Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

GIÁ TRỊ CỦA BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.49 KB, 7 trang )

Đã nhiều thập kỷ nay, Bình Ngô đại cáo được đưa vào chương trình dạy-học môn Văn
(sau gọi là môn Ngữ văn) ở cấp cuối trường phổ thông. Thường thì người ta cứ mặc
nhiên dạy- học nó như một văn bản văn chương mà không mấy người đặt ra vấn đề
phải chăng nội dung dạy- học đó phù hợp với tính chất môn học hay đã lấn sân sang
môn học khác, môn Lịch sử chẳng hạn, và cùng với điều đó lại có thể bỏ sót một số
giá trị văn chương nào đó bởi trước tác này mang tính chất nguyên hợp, không chỉ là
“văn sử bất phân” mà ngay ở phần văn cũng là tổng hoà của nhiều loại văn: văn
nghị luận, văn tự sự, văn trữ tình… Và mặc dầu bản hùng văn này đã được nhiều
người nghiên cứu dưới các góc độ, đạt được nhiều thành tựu, song vẫn có những vấn
đề cần phải nhận thức lại.
Bình Ngô đại cáo trước hết là một văn kiện lịch sử. Cuối năm 1427 (cũng có những
tài liệu cổ cho rằng đầu năm 1428) được lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô
đại cáo và văn bản này được công bố tháng 4 năm 1428 bố cáo cho toàn quân dân
biết sự nghiệp bình Ngô đã hoàn toàn thắng lợi, quân thù đã thảm bại và phải cút
khỏi nước ta, một vận hội mới đã mở ra cho giang sơn xã tắc. Chỉ với tư cách văn
bản quan phương Bình Ngô đại cáo mới được đưa vào bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn
thư(1) chứ không phải vì nó là tác phẩm văn chương xuất sắc của một bề tôi. Tuy
nhiên, các thể loại văn chương Việt Nam thời trung đại-như viện sĩ Đ.X. Likhatsôp
nhận thấy ở thể loại văn học Nga cổ- “là để phục vụ nhằm thoả mãn cả một kết hợp
phức tạp những nhu cầu xã hội và tồn tại gắn liền với điều đó trong một sự lệ thuộc
với nhau rất chặt chẽ”(2), nên từ khi ra đời, Bình Ngô đại cáo không phải chỉ được
tiếp nhận chủ yếu như một văn bản hành chính mà còn như một kiệt tác văn
chương.
Cáo là một thể trong loại văn chiếu lệnh, loại văn được người xưa coi trọng nhất.
Luận ngữ ghi lời của đức Khổng Tử khen nước Trịnh cẩn trọng khi soạn thảo loại văn
bản này: Tử viết: “Vi mệnh, Tỳ Thầm thảo sáng chi. Đông Lý Tử Sản nhuận sắc chi
Thế Thúc thảo luận chi. Hành nhân Tử Vũ tu sức chi” (Đức Khổng Tử nói rằng: “Khi
nước Trịnh làm tờ từ mệnh gửi cho nước khác, ông Tỳ Thầm khởi thảo, ông Thế Thúc
khảo cứu bàn bạc, quan hành nhân là ông Tử Vũ sửa chữa thêm bớt, ông Tử Sản ở
đất Đông Lý trau chuốt lại”). Tỳ Thầm, Thế Thúc, Tử Vũ, Tử Sản là những người tài
nổi tiếng đương thời, cả bốn người hợp sức lại để viết cho thấy thái độ của người


đương thời về loại văn liên hệ trực tiếp với chính sự này. “Chính giả, chính dã” (Chính
trị là chính nghĩa - Luận ngữ). Một phương tiện để làm rõ chính nghĩa của các đế
vương và các triều đại chính là văn chiếu lệnh. Văn chương thẩm mỹ để ngâm ngợi,
chỉ cho thấy tài năng của cá nhân trong khi văn chiếu lệnh phục vụ đắc lực cho chính
sự, gắn bó với sự hưng vong của vương triều và quốc thể. Văn chương thời trung đại
khác văn chương hiện nay ở nhiều phương diện, trong đó bộ phận khác biệt lớn nhất
là những thể loại chức năng, bởi như Đ.X. Likhatsôp đã chỉ rõ những thể loại này
nhằm đáp ứng đồng thời nhiều nhu cầu xã hội, khác với hiện nay đã có sự khu biệt
về thuộc tính và chức năng của các hình thái ý thức. Tìm hiểu những văn bản loại
này cần kết hợp linh động giữa tư duy lịch đại và tư duy đồng đại. Hiển nhiên người
ngày nay tiếp nhận chúng không giống người thời trung đại, nếu không có quan điểm
lịch sử cụ thể sẽ bỏ qua hoặc không đánh giá đúng những giá trị đặc thù, mà đây lại
là một trong những nguyên cớ để chúng có mặt trong chương trình dạy-học ngữ văn
ngày nay.
