cho toàn dân. Người nói “nó giáo dục cho cán bộ và nhân dân về
quyền hạn và nhiệm vụ dân chủ. Nó thắt chặt thêm mối đoàn kết giữa các
tầng lớp nhân dân. Nó nâng cao trình độ chính trị của cán bộ, của chiến sỹ và
nhân dân. Nó gắn liền long yêu nước với tinh thần quốc tế”.
Phát triển kinh tế, thực hành tiết kiệm không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế
mà còn có ý nghĩa chính trị to lớn: nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và giáo dục nhiệm vụ cách
mạng cho cán bộ, nhân dân. Bởi vì, theo Người, chính trị là sự tham gia vào
19


công việc kinh tế, là việc vạch hướng đi cho kinh tế, xác định những hình
thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nền kinh tế. Người nói: Chính trị bây
giờ phải đi với kinh tế; “công tác chính trị là mạch sống của mọi công tác
kinh tế”.
Thực tiễn lịch sử cách mạng dân tộc cho thấy, sự kết hợp đẩy mạnh sản
xuất và thực hành tiết kiệm có vai trò và ảnh hưởng lớn vì có nội dung cụ thể
nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị, mục tiêu cách mạng của từng thời kỳ.
Chính nhiệm vụ chính trị, mục tiêu cách mạng đã định hướng đúng đắn cho
cả dân tộc, mọi tổ chức, đơn vị, cá nhân có ý thức về trách nhiệm của mình và

tạo nên tính cách mạng và sức sống của phong trào đẩy mạnh phát triển kinh
tế đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế có nghĩa là
Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển
kinh tế- xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ, chi bộ xã và của cấp trên;
phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tạo
thêm nhiều việc làm cho người lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với
nhà nước, xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh.
Thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, quản lý, sử dụng đất hợp lý, tích cực
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất,… theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm; quản lý
và sử dụng tốt các khoản vốn vay, vốn nhân dân đóng góp và các nguồn vốn
khác, phát triển sự nghiệp vă hóa, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực hiện
tốt các chính sách xóa đói giảm nghèo.
3.2. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh phát triển
kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí.

20


3.2.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm,
chống tham ô lãng phí là trách nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi
công dân đối với tổ quốc
Đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm là nét nổi
bật trong tư duy kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người cho rằng, giữa sản
xuất và tiết kiệm luôn gắn liền với nhau như một phương châm thực hành lao
động cho nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu như nước ta. Đẩy mạnh phát
triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm là trách nhiệm, là nghĩa vụ thiêng

liêng của mỗi công dân đối với Tổ quốc. Vì vậy, toàn dân phải hiểu rằng đẩy
mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm chống tham ô lãng phí
là yêu nước, là ích nước, lợi nhà. Cho nên, mỗi người dân phải có ý thức tự
nguyện, tự giác, phải có lòng say mê nhiệt tình tham gia lao động, góp phần
xây dựng nền kinh tế đất nước.
Người hiểu rõ giá trị của việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm trong xây
dựng kinh tế, nhất là đối với nước nghèo, đời sống thấp kém, Người cho rằng
muốn vươn lên thì vấn đề quan trọng là phải cần cù lao động và tiết kiệm. Người
giải thích: “Nước ta còn nghèo. Muốn sung sướng thì phải có tinh thần tự lực
cánh sinh, cần cù lao động. Phải cố gắng sản xuất. Lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Trong xã hội ta, không có
nghề nào thấp kém, chỉ những kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ”.
Do đó, mọi người đều phải siêng năng, cần cù lao động, coi đó vừa là
nguồn sống, vừa là nghĩa vụ và là niềm hạnh phúc của chúng ta. Người còn nói:
“Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu”.
Người lên án tính lười biếng: “Lười biếng là kẻ thù của chữ cần”. vì vậy,
lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc.

21


Vì vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng người lao động, coi người lao động là
vốn quý nhất và Người đòi hỏi phải tổ chức lao động cho tốt để tiết kiệm lao
động. Người nói: “phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta.
Chúng ta cần hết lòng chăm sóc sức khỏe và sử dụng thật hợp lý sức lao động
của nhân dân ta”.
Như vậy, quan điểm đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết

kiệm chống tham ô lãng phí của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng mọi cách sử
dụng có hiệu quả sức người, sức của cho công cuộc xây dựng kinh tế. Sản
xuất đi đôi với tiết kiệm, nếu sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào như
gió vào nhà trống, tiết kiệm là nghĩa vụ của tất cả mọi người.
3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh phát triển kinh tế:
Phát triển kinh tế là một nội dung quan trọng và được Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn quan tâm:
Trong lời kêu gọi nhân dịp phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm
tháng 3/1952 Người đưa ra khẩu hiệu hành động là: “Bộ đội thi đua diệt giặc
lập công; Nhân dân thi đua sản xuất, tiết kiệm”.
Sản xuất ở hậu phương, diệt giặc ở tiền tuyến là hai nhiệm vụ trọng đại,
có mối quan hệ khăng khít với nhau và hết sức cấp bách để chuyển giai đoạn
kháng chiến chống thực dân Pháp từ cầm cự sang tổng phản công, giành độc
lập cho dân tộc. Không diệt được giặc thì hậu phương không yên ổn để tăng
gia sản xuất, nhưng không đẩy mạnh được tăng gia sản xuất thì không có
“thực túc binh cường”.
Trong điều kiện cuộc kháng chiến cứu quốc còn nhiều gian khổ, khó
khăn, Người cho rằng hai nhiệm vụ đó không được xem nhẹ nhiệm vụ nào.
Muốn đẩy mạnh tăng gia sản xuất theo Người, cả Chính phủ và nhân dân
cùng lo. Người nói: “Lâu nay chúng ta đòi hỏi nhân dân đóng góp. Từ đây,
chúng ta phải ra sức hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản xuất
và tiết kiệm để cải thiện đời sống bộ đội và nhân dân, để làm cho dân giàu,
22


nước mạnh. Có như thế nhân dân mới càng thấy Chính phủ hết lòng phục vụ
nhân dân. Như thế nhân dân sẽ càng hăng hái đoàn kết và kháng chiến” (Lời
kêu gọi nhân dịp phát động phong trào sản xuất tiết kiệm, tháng 3/1952).
Với tư tưởng chỉ đạo đó, Người yêu cầu: “Tài chính mậu dịch, ngân
hàng làm việc thuận lợi thì mới thúc đẩy kế hoạch sản xuất và tiết kiệm” (Báo

cáo tại Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng khoá II).
Muốn cải thiện đời sống nhân dân phải tăng gia sản xuất; sản xuất
nhiều, nhanh, tốt, rẻ thì đời sống mới được cải thiện. Sản xuất và đời sống
như nước với thuyền, nước dâng cao thì thuyền mới lên cao.
Tăng gia sản xuất là nền tảng của phát triển kinh tế tài chính, là cơ sở
của sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Tuy nhiên, nếu sản xuất được bao nhiêu,
tiêu dùng bấy nhiêu, không có tích luỹ để đầu tư phát triển thì chẳng khác gì
như gió vào nhà trống. Chính lẽ đó, ở tất cả các bài viết, bài nói chuyện của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về lĩnh vực kinh tế tài chính, Người luôn gắn liền vấn
đề gia tăng sản xuất và thực hành tiết kiệm.
Nói chuyện với đại biểu nhân dân thành phố Hải Phòng tháng 5/1957,
Người nói: Nếu không có sản xuất thì không có tiêu dùng. Nhưng nếu sản
xuất ra chừng nào, tiêu dùng chừng đó thì không lại hoàn không. Vì vậy mỗi
người chúng ta đều cố gắng tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm thì chúng ta
mới cải thiện được đời sống chúng ta. Muốn ăn no, mặc ấm, mọi người phải
ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đẩy mạnh kinh tế nước nhà tiến
lên.
Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: Lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc
tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ

23


nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu
các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp,
lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm
cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu
của nhân dân.

Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng
đều giữa kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo
phát triển kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện
và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất
nước.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế.
Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho
chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là
hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt
khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có
lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức. Đối với người làm nghề thủ công và lao
động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức
hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con đường
hợp tác. Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ
cách mạng dân tộc dân chủ, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế và
sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của
cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh,
24


phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.

25



×