Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

TT HCM ve công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.27 KB, 43 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nhà chính trị, quân sự thiên tài,
người thầy của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hoá thế giới. Tư tưởng của Người đã soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới,
xây dựng đất nước hiện nay, tư tưởng đó vẫn là ngọn cờ dẫn đường cho cách
mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Trong kho tàng lý luận kinh tế nhằm phát triển sản xuất, nâng cao đời
sống nhân dân, những luận điểm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Hồ
Chí Minh không nhiều, lại được biểu đạt một cách giản dị, ngắn gọn, hàm súc,
nên dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm theo, thể hiện một tư duy kinh tế toàn diện, hoạt
lực. Thế nhưng, một thời gian dài trước đây, “không chỉ có chiến tranh ngăn trở
con đường Hồ Chí Minh”, do nhiều nguyên nhân khác nhau, những quan điểm
của Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chưa được quan tâm
nghiên cứu thấu đáo, thậm chí có lúc bị cắt xén, tách rời hệ thống, dễ gây nên
sự đồng nhất tư tưởng của Người với đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức hiện nay ở nước ta đòi hỏi phải nghiên cứu những tư tưởng của
Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa một cách thấu đáo.

1


I. NHỮNG TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA
CÔNG NGHIỆP, KHOA HỌC, KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Quá trình hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về vai trò của
công nghiệp, khoa học, kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
Cũng như các quan điểm lý luận khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
của công nghiệp, khoa học, kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
được hình thành trong từng giai đoạn, gắn chặt với hoàn cảnh lịch sử của đất


nước và quá trình hoạt động cách mạng sôi nổi của Người. Có thể chia thành
ba thời kỳ hình thành và phát triển như sau:
1.1.Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Đây là thời kỳ hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của công
nghiệp, khoa học, kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Ra đi tìm
đường cứu nước, với mục đích là cứu nước và giải phóng dân tộc nên cái thu
hút sự quan tâm thường nhật đối với Nguyễn Ái Quốc chưa phải là vấn đề
công nghiệp hoá để “canh tân đất nước” như Nguyễn Trường Tộ trước đây,
mà là học cách làm cách mạng để về cứu giúp quốc dân, đồng bào. Thế nhưng
trên bước đường bôn ba khắp năm châu, bốn biển, Người đã sống, chiến đấu,
lao động, và học tập trong một xã hội công nghiệp tư bản chủ nghĩa ở phương
Tây, sau đó được nghiên cứu lý luận và được chứng kiến “đại công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa” ở Liên Xô trong những năm 1924 - 1935. Do đó, những
nhận thức về vai trò của công nghiệp, khoa học, kỹ thuật và công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển kinh tế, xã hội được thể hiện qua những
bài viết, bài giảng của Người là những di sản lý luận vô cùng quý báu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa tư bản tiến hành công nghiệp hóa để
nâng cao trình độ bóc lột đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc, đồng thời,
cũng nhờ công nghiệp hóa mà bọn tư bản có khả năng cạnh tranh kinh tế với
nhau. Mặt khác, công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa phát triển đã tăng cường số
lượng và chất lượng giai cấp công nhân, làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giai cấp,
2


mâu thuẫn dân tộc giữa chủ nghĩa tư bản với giai cấp công nhân và nhân dân
lao động ở các nước thuộc địa, tất yếu dẫn đến phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước này. Trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”,
vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một yêu
sách liên quan đến khoa học, kỹ thuật là “tự do học tập, thành lập các trường
kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”.

Cách mạng tháng Mười Nga là một hiện tượng mới trong lịch sử phát
triển của xã hội loài người, nó chứng minh chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ
nghĩa tư bản là một xu hướng khách quan, giai cấp công nhân là lực lượng
mới đủ năng lực cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Nguyễn Ái Quốc hiểu được tính ưu việt của sự
nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô không chỉ ở phương diện
lý thuyết mà còn qua khảo sát thực tiễn. Giữa năm 1923, Người sang Liên Xô,
có điều kiện nghiên cứu chế độ Xôviết, hiểu thêm về chủ nghĩa xã hội - giai
đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, là một xã hội có nền đại công nghiệp cơ
khí với trình độ khoa học và công nghệ hiện đại có khả năng cải tạo nông
nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Người nhận thấy,
nhân dân Liên Xô vừa ra khỏi chiến tranh, dù đời sống đang thiếu thốn,
nhưng Chính phủ và nhân dân đã dành mọi thứ tốt nhất cho trẻ em; nhân dân
thực sự là người chủ đất nước. Trước thực tế đó, Người khẳng định: trên thế
giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga “là đã thành công đến nơi”. Cách mạng
Việt Nam muốn thành công phải đi theo con đường Cách mạng tháng Mười,
“phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm
“Nhật ký chìm tàu”, giới thiệu với những người Việt Nam biết về “Tổ quốc
của giai cấp vô sản”. Thông qua những mẩu chuyện sinh động, tác giả đã giúp
cho người đọc thấy được sự thay đổi về mọi mặt của nước Nga dưới chế độ
Xôviết. Nhờ những thành tựu của công cuộc công nghiệp hóa đất nước mà
cuộc sống đổi thay từng ngày, đặc biệt là sự thay đổi trong số phận của công
nông, phụ nữ và nhất là trẻ em Nga. Người viết: “Nếu nước Nga chưa phải là
3


một thiên đường cho tất cả mọi người, thì nước đã là một thiên đường của trẻ
em”. Người gợi ra niềm tin rằng trẻ em Việt Nam rồi cũng sẽ “sung sướng,
mạnh khoẻ như trẻ em Liên Xô” khi nước nhà hoàn toàn độc lập.
1.2. Thời kỳ mới giành được chính quyền và tiến hành kháng chiến

chống thực dân Pháp (1946 - 1954)
Cách mạng tháng Tám thành công, bên cạnh việc xây dựng, củng cố
chính quyền cách mạng non trẻ, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Chính phủ bắt tay
vào việc chấn hưng đất nước giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm
châu. Người nhận thấy, trong muôn vàn khó khăn, thiếu thốn của đất nước,
cái thiếu và yếu nhất là lực lượng lao động có trình độ cao về khoa học, kỹ
thuật. Người tập hợp các trí thức ở trong nước và kêu gọi các trí thức Việt
kiều trở về Tổ quốc để cùng nhau chuẩn bị cho kháng chiến và kiến quốc.
Người đã chủ động viết thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ cho phép 50
thanh niên Việt Nam sang học tập, nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng
như các lĩnh vực chuyên môn khác.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với tinh thần tự lực cánh
sinh là chính, quân và dân ta đã kịp thời tháo dỡ máy móc đưa lên chiến khu,
xây dựng nhiều xưởng quân giới để sản xuất, sửa chữa vũ khí, sản xuất quân
trang, quân dụng phục vụ yêu cầu của quân đội và nhân dân trong vùng tự do.
Tháng 4 năm 1947, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, nhà máy cơ khí Trần
Hưng Đạo ra đời, đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử ngành công nghiệp
nặng Việt Nam. Song song với nhiệm vụ “kháng chiến” là “kiến quốc”, nghĩa
là phải sản xuất ra nhiều của cải để cung cấp cho quân đội đánh thắng kẻ thù
và nâng cao đời sống nhân dân. Để hoàn thành được nhiệm vụ đó, Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng vai trò của công nghiệp và công nghiệp nặng. Người
việc trong bài báo Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh
quan liêu, Người dẫn lời của Lênin: “Công nghệ có vai trò lãnh đạo và cải tạo
nền kinh tế. Nếu không cứu vãn công nghệ nặng, không khôi phục công nghệ,
thì không xây dựng được công nghệ nào hết. Mà không xây dựng được công
4


nghệ, thì không giữ được địa vị độc lập của nước mình”. Từ việc nhận thức
đúng đắn vai trò của công nghiệp như trên, Hồ Chí Minh xác định việc xây

dựng kế hoạch phát triển công nghiệp hợp lý là điều kiện then chốt trong
chiến lược đầu tư. Người viết: “đặt kế hoạch công nghệ cho đúng đắn và hợp
lý là một điều kiện chủ chốt trong việc tiêu dung tiền của”.
1.3. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
Miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội với nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện nhiệm vụ này,
Hồ Chí Minh đã có điều kiện nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn công nghiệp
hóa. Do đó, có thể nói, đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp
hóa được phát triển toàn diện trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Ta
có thể tìm hiểu tư tưởng của Người về vai trò của công nghiệp, khoa học, kỹ
thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên những phương diện sau đây:
Thứ nhất, cũng như các nhà lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh khẳng định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật
đối với mọi quốc gia trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đối với nước
ta, nền kinh tế mới mà chúng ta xây dựng là “một nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên
tiến”, có năng suất cao để không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản
xuất nhỏ là phổ biến, công nghiệp còn rất nhỏ bé, lại bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, để đạt tới những mục tiêu đó, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, về những nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Người nhấn mạnh đến vai trò và sự cần thiết phát triển công
nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp địa phương và tiểu thủ công
nghiệp, về xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và đẩy mạnh công nghiệp hóa nông
nghiệp, nông thôn.
5



Thứ ba, về mối quan hệ giữa công nghiệp hóa và cách mạng khoa học kỹ
thuật. Người luôn nhắc nhở mọi người phải cố gắng học tập khoa học (bên cạnh
học tập chính trị, học tập văn hoá), cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến, nhằm
phục vụ sản xuất và chiến đấu. Nói chuyện tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
nhất của Hội phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam, ngày 18 tháng 5 năm 1963,
khi bàn về nhiệm vụ của khoa học, Người nhấn mạnh: “Chúng ta đều biết rằng
trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa
cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn
thấp kém. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều. Nhiệm vụ của khoa học là ra
sức cải biến những cái đó. Khoa học là tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh
giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột và đấu tranh giữa con người và thiên
nhiên…Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục
vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời
sống nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Nhiệm vụ của khoa học,
kỹ thuật là cực kỳ quan trọng. Cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia
công tác khoa học, kỹ thuật”. Người nói: “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học
chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc bất tận”. Điều sâu sắc trong quan
điểm của Hồ Chí Minh qua câu nói trên là khi Người đem chủ nghĩa xã hội cộng
với khoa học, chứ không phải ngược lại (khoa học cộng với chủ nghĩa xã hội).
Nghĩa là, hạnh phúc vô tận chỉ có thể đến với nhân loại khi khoa học thuộc về
cái thiện, không nằm trong tay kẻ xấu.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG CÔNG
NGHIỆP HÓA ĐẤT NƯỚC
2.1. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân là tất yếu
Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, gian khổ để biến nước ta từ
một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Người nhấn
mạnh, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật

6



chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Người lý giải luận điểm trên đây bằng
các lý do sau đây:
Một là, “nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Đó là chỗ bắt
đầu của chúng ta”.
Hai là, “đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng
máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi”.
Ba là, “công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế… Công
nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển… như hai chân đi khoẻ và đi
đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”.
Từ những lý do trên, Người đi đến kết luận, muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, tất yếu phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Muốn đảm bảo đời
sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Mặc dù
nhiều lần nhắc đến phát triển nông nghiệp làm gốc, nông nghiệp là chính,
nhưng Người vẫn nhấn mạnh công nghiệp hóa mới là con đường cơ bản để
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Người nói: “Hiện nay, chúng
ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì
phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”.
2.2. Nội dung công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta
2.2.1. Phát triển công nghiệp nặng
Khi nói về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
đến vai trò của công nghiệp nặng. Người nói: “Để xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt công nghiệp nặng”. Trong
nhận thức của Hồ Chí Minh, tuy không đồng nhất công nghiệp nặng với công
nghiệp nhưng Người luôn đặt hai khái niệm này cạnh nhau. Chẳng hạn, khi
Người nói: “Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng công nghiệp nặng”. “Muốn có nhiều
máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép,


7


than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp
hóa nước nhà”.
Sở dĩ Hồ Chí Minh coi trọng công nghiệp nặng vì Người cho rằng:
“Công nghiệp nặng làm cơ sở cho nền kinh tế độc lập”, công nghiệp nặng
cung cấp máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, công nghiệp
nặng cũng phải cung cấp máy móc các loại cho công nghiệp nhẹ và cho tiểu
thủ công nghiệp.
Khi viết và nói về công nghiệp và công nghiệp nặng trong giai đoạn
xây dựng chủ nghĩa xã hội Người không dùng cụm từ “ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng”. Ngay như trong bài nói chuyện tại Hội nghị của Bộ Công
nghiệp nặng ngày 31 tháng 12 năm 1964, Người cũng chỉ nói công nghiệp và
công nghiệp nặng phải cung cấp máy móc, phân hóa học cho nông nghiệp,
cung cấp đủ máy móc cho công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp. Phải chăng,
bằng kinh nghiệm từng trải, Hồ Chí Minh đã thấy trước rằng, nếu hiểu không
đúng nội dung này, rất dễ dẫn đến việc đầu tư không hiệu quả, nhất là đối với
một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta. Theo Hồ
Chí Minh, sự phát triển của công nghiệp nặng trước hết phải xuất phát từ đòi
hỏi trong sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp.
Người hay dùng cụm từ công nghiệp xã hội hóa với hai mục đích. Một
là, sự phát triển về số lượng khiến cho công nghiệp và nông nghiệp phát triển
mạnh mẽ, rộng khắp; hai là, sự phát triển về chất lượng, sự gắn kết chặt chẽ
giữa các ngành của công nghiệp, nông nghiệp và của cả nền kinh tế do sự phát
triển của kỹ thuật, công nghệ quy định.
2.2.2. Phát triển công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
Tại Hội nghị ngành công nghiệp nhẹ ngày 16 tháng 1 năm 1965, Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của công nghiệp nhẹ: “Mọi chính sách của

Đảng và Chính phủ ta đều nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân. Ngành công nghiệp nhẹ quan hệ rất khăng
khít với đời sống hang ngày của nhân dân. Vì vậy, nhiệm vụ của công nghiệp
8


nhẹ là rất quan trọng”. Người cũng rất coi trọng ngành tiểu thủ công nghiệp
và công nghiệp địa phương. Tại Hội nghị tổng kết công tác của Bộ Công
nghiệp ngày 22 tháng 1 năm 1960, Người đã nói về cách thức phát triển công
nghiệp địa phương như sau: “Đối với công nghiệp địa phương còn mới, các xí
nghiệp quốc doanh phải chú ý giúp đỡ làm cho công nghiệp địa phương ngày
một phát triển. Nhưng các địa phương không nên ỷ lại vào Trung ương mà
phải chú ý làm cho đúng phương châm: vốn, nguyên liệu, vật liệu, người địa
phương là chính; sản xuất hàng ra chủ yếu bán ở địa phương”. Trong thư gửi
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An đề ngày 21 tháng 7 năm 1969, Người
căn dặn: “Công nghiệp và thủ công nghiệp phải sản xuất nhiều công cụ làm
đất, tưới tát, vận chuyển… phải cung cấp nhiều hàng tiêu dùng tốt và rẻ cho
nhân dân”.
2.2.3. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
lựa chọn cơ cấu kinh tế nào cho hợp lý cho chặng đường đầu là một vấn đề hết
sức nan giải.
Ngay từ đầu, Hồ Chí Minh xác định, đó là cơ cấu công - nông
nghiệp hiện đại và đưa ra quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế
công - nông nghiệp và vai trò của thương nghiệp trong phát triển kinh tế,
xã hội ở thời kỳ quá độ. Theo Hồ Chí Minh, trong cơ cấu toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, công nghiệp và nông nghiệp có vai trò, vị trí riêng.
Đây là hai ngành sản xuất ra những sản phẩm, đáp ứng những nhu cầu
khác nhau của nền kinh tế, của toàn xã hội. Trong Báo cáo Dự thảo Hiến

pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ngày 18 tháng 12 năm 1959, Người đã phác thảo mô hình nền
kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ lên là: nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến.
9


2.2.4. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nền
kinh tế nước nhà, Hồ Chí Minh rất chú ý đến công nghiệp hóa nông nghiệp,
nông thôn. Người nhiều lần nói đến việc sử dụng máy móc trong sản xuất nông
nghiệp. Nói chuyện tại Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh Thanh Hóa, đề cập đến
việc cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, Người vừa khẳng định tính cần
thiết, đồng thời lưu ý đến sự khó khăn, phức tạp, không chủ quan, nôn nóng:
“Muốn cơ giới hóa nông nghiệp cũng còn mất hàng 15, 20 năm chứ không làm
ngay một lúc được”. Để ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, công
tác quy hoạch phải đi trước một bước, Người đã nói đến việc khoanh vùng nông
nghiệp với nhân dân và cán bộ xã Đại Nghĩa (Hà Đông): “Nơi nào sản xuất lúa
nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất lúa là chính, nơi nào sản xuất chè
nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất chè là chính… Làm như vậy thì
sau này dùng máy móc cũng dễ và tiện”. Để tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn, Người lưu ý: “Công nghiệp phải phát triển mạnh để
cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân;
cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu… để đẩy mạnh nông
nghiệp; và cung cấp dần dần máy cấy, máy bừa cho các hợp tác xã nông
nghiệp”. Kinh tế gia đình và nghề phụ của nông dân là bộ phận cơ bản của kinh
tế nông thôn. Người quan tâm đến cả “miếng vườn của mỗi giai đình xã viên và
các loại nghề phụ là nguồn lợi để tăng thu nhập”, “cần phát triển thích đáng kinh
tế phụ gia đình xã viên”.

2.2.5. Thực hiện một cuộc cách mạng kỹ thuật
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi liền với xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật là công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học, kỹ thuật phục
vụ sản xuất. Để tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật,
Người rất coi trọng việc nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động, cũng
như rất coi trọng lao động trí óc. Người nói: “Lao động trí óc có quý không?
Quý. Lao động chân tay có quý không? Quý. Người lao động trí óc mà không
10


liên hệ với lao động chân tay thì chỉ là trí thức một nửa. Còn người lao động
chân tay mà văn hoá kém, không biết lao động trí óc thì cũng là người không
hoàn toàn, cũng chỉ được một nửa”. Người còn căn dặn những cán bộ khoa
học, kỹ thuật: “Phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền
bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh sản xuất nhiều,
nhanh, tốt, rẻ”.
2.3. Các bước tiến hành và quan điểm công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa
Tại Hội nghị Bộ Chính trị bàn về phương hướng khôi phục và phát
triển kinh tế sau khi hòa bình vừa lập lại, có ý kiến muốn tập trung lực lượng
vào xây dựng và phát triển công nghiệp nặng để nhanh chóng đưa nền kinh tế
nước ta tiến lên; Hồ Chí Minh đã phát biểu như sau: “Mấy năm kháng chiến
ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị,… nếu muốn công nghiệp hóa
gấp thì là chủ quan… Cho nên, trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp.
Làm trái với Liên Xô, đó cũng là mácxít. Trung Quốc phát triển cả công
nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, đồng thời phát triển cả nông nghiệp. Ta cho
nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp
nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, bước đi cụ
thể của quá trình công nghiệp hóa ở nước ta là:
1. “Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên”;

2. “Rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ”,
3. “Sau mới đến công nghiệp nặng”.
Qua ba bước trên, ta hiểu tại sao phải ưu tiên phát triển nông nghiệp,
lấy phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính? Mọi người đều biết, miền Bắc
nước ta vừa ra khỏi chiến tranh, nông dân đang đói. Để cải thiện và từng bước
nâng cao đời sống nhân dân, trước hết phải giải quyết vấn đề “ăn”, vấn đề
“mặc”, rồi mới đến các vấn đề khác. “Dân có đủ ăn, đủ mặc thì những chính
sách của Đảng sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt thì chính sách của
ta có hay đến mấy cũng không thực hiện được”. Mặt khác, có phát triển nông
11


nghiệp mới có cơ sở để phát triển công nghiệp. “Vì nước ta là một nước nông
nghiệp, mọi việc đều phải dựa vào nông nghiệp. Phải có một nền nông nghiệp
phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh”. Muốn phát triển công
nghiệp, phát triển kinh tế nói chung, thì phải lấy nông nghiệp làm gốc, làm
chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển
công nghiệp, vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công
nghiệp và tiêu dùng hàng hóa của công nghiệp làm ra”. Hơn thế nữa, nước ta
có khí hậu nhiệt đới, đất đai màu mỡ, lao động nông nghiệp dồi dào, đó là ba
nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa là điều kiện thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa không có. Do đó, trong thời kỳ quá
độ, phải dựa vào nông nghiệp, phải đi lên từ nông nghiệp, phải coi “phát triển
nông nghiệp là cực kỳ quan trọng”.
Hồ Chí Minh cho rằng, từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ
nghĩa xã hội, việc thực hiện cách mạng khoa học, kỹ thuật phải được triển
khai lâu dài. Người gọi đó là “con đường muôn dặm của cách mạng kỹ thuật”.
Thường xuyên động viên nông dân, quân đội cải tiến kỹ thuật bởi Người cho
rằng: “Nhân dân ta rất cần cù, thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và sinh
hoạt, họ có rất nhiều kinh nghiệm quý báu”. Trong những năm 60 của thế kỷ

XX, phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật được triển khai rất mạnh
mẽ, thu hút đông đảo công nhân và nông dân tham gia, mang lại hiệu quả kinh
tế lớn.
Từ những nhận thức đúng đắn đó, Hồ Chí Minh nêu lên một số quan
điểm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, công nghiệp hóa là sự nghiệp của toàn dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khóa II (năm 1958) đ ã
khẳng định: “Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
trung tâm đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm: công nghiệp hóa là sự
nghiệp của toàn dân.
12


Là sự nghiệp của toàn dân, do đó, nguyên tắc cơ bản trong quan điểm
của Hồ Chí Minh là tin dân, dựa vào dân để tiến hành công nghiệp hóa. Theo
Người, sự nghiệp lớn lao đó không phải của riêng một tầng lớp, giai cấp nào
mà “đó là công tác chung của tất cả mọi người”, trong đó, giai cấp công nhân
vừa là lực lượng chủ chốt, vừa là người lãnh đạo. Người nói: “Ai xây dựng
chủ nghĩa xã hội? Nói chung là những người lao động trong xã hội gồm công
nhân, nông dân và trí thức cách mạng, nhưng lực lượng chủ chốt xây dựng
chủ nghĩa xã hội là công nhân; giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo”.
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
nghiệp công nghiệp hóa. Nhưng công nghiệp hóa ở một nước nghèo, lại trải
qua chiến tranh lâu dài, muốn thắng lợi thì phải có vốn. Huy động vốn từ đâu?
Không thể trông chờ vào sự giúp đỡ của các nước, mà phải dựa vào dân.
“Tiền ở nhân dân tức là ở nông dân và công thương”, “tiền của nhân dân trở
lại làm lợi cho nhân dân”. Người kêu gọi cán bộ và nhân dân thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí để có vốn xây dựng đất nước. “Muốn xã hội giàu thì
mỗi cá nhân, mỗi gia đình cho đến cả nước phải tăng gia sản xuất, thực hành

tiết kiệm”. Giải quyết vấn đề huy động vốn trong dân, Hồ Chí Minh một mặt
nhấn mạnh giải pháp thực hành tiết kiệm, mặt khác, Người đã phân tích thấu
đáo vai trò của các thành phần kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa: kinh
tế quốc doanh có tính chất chủ nghĩa xã hội; kinh tế hợp tác xã có tính chất
nửa xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân tuy có bóc lột công nhân nhưng
cũng góp phần xây dựng kinh tế; kinh tế cá thể là lực lượng cần thiết cho xây
dựng kinh tế nước nhà.
Để thực hiện công nghiệp hóa, theo Hồ Chí Minh, giữ vai trò quyết
định là vấn đề con người. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con
người xã hội chủ nghĩa”. Người chỉ rõ hai mặt ưu điểm và nhược điểm trong
con người Việt Nam. Bên cạnh lòng yêu nước, cần cù, tiết kiệm là sự thấp
kém về trình độ khoa học, kỹ thuật, lề lối làm việc còn lạc hậu, năng suất lao
động còn thấp, phong tục, tập quán lạc hậu còn nhiều… Do đó, để phát huy
13


sức mạnh của nhân dân vào sự nghiệp công nghiệp hóa, Người nhấn mạnh
đến một số biện pháp nhằm “bồi dưỡng sức dân”.
Thứ hai, công nghiệp hóa và nông nghiệp luôn có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Theo Hồ Chí Minh, công nghiệp và nông nghiệp vừa là mục tiêu vừa là
động lực, có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết trong quá trình công nghiệp hóa
ở nước ta. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ và phức tạp cần được xử lý thấu đáo.
Người viết: “Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển” và
Người chỉ rõ: “Quan trọng nhất trong đời sống nhân dân là vấn đề ăn. Để giải
quyết tốt vấn đề ăn thì sản xuất lương thực phải dồi dào. Muốn như vậy thì
công nghiệp phải giúp cho nông nghiệp có nhiều máy làm thuỷ lợi, máy cày,
máy bừa, nhiều phân hóa học… Ta cũng cần có nhiều than để cung cấp cho
các nhà máy đó. Chúng ta cũng cần xuất khẩu nhiều than để mua them máy
móc và nguyên liệu đặng phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng hơn”.

Cũng theo Hồ Chí Minh, đời sống nông dân phát triển và nâng cao
không chỉ cần công cụ mà còn cần thiết nhiều loại hàng hóa tiêu dùng thiết
yếu. Do đó, công nghiệp “phải cung cấp nhiều hàng tiêu dùng tốt và rẻ cho
nhân dân”. Như vậy, không phải chỉ có công nghiệp nặng mà cả công nghiệp
nhẹ phải đặc biệt “chú trọng phục vụ nông nghiệp”, không chỉ có công nghiệp
trung ương mà cả công nghiệp địa phương cũng cần phải cung cấp những
hàng hóa và dụng cụ thích hợp với yêu cầu của nông dân và nông nghiệp.
Như vậy, muốn cho nông nghiệp phát triển thì công nghiệp phải được
phát triển và công nghiệp muốn phát triển phải nhằm phục vụ cho nông
nghiệp. Giải quyết đúng đắn, hợp lý mối quan hệ này thì kinh tế, xã hội mới
phát triển, đời sống nhân dân mới không ngừng được cải thiện.
Thứ hai, nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp và các ngành
kinh tế khác. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh xác
định cơ cấu công nông nghiệp hiện đại: “công nghiệp và nông nghiệp là hai
chân của nền kinh tế nước nhà”. Trong quá trình chỉ đạo thực tiễn, Người
14


thường nhắc nhở cán bộ: “phải lấy nông nghiệp làm chính”, các ngành “công
nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hang, giao thông, kiến trúc, văn hoá,
giáo dục, y tế… Các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp làm trung tâm”.
Tức là, nông nghiệp là “cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác”. Để thực
sự là cơ sở cho công nghiệp và các ngành kinh tế khác, bản thân nông nghiệp
không thể là một nền nông nghiệp lạc hậu, phân tán, manh mún, sản xuất nhỏ
là chủ yếu. Do vậy, khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, “cần phải cải tạo
và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế
khác”. Đây là vấn đề được Hồ Chí Minh quan tâm nhiều nhất cả trong suy
nghĩ lẫn trong chỉ đạo thực tiễn. Con đường cải tạo và phát triển nông nghiệp
là hợp tác xã, bởi “hợp tác xã là hợp vốn, hợp sức với nhau, vốn nhiều, sức
mạnh thì khó nhọc ít mà lợi nhiều”. khi tổ chức hợp tác xã, Người lưu ý “phải

theo đúng nguyên tắc tự giác, tự nguyện” của nông dân, “phải thật sự dân
chủ”, làm việc phải có kế hoạch thống nhất thì xã viên cũng như tập thể đều
có lợi. Để nông nghiệp là cơ sở, cho đến lúc sắp đi xa, Người vẫn đau đáu
trong Di chúc việc miễn thuế cho nông dân sau ngày giải phóng đất nước.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa công nghiệp và
nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa là sự thể hiện tư duy sáng tạo
của Người. Tiếc rằng, một thời gian dài trước đây, ta chưa nhận thức thấu đáo
nên trong triển khai thực hiện còn gặp nhiều vấp váp.
Cho đến nay, những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
công nghiệp hóa mới dừng lại ở việc trình bày những tư tưởng này được hình
thành trong những điều kiện nào, nội dung hàm chứa trong những quan điểm
đó là gì, chưa mấy tác giả giải thích xem những chủ trương, chính sách và
diễn biến trong thực tiễn công nghiệp hóa đất nước đã chịu tác động của
những tư tưởng đó ra sao. Chương này xin thử đóng góp một phần theo
hướng hệ thống hóa quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp
hóa XHCN trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước
nhà. Với cách tiếp cận này, có thể tạm chia quá trình vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về công nghiệp hóa thành hai giai đoạn:
15


- Từ 1960 đến 1991 (trước khi Đảng ta khẳng định: : “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động”).
- Từ 1991 đến nay (thực tiễn hơn hai thập niên chính thức hóa việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa nền kinh tế nước nhà).
III. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG
NGHIỆP HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
3.1. Đặc điểm tình hình
Thứ nhất, miền Bắc nước ta tiến hành công nghiệp hóa XHCN từ một

nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp kém phát triển.
Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cộng với hậu quả
nặng nề do chiến tranh tàn phá và “di sản” của chế độ phong kiến đã để lại
trên miền Bắc nước ta sau khi hòa bình lập lại một nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, công nghiệp hầu như không có gì. Phân tích tình hình đất nước khi
bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn chỉ rõ: “Tính
chất phản động to lớn nhất về mặt kinh tế của đế quốc Pháp ở Việt Nam là
kìm hãm nền kinh tế nước ta không cho tiến lên, ngay cả tiến lên chủ nghĩa tư
bản”. Xuất phát điểm như trên đặt ra cho quá trình công nghiệp hóa XHCN ở
nước ta phải thực hiện một quá trình kép: vừa làm những nhiệm vụ của công
nghiệp hóa TBCN, vừa phải định hình những nội dung mới của công nghiệp
hóa XHCN. Do đó, từ Đại hội Đảng lần thứ III (1960), việc tiến hành cách
mạng khoa học kỹ thuật để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH
được xem là then chốt của cách mạng XHCN. Trong cuộc cách mạng này,
công nghiệp hóa được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta. Trên tinh thần đó, Lê Duẩn đã đưa ra quan niệm rất
tiến bộ: công nghiệp hóa không chỉ được hiểu như sự phát triển công nghiệp,
mà là đưa toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoạt động theo phương thức của công
nghiệp; công nghiệp hóa là điều kiện, là giải pháp cơ bản nhất để xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, để cải tạo toàn bộ nền kinh tế và toàn bộ đời
16


sống xã hội, chuyển từ phong cách sản xuất nhỏ, lạc hậu, sang phong cách của
sản xuất lớn, hiện đại.
Thứ hai, tiến hành công nghiệp hóa trong điều kiện đất nước bị chia
cắt, miền Bắc phải thực hiện vai trò của hậu phương lớn với tiền tuyến lớn
miền Nam và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Hiệp định Giơnevơ (1954) được ký kết, miền Bắc giải phóng, có điều
kiện để bắt tay vào công cuộc kiến thiết đất nước sau chiến tranh, nhưng đế

quốc Mỹ đã biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và là căn cứ để mở rộng
chiến tranh ra cả nước. Do đó, công nghiệp XHCN không có điều kiện diễn ra
trên phạm vi cả nước, nên không phát huy được những tiềm năng, thế mạnh
của mỗi vùng, miền trong cơ cấu kinh tế của một quốc gia thống nhất.
Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là nhiệm vụ thiêng liêng
của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới, trong đó miền Bắc có sứ mệnh lịch
sử mới là hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Công nghiệp hóa
XHCN trên miền Bắc không chỉ hướng tới mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH và không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân, mà còn trực tiếp phục vụ cuộc kháng chiến chống
mỹ, cứu nước. Do đó, tiến trình công nghiệp hóa đòi hỏi phải tính toán đầy đủ
giữa yêu cầu quốc phòng và kinh tế, kể cả trong cơ cấu ngành nghề và phân
bố địa bàn xây dựng nhà máy, xí nghiệp. Do phải dồn sức cho sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nên khả năng tích lũy, tiêu dùng và tái
đầu tư cho công nghiệp hóa bị phân tán.
Sau những thất bại trên khắp các chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ
đã hiểu rõ nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ sức mạnh miền Bắc, nên tìm cách
phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc. Qua hai đợt sử dụng không
quân và hải quân đánh phá miền Bắc (1964 - 1968 và 1972), các xí nghiệp
công nghiệp và hệ thống giao thông huyết mạch là những mục tiêu hàng đầu
bị phá hoại. Theo thống kê, hầu hết các khu công nghiệp, 100% nhà máy điện,
345 xí nghiệp bị đánh phá nặng nề. Để chủ động ứng phó với tình hình cả
17


nước có chiến tranh, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương kịp thời để
chuyển hướng kinh tế nói chung và công nghiệp hóa nói riêng. Theo tinh thần
đó, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp… phải xem xét cả khả năng chiến tranh
và hòa bình đan xen, nhất là quy mô và địa bàn phù hợp cho sơ tán, phân
tán… Trong điều kiện chiến tranh vẫn tiến hành nghiên cứu điều tra cơ bản,
thăm dò, khảo sát, lập quy hoạch dài hạn, có kế hoạch đào tạo đội ngũ để

chuẩn bị cho xây dựng lớn khi hòa bình.
Thứ ba, tiến hành công nghiệp hóa trong điều kiện các nước XHCN
thực hiện công nghiệp theo mô hình “cổ điển” mà trọng tâm là ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng đã thu được những thành tựu nhất định, cách mạng
Việt Nam nói chung, công cuộc công nghiệp hóa XHCN nói riêng nhận được
sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả từ các nước XHCN anh em, nhưng cũng phụ
thuộc nặng nề vào mô hình đó.
Tiến hành công nghiệp hóa với một tiền đề, điều kiện thiếu thốn, nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, khả năng tích lũy từ nội bộ nền
kinh tế kém, nguồn vốn phục vụ công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào sự giúp đỡ
của các anh em, trong đó phần lớn là viện trợ không hoàn lại. Trong khi đó,
các nước XHCN tiến hành công nghiệp hóa theo mô hình ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng, trong một thời gian ngắn đã tăng cường tiềm lực kinh tế,
quốc phòng. Hội nghị của các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế lần thứ I
(tháng 11 năm 1957) và lần II (tháng 11 năm 1960) với những Tuyên bố
chung khẳng định ý nghĩa to lớn của mô hình Liên Xô đối với toàn thể những
nước muốn đi theo con đường XHCN, đồng thời lên án gay gắt những đảng
và những nước muốn xa rời nguyên tắc cơ bản của mô hình đó. Tuyên bố
chung của Hội nghị lần II (1960) khẳng định: “Kinh nghiệm của Đảng Cộng
sản Liên Xô, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản, có ý nghĩa nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế. Các
Đảng Cộng sản nhất trí lên án hình thức Nam Tư của chủ nghĩa cơ hội quốc
tế, nó là sự biểu hiện tập trung những lý luận của bọn theo chủ nghĩa xét lại
18


hiện đại”. Xã luận báo Nhân Dân ra ngày 7 tháng 12 năm 1960 thể hiện rõ
quan điểm của Đảng ta lúc bấy giờ: “Trong 3 năm qua, Đảng ta luôn luôn tỏ
ra tuyệt đối trung thành với Bản tuyên bố 1957. Từ nay về sau, cũng như đối
với Bản tuyên bố 1957 trước đây, Đảng ta nguyện triệt để ủng hộ và tuân theo

Bản tuyên bố mới, coi đó là vũ khí sắc bén của mình để tăng cường lực lượng
về mọi mặt, tiến lên giành những thắng lợi mới”. Ai cũng biết rằng, điều kiện
tiến hành công nghiệp hóa XHCN ở Liên Xô và Đông Âu khác nhiều so với
nước ta. Thêm vào đó, những diễn biến kinh tế ở Trung Quốc và Đông Âu
trong giai đoạn này ít nhiều đã có những tác động tới những quan điểm kinh
tế ở Việt Nam. Tháng 2 năm 1970, nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Đảng
Cộng sản Đông Dương, Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn có đăng một bài viết dài
trên báo Nhân Dân với nhan đề: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự
do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới”. Bài viết không
chỉ để kỷ niệm ngày sinh của Đảng mà là nhân dịp đó, ông trình bày một cách
hệ thống những tìm tòi, trao đổi, đúc kết và tiếp thu những tư tưởng của Hồ
Chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam nói chung, đường lối công
nghiệp hóa đất nước nói riêng trên cương vị 10 năm là Tổng Bí thư Đảng Lao
động Việt Nam. Ông nhấn mạnh: “Trong ba cuộc cách mạng, cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật là then chốt. Mà then chốt của then chốt là ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng. Đó là công thức chung của các nước xã hội chủ
nghĩa. Nhưng trong hoàn cảnh Việt Nam thì sự ưu tiên đó là có điều kiện (một
cách hợp lý). Điều đó có nghĩa rằng, vẫn phải có công nghiệp nặng như yếu tố
ban đầu để tạo ra cuộc cách mạng dây chuyền của các lĩnh vực kinh tế khác
như nông nghiệp, công nghiệp nhẹ. Nhưng công nghiệp nặng ở Việt Nam có
thể dựa một phần vào sự giúp đỡ của các nước XHCN, do đó có thể lưu ý
nhiều hơn đối với sự phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
3.2. Quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa
XHCN giai đoạn 1960 - 1991
3.2.1. Nguyên tắc hình thành các quyết định trong quá trình công
nghiệp hóa giai đoạn 1960 - 1991
19


Sau khi hòa bình lập lại ít lâu, ở tuổi ngoài 60, sức khỏe đã giảm sút, dù

vẫn đang ở đỉnh cao của uy tín, Người đã chủ động giao dần quyền hạn và
trách nhiệm cho thế hệ kế tiếp. Vì đã chuẩn bị một thế hệ đông đảo những
người kế cận ngay từ trước cách mạng, Người đã trao quyền đúng lúc. Trong
phần lớn các vấn đề về tư tưởng và đường lối kinh tế nói chung, công nghiệp
hóa nói riêng, Người thường để tập thể Bộ Chính trị quyết định, chỉ tham gia
ý kiến, nhắc nhở và điều chỉnh khi cần thiết. Đến năm 1960, Người chính
thức giao trọng trách Tổng Bí thư cho đồng chí Lê Duẩn để giữ cương vị Chủ
tịch Đảng và Chủ tịch nước, không trực tiếp điều hành, trở thành người thầy,
người cha, người anh vĩ đại của dân tộc. Tuy đã giao cho những thế hệ sau
đảm đương việc nước nhưng Người không cho phép mình an nhàn, nghỉ
ngơi. Người luôn luôn hoạt động không mỏi mệt cho dân, cho nước. Hằng
ngày, Người dành thì giờ để bàn bạc với các cán bộ lãnh đạo, theo dõi những
tin tức, lắng nghe ý kiến các giới, các ngành, các địa phương để thấy điều tốt
thì nêu gương, điều chưa tốt thì nhắc nhở bằng thư riêng, bằng những bài viết
ngắn trên báo, đài… Người đi thăm các cơ sở, biểu dương những người tốt,
việc tốt, gặp gỡ các cụ già bàn chuyện trồng cây, gây rừng, tát nước với bà
con nông dân để khuyến khích thâm canh tăng vụ, tiếp các chiến sỹ từ mặt
trận về dự lễ mừng công, tặng áo cho các cụ già, tặng quà các cháu thiếu
nhi…
Trong giai đoạn này, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và
kinh nghiệm chung của phong trào cộng sản thế giới đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh và các nhà lãnh đạo vận dụng vào hoàn cảnh thực tế đất nước. Con
đường và nguyên tắc hình thành các quyết định trong quá trình công nghiệp
hóa ở nước ta như sau: Đại hội Đảng hoạch định đường lối chung, Bộ Chính
trị là cơ quan lãnh đạo cao nhất, là bộ não về tư tưởng, chủ trương, đường lối.
Các cuộc họp Bộ Chính trị với những Nghị quyết và những Chỉ thị của Ban
Bí thư đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành, thể hiện, điều chỉnh
các tư tưởng kinh tế cũng như các chủ trương kinh tế. Từ những tư tưởng lớn
20



và những quyết định quan trọng của Đảng sẽ được tổ chức thực hiện thông
qua bộ máy Chính phủ. Đối với một số vấn đề lớn thì phải đưa ra thông qua
tại Quốc hội. Sau khi Quốc hội đã thông qua, Chính phủ ra những văn bản cụ
thể như Nghị định, Nghị quyết, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị… Trên cơ sở
đó, những cơ quan hữu quan như các Bộ, các Ủy ban… ra các quyết định cụ
thể và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Đó là quy trình hình thành các quyết
định, thể hiện phong cách làm việc tập thể và tinh thần dân chủ trong Đảng,
trong xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng từ ngày lập
quốc và chính thức được thể chế hóa tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10, năm
1956.
3.2.2.Thể nghiệm đầu tiên mô hình công nghiệp hóa XHCN (1960 1975).
Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III được tổ chức vào tháng 9
năm 1960 đã hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.
Đại hội khẳng định: “Muốn cải biến tình trạng nông nghiệp lạc hậu hiện nay
của nước ta, đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên chế độ sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực hiện công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, tạo điều kiện cơ bản cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Mô hình
công nghiệp hóa XHCN của Đại hội III là “ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có
công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”. Cụ thể hóa đường lối của Đại
hội III, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa III họp vào
tháng 4 năm 1962 đã xác định những nhiệm vụ, phương hướng cụ thể trong
xây dựng và phát triển công nghiệp miền Bắc trong Kế hoạch 5 năm lần thứ
Nhất (1961 - 1965). Đó là: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp
21



lý; kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; ra sức
phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng; ra sức phát triển công nghiệp trung ương đồng thời đẩy mạnh phát triển
công nghiệp địa phương.
Đến năm 1965, sau 5 năm thực hiện công nghiệp hóa XHCN theo
đường lối Đại hội III, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường
đáng kể. Công nghiệp nhẹ đã đáp ứng được 90% nhu cầu hàng tiêu dùng thiết
yếu; kết cấu hạ tầng được tăng cường; lao động cơ khí và bán cơ khí đã thay
thế một bước lao động thủ công; năng suất lao động tăng lên; nhiều trung tâm
đô thị công nghiệp mới ra đời…
Bước sang năm 1965, trước thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” ở miền Nam, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam và mở rộng
chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Đứng trước tình
hình chiến tranh lan rộng ra cả hai miền, Hội nghị Trung ương lần thứ 11,
khóa III họp vào tháng 3 năm 1965 đã phân tích tình hình và quyết định
“chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho
phù hợp với tình hình mới nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện to lớn cho cách
mạng miền Nam trong tình hình mới, đồng thời vẫn đáp ứng yêu cầu tiếp tục
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Từ 1965 - 1975,
trong vòng 10 năm với 2 đợt bị không quân và hải quân Mỹ đánh phá, miền
Bắc đã trải qua bốn lần chuyển hướng kinh tế. Quá trình công nghiệp hóa
XHCN buộc phải điều chỉnh ở mấy nội dung sau đây: cơ cấu ngành nghề sản
xuất không chỉ hướng vào những lĩnh vực phục vụ dân sinh, mà cơ bản hơn là
quốc phòng; quy mô nhà máy, xí nghiệp chủ yếu hướng về quy mô nhỏ, phân
tán… Với sự chuyển hướng đúng đắn và kịp thời, cộng thêm tinh thần thi đua
yêu nước của các tầng lớp nhân dân, sự nghiệp công nghiệp hóa đã từng bước
vượt qua khó khăn, thử thách, từng bước đáp ứng nhu cầu dân sinh và phục
vụ chiến tranh. Giao thông vận tải được giữ vững. Công nghiệp nhẹ và công

nghiệp nặng vẫn được tăng cường hơn trước. Cơ cấu kinh tế tiếp tục có sự
22


chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp,
giảm dần tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp trong tổng sản phẩm xã
hội.
Như vậy, đến năm 1975, thực hiện đường lối của Đại hội III và các Hội
nghị Trung ương khóa III, trong hoàn cảnh đất nước vừa có hòa bình, vừa có
chiến tranh, công cuộc công nghiệp hóa XHCN đã đạt được một số thành tựu
quan trọng. Những thành tựu đó góp phần to lớn vào chiến thắng trong sự
nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đồng
thời tạo nên một diện mạo mới cho nền kinh tế miền Bắc. Tuy vậy, đến năm
1975, công cuộc công nghiệp hóa vẫn chưa làm thay đổi được tính chất sản
xuất nhỏ của nền kinh tế miền Bắc: cơ sở vật chất - kỹ thuật vẫn trong tình
trạng nghèo nàn, nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu vẫn dựa vào lao động thủ
công, tổ chức sản xuất rời rạc, phân tán. Hạn chế lớn nhất vẫn là sự mất cân
đối lớn của nền kinh tế: giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng, năng lượng, nguyên liệu; giữa xuất khẩu và nhập khẩu; giữa tích lũy và
tiêu dùng… Hiện trạng đó có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết do tiền đề,
điều kiện để tiến hành công nghiệp hóa XHCN ở miền Bắc quá thấp kém và
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ buộc phải liên tục điều chỉnh, chuyển
hướng, không có điều kiện để tổng kết, đánh giá hiệu quả của mô hình trong
thực tiễn. Về chủ quan, đường lối công nghiệp hóa XHCN chưa sát với thực
tiễn Việt Nam; chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng chưa gắn bó
chặt chẽ, hữu cơ với toàn bộ cơ cấu nền kinh tế quốc dân, nhất là giữa công
nghiệp với nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng với công nghiệp nhẹ, giữa
công nghiệp với nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Ngoài ra, tiến hành công
nghiệp hóa XHCN trong khuôn khổ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung với
cơ cấu quan liêu, bao cấp nên đã không tìm được động lực cần thiết từ thị

trường để phát huy những tiềm năng của đất nước.
3.2.3. Thể nghiệm lần thứ hai mô hình công nghiệp hóa XHCN trên
phạm vi cả nước (1976 - 1985)
23


Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn giải phóng, chiến dịch Hồ Chí
Minh toàn thắng, đất nước thống nhất, mở ra thời kỳ mới - cả nước cùng đi
lên CNXH. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp vào tháng 9
năm 1976 đã có đánh giá sâu sắc về tình hình kinh tế hai miền: “Nhìn chung
cả nước, tuy ở mặt này mặt kia đã xuất hiện những yếu tố của sản xuất lớn,
song sản xuất nhỏ vẫn còn phổ biến. Tính chất sản xuất nhỏ thể hiện rõ nét
trên mấy mặt sau đây: cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhỏ, yếu; tuyệt đại bộ
phận lao động là thủ công, năng suất lao động xã hội rất thấp, phân công lao
động chưa phát triển; công nghiệp lớn, nhất là công nghiệp nặng còn ít và rời
rạc, chưa đủ sức cải tạo kỹ thuật đối với các ngành kinh tế quốc dân; phần lớn
hàng tiêu dùng còn do tiểu thủ công nghiệp sản xuất; công nghiệp và nông
nghiệp chưa kết hợp với nhau thành một cơ cấu…”.
Cả nước bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai, với mục tiêu là giải
quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh và bước đầu thực hiện công nghiệp
hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
Sau giải phóng không lâu, hàng hóa trên thị trơờng cạn đi nhanh chóng,
viện trợ hàng năm khoảng 1 tỷ USD Mỹ cho từng miền (Mỹ cho miền Nam,
Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu cho miền Bắc) không còn nữa, cơ
sở kinh tế trong nước đang thời kỳ chuyển đổi và cải tạo, sản xuất phát triển
chậm lại. Tình hình nêu trên đặt ra cho kinh tế miền Nam là: vừa phải đẩy
mạnh việc khắc phục hậu quả chiến tranh, lệ thuộc nước ngoài, chia cắt với
thị trường cả nước vừa phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, gắn bó
chặt chẽ với kinh tế miền Bắc trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất,
vừa phải chuẩn bị những tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN.

Để “nhanh chóng đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN trong
khoảng 20 năm”, Đại hội IV xác định điều có ý nghĩa quyết định là phải thực
hiện công nghiệp hóa XHCN - nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta - để tạo ra một cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại. Con
đường cơ bản để tạo ra cơ cấu ấy là “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
24


cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Như vậy,
so với đường lối công nghiệp hóa của Đại hội III đã được cụ thể hóa và bổ
sung qua các Hội nghị Trung ương khóa III, đường lối công nghiệp hóa Đại
hội IV không khác gì nhiều. Tinh thần cơ bản vẫn là phát triển cả ba lĩnh vực:
công nghiệp nặng, nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, trong đó vẫn ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; công nghiệp nặng giữ vai trò chủ
đạo; nông nghiệp và công nghiệp nhẹ là cơ sở; kết hợp cả ba quy mô (lớn vừa - nhỏ), lấy quy mô lớn làm nòng cốt với ba trình độ kỹ thuật: thủ công,
nửa cơ khí và cơ khí.
Thực hiện đường lối, chủ trương công nghiệp hóa XHCN nền kinh tế
cả nước do Đại hội IV đề ra trong bối cảnh không mấy thuận lợi, đến năm
1980, kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ II (1976 - 1980), hầu hết các chỉ tiêu đề
ra đều không đạt: cơ khí chỉ đạt 80%, điện 72%, than 52%, vải 39%, giấy
37%, xi măng 32%, phân hóa học 28%. Như vậy, đây là lần thứ hai việc thực
hiện Kế hoạch 5 năm hướng tới các mục tiêu công nghiệp hóa đất nước đã
không đạt như mong muốn. Đến đầu thập niên 80, công nghiệp Việt Nam
không những không tiến thêm một bước mà trái lại còn bộc lộ nhiều yếu kém,
nhất là những cân đối lớn trong quan hệ cung cầu đã không còn đảm bảo như
năng lượng, cơ khí chế tạo, hàng tiêu dùng thiết yếu…
Hạn chế nêu trên trước hết do nguyên nhân khách quan là tiến hành
công nghiệp hóa XHCN từ xuất phát điểm rất thấp, sản xuất nhỏ còn phổ
biến, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế không đáng kể, nguồn viện trợ của các
nước XHCN giảm dần. Thêm vào đó, chính sách bao vây, cấm vận của đế

quốc Mỹ và một số nước phương Tây gây khó khăn nặng nề. Khắc phục hậu
quả chiến tranh đòi hỏi phải tập trung nhiều nguồn lực, làm giảm khả năng cải
thiện đời sống nhân dân và tích lũy để tái đầu tư cho sự phát triển. Trong khi
hậu quả chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra chưa được khắc phục song lại phải
đối mặt với hai cuộc chiến tranh trên hai tuyến biên giới (phía Bắc và Tây
Nam).
25


×