Cáo là một thể của loại văn học chức năng, loại trước tác có yêu cầu đầu tiên và cao
nhất là “từ nghiêm nghĩa chính” (ngôn từ chuẩn mực, ý nghĩa chính đáng). Bình Ngô
đại cáo là một tác phẩm đỉnh cao nên nó mang thuộc tính phổ quát của các hiện
tượng điển hình, là nghiên cứu nó sẽ không chỉ biết về một cá thể mà còn nhận thức
được một phạm vi rộng hơn thuộc cấp độ loại - ở đây là loại văn học chức năng.
Trước tác này ra đời cách đây đã năm thế kỷ, khi ấy các thể loại văn học chức năng
còn mang đậm tính chất nguyên hợp, bởi vậy bản đại cáo còn tích hợp nhiều giá trị
khác, mà ở đây chúng ta quan tâm tìm hiểu là giá trị văn chương. Với đặc điểm của
tư duy người đương thời, giá trị văn chương không ngăn trở, chế ước giá trị hành
chính của văn bản, trái lại, như thực tế cho thấy, đã tạo thêm sức sống cho văn bản
quan phương này.
Giá trị của Bình Ngô đại cáo trước hết là ở phương diện một trước tác chính luận, loại
văn bản được đánh giá cao khi có hệ thống lập luận chặt chẽ, thể hiện sâu sắc và
sinh động những vấn đề có ý nghĩa trọng đại của quốc gia dân tộc. Với Bình Ngô đại
cáo, không phải nhà chuyên môn cũng dễ nhận ra được lôgic lớn của toàn bài và sự
thứ lớp trong lập luận của từng phần. Tiêu biểu cho tầm khái quát của văn bản là

đoạn đầu (Nhân nghĩa chi cử… quyết hữu minh trưng). Đoạn này như một định nghĩa
rất tiêu biểu về quốc gia phong kiến, được đánh giá là cống hiến có ý nghĩa thế giới,
khiến cho các thế hệ sau thán phục, tự hào. Đây là thành tựu đột xuất của lịch sử tư
tưởng Việt Nam thời ấy, nhưng với Nguyễn Trãi, là thành tựu tất yếu vì tất cả mọi ý
niệm đó đều đã có trong Quân trung từ mệnh tập, đây chỉ là tập đại thành. Thành
quả đó do ba nguyên nhân. Trước hết do tài năng siêu việt của nhà trí thức-người
anh hùng Nguyễn Trãi vì chính ông chứ không ai khác đã từ tầm cao thời đại, khái
quát những giá trị to lớn của đất nước và đồng bào, của văn hoá Việt. Nguyên nhân
thứ hai thuộc thời đại đầy biến động to lớn, khiến vấn đề dân tộc dân chủ được đặt
ra cực kỳ gay gắt. Người trí thức Nguyễn Trãi đã được tôi luyện trong hoàn cảnh đó,
ông nhìn thấy giang sơn và dân nước mình trong máu và nước mắt trước khi thấy họ
trong hào quang chiến thắng. Với một chút hài hước có thể nói nguyên nhân thứ ba
thuộc “công” của giặc Minh. Chính vì trong thời gian dài phải thường xuyên đương
đầu với kẻ thù mạnh, thâm độc và gian xảo như giặc Minh khiến tư duy Nguyễn Trãi
thêm sắc sảo. Chẳng hạn luận điểm vĩ đại của ông Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân
chính là để phản bác luận điệu xảo trá của quân Minh, vạch rõ bộ mặt thật của
chúng đằng sau chiêu bài nhân nghĩa “hưng diệt kế tuyệt”, tư tưởng này đã được bộc
lộ cụ thể hơn ở Hựu đáp Phương Chính thư (số 5)(3), Tái phục Phương Chính thư (số
8).
Giá trị văn chương của Bình Ngô đại cáo thấm nhuần ở toàn bộ tác phẩm do người
viết luôn nhìn nhận sự vật, hiện tượng cùng với một trí tuệ sắc sảo là một tâm hồn
tinh nhạy, con tim giàu cảm xúc. Điều này thể hiện kín đáo nhưng mạnh mẽ ở ngay
cả đoạn đầu, đoạn chứa đựng những khái quát về lịch sử dài lâu và quang vinh của
đất nước, đoạn chứa đựng những tư tưởng lớn của một bản tuyên ngôn độc lập.
Niềm tự hào to lớn, kiêu hãnh vì được làm con dân của một dòng giống anh hùng và
văn hiến được tác giả thể hiện cô đúc qua những phó từ ngắn gọn: thực (Ngã Đại
Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang = Nước Đại Việt ta thật là nước văn hiến)(4),
ký (Sơn xuyên chi phong vực ký thù = Núi sông bờ cõi đã chia), diệc (Nam Bắc chi
phong tục diệc dị = Phong tục Bắc Nam cũng khác). Ở những đoạn sau, khi lên án tội
ác quân xâm lược, kể lại những khốn khó của nghĩa quân buổi đầu dựng nghiệp,

miêu tả những bước đường thắng lợi của quân dân, đặc biệt đoạn bố cáo kết thúc
chiến tranh… thì cảm xúc càng có điều kiện biểu lộ mạnh mẽ, phong phú.
Giá trị văn chương còn biểu hiện ở sự sáng tạo hình tượng và hình ảnh, điều này liên
quan, hay nói đúng hơn là hệ quả của đặc điểm trên. Từ những năm tuổi trẻ đến
những ngày tháng cuối đời, Nguyễn Trãi luôn biểu hiện một cốt cách nghệ sĩ lớn, chỉ
có những điều kiện nào đó buộc ông phải tiết chế phẩm chất đẹp đẽ này, còn khi tình
huống cho phép, ông tự bộc lộ một cách tự nhiên sinh động. Chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần nhân văn sâu sắc của Bình Ngô đại cáo có sức tác động mạnh mẽ, có sự
trường tồn một phần lớn là do điều này. Nguyễn Trãi diễn tả tư tưởng bằng những
hình tượng sinh động, thật khó phân định đâu là từ nguồn sách vở, đâu là sáng tạo
riêng. Biểu hiện sức mạnh to lớn của nghĩa quân, ông không liệt kê số liệu mà dựng
hình ảnh Ẩm tượng nhi hà thuỷ can; Ma đao nhi sơn thạch khuyết (Gươm mài đá, đá
núi cũng mòn; Voi uống nước, nước sông phải cạn). Diễn tả sự đồng tâm nhất trí
trong quân ngũ vì nghĩa lớn, tác giả mô tả cảnh Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh
nhất tâm (Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào). Chú dẫn
câu này có người đưa ra điển tích Trung Hoa thời Chiến Quốc, còn người đi thực địa
cho biết ngày nay ở miền tây Thanh Hoá còn di tích hòn đá Khao và suối Rượu, cũng
là nêu những sự thực hiển nhiên.
Nguyễn Trãi vâng mệnh của đấng chí tôn, soạn một văn bản hành chính, điều đó đã
rõ ràng, nhưng cũng không kém phần hiển nhiên là trong tâm thế tác giả có cả hai
mục đích đều lớn và không mâu thuẫn: soạn một văn bản hành chính và sáng tạo
một công trình văn chương. (Ăngghen, trong Thư gửi Stáckenbua có viết rằng con
người sáng tạo ra lịch sử của mình, nhưng là sáng tạo trong những điều kiện thực tế
đương tồn tại và những quan hệ mà người ta phải thích ứng). Điều này biểu hiện ở
chỗ ông sử dụng nhiều thủ pháp tu từ, nhiều chất liệu văn chương điển phạm và
nhất là rất có ý thức, có năng lực tạo nên tính nhạc cho ngôn từ. Văn biền ngẫu chỉ
yêu cầu cơ bản là mỗi câu gồm hai vế cân xứng còn độ dài câu văn, sự ngắt nhịp là
do cảm quan của từng người viết. Có người chỉ thấy thuận lợi (do “có khuôn”) mà
không thấy khó khăn đối với tác giả xưa. Trong cái khuôn chung ấy mà biểu lộ được
thần thái riêng của từng nội dung và từng cá tính là điều khó khăn, tài năng lớn cộng

với bản lĩnh cao mới tạo nên được. Nguyễn Trãi rất linh hoạt chính ở chỗ đầy bó buộc
này. Nhạc tính của câu văn Bình Ngô đại cáo đa dạng, phù hợp với nội dung câu văn
tự sự, trữ tình hay nghị luận. Ông tuyên ngôn bằng câu súc tích, chắc nịch Ngã Đại
Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang. Miêu tả tội ác quân thù, ông lại sử dụng thủ
pháp trùng điệp, như cố ghi hết tội ác to lớn, trời không dung, đất không tha của
chúng. Chúng tôi quả rất băn khoăn trước nhận định: “Cáo thường được viết bằng
văn biền ngẫu”(5). Nhận định này có thể làm cho người dạy- học Bình Ngô đại cáo ở
trường phổ thông trung học hình dung theo hai hướng. Một là cho rằng ở nước ta,
ngoài “thiên cổ hùng văn” này còn có những bản cáo khác nữa, thực ra, trong những
bộ quốc sử hiện còn đều không nói tới các bản đại cáo nào khác. Đọc sử sách cũ đôi
khi chúng ta gặp cụm từ “đại cáo thiên hạ” thì chỉ với ý nghĩa là nhà vua hoặc triều
đình, hoặc người đứng đầu một phong trào ban bố rộng rãi điều gì đó, còn không dễ
mà có được những bản đại cáo như thời kỳ đầu của nhà Hậu Lê. Phải có điều kiện
song hành, bên cạnh một chiến công chính nghĩa lừng lẫy còn phải có một thiên tài
văn chính luận. Ngoài thời Lê Lợi và Nguyễn Trãi, chúng ta thấy còn có thời Quang
Trung Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm. Biết đâu vị hoàng đế anh hùng và thiên tài họ
Ngô từng nghĩ đến điều này, nhưng đứng trước Bình Ngô đại cáo các vị lại có cảm
nghĩ như Lý Bạch xưa lên lầu Hoàng Hạc cảm xúc dồi dào mà ngần ngại không đề
thơ vì có thơ Thôi Hiệu trên đầu! Ngoài ra người dạy- học Ngữ văn ở phổ thông trung
học có thể sẽ hình dung rằng trước Bình Ngô đại cáo, ở Trung Quốc thể văn này đã
được viết bằng văn biền ngẫu và cùng với nó, đã có hình thức hoàn chỉnh, và theo
cách ứng xử của văn chương thời trung đại, Nguyễn Trãi chỉ còn “lắp” câu chữ của
mình vào. Thực ra, cho đến nay khi nói về thể cáo, ngoài Bình Ngô đại cáo các
chuyên gia văn học trung đại Việt Nam cũng chỉ nhắc đến các bài cáo trong Thượng
Thư. Các văn bản trong Thượng Thư ra đời trước công nguyên nhiều thế kỷ(6) còn
văn biền ngẫu xuất hiện thời Hán, Ngụy và thịnh hành thời Lục triều. GS. Mai Quốc
Liên cho rằng: “Nguyễn Trãi đã với tay ra hàng hai mươi thế kỷ để dùng lại một thể
loại cổ xưa hầu như đã chết trong văn học Trung Quốc- cáo- và đưa vào đó một nội
dung hoàn toàn mới”(7). Thật vinh dự cho Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo vì đã làm
nên sự độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam là chỉ một tác phẩm làm nên một

thể loại, và nhìn trong sự liên thông thể loại văn học Việt-Trung thời trung đại, đã
làm nên đỉnh cao của một thể loại. Với những gì chúng ta đã biết, có thể nói rằng
Nguyễn Trãi chỉ kế thừa tên gọi và chức năng thể loại của thể cáo Trung Hoa.
Bình Ngô đại cáo được viết để bố cáo việc hoàn tất một chiến công vệ quốc vĩ đại,
bởi vậy đương nhiên phần lớn ngôn từ sẽ dành cho việc ghi chép lại quá trình chiến
đấu gian khổ và chiến thắng của quân dân ta và quá trình thất bại dẫn đến thảm bại
hoàn toàn của quân Minh. Giá trị sử học của đoạn văn này rất nổi bật thể hiện ở sự
ghi chép trung thực nhiều sự kiện lịch sử và khái quát sâu sắc nhiều chân lý lớn của
thời đại. Bên cạnh đó nghệ thuật sáng tạo văn chương của tác giả cũng hết sức xuất
sắc. Những chặng đường chính của quá trình chinh chiến hàng chục năm được kể lại
tường tận mà không bề bộn vì bút pháp của tác giả rất linh hoạt: vừa kể lại những
chiến thắng của quân ta, vừa đúc kết những nguyên lý quân sự và những chân lý
nhân sinh; vừa tự sự về những thất bại liên tiếp của quân giặc vừa kết hợp luận tội
chúng, đặt chúng trong sự tương phản với quân ta. Sự lúng túng, thất bại của quân
xâm lược không chỉ thấy qua những sự kiện mà còn thể hiện bằng những bức biếm
họa từ vua quan đến tướng sĩ phương Bắc.
Cho đến gần đây quả là vẫn còn có vấn đề trong cách ứng xử với một câu văn của
Bình Ngô đại cáo, câu Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu nhi
trí nhiên dã (Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như
vậy). Bản chữ Hán trong Nguyễn Trãi toàn tập tân biên (in theo Hoàng Việt văn
tuyển của Bùi Huy Bích) có câu này, bản phiên âm Hán- Việt cũng có. Toàn tập sử
dụng hai bản dịch, bản dịch thứ hai không dịch nghĩa câu này. Trước đây ba thập kỷ,
cuốn Lịch sử Việt Nam tập I, do Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam biên soạn (Nxb.
KHXH 1976) in gần như toàn bộ bản dịch Bình Ngô đại cáo (tr.258-261) chỉ lược bỏ
câu trên, thay bằng dấu ba chấm (…). Một chuyên gia văn học Việt Nam trung đại coi
câu văn này là “một tỳ vết nhỏ”(8). Những cách nhìn nhận như vậy cách đây hai, ba
thập kỷ có thể hiểu được nhưng ngày nay thiết tưởng cần thay đổi cho tương xứng
với các thành quả của khoa học xã hội và mặt bằng dân trí. Chúng ta cùng nhìn lại
xem trong bản đại cáo, Nguyễn Trãi thể hiện lực lượng siêu hình như thế nào. Kết
thúc bản cáo trạng quân xâm lược, tác giả viết:

Thần nhân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
(Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần nhân chịu được). Khi nhìn lại khó khăn chồng
chất của buổi đầu khởi nghĩa, Nguyễn Trãi cho rằng: Cái thiên dục khốn ngã, dĩ
giáng quyết nhiệm/ Cố dư ích lệ chí, dĩ tế vu gian (Trời thử lòng giao cho mệnh lớn,
Ta gắng chí khắc phục gian nan). Ở đoạn miêu tả cảnh hai bên giao tranh đẫm máu,
tác giả viết: Phong vân vị chi biến sắc/ Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang (Ghê gớm
thay sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ). Còn câu
văn bị đánh giá tiêu cực, thậm chí bị lược bỏ là ở đoạn cuối, cắt nghĩa nguyên nhân
của chiến công bình Ngô vĩ đại. Chúng ta đã thấy ở cảm nhận của Nguyễn Trãi thể
hiện trong suốt bản đại cáo, lực lượng siêu hình luôn song hành, tương giao với con
người. Ở thế kỷ XV mà không thụ cảm thế giới như vậy thì mới là lạ. Xoá bỏ hoặc
đánh giá tiêu cực câu văn đó là chỉ phủ nhận một khâu trong cả chuỗi mắt xích, hơn
nữa theo chúng tôi, đây lại là trường hợp dễ được người ngày nay cảm thông nhất.
Suốt bản đại cáo Nguyễn Trãi đã trình bày một cách hệ thống và biện chứng những
yếu tố vật chất và tinh thần đưa đến toàn thắng của quân ta, thảm bại của kẻ thù,
bởi vậy câu văn này không nhằm phủ nhận sự nỗ lực chiến đấu hy sinh để chiến
thắng của quân dân ta trong hàng chục năm trời, nó chủ yếu biểu lộ lòng tri ân tổ
tiên, là một cách khẳng định chính nghĩa tất thắng (những điều đã trở thành nội
dung đạo lý Việt Nam). Ngày nay tất nhiên các văn bản quan phương không còn viết
như thế nhưng trong rất nhiều tình huống của đời sống, người Việt Nam thuộc nhiều
tầng lớp còn trữ tình theo cách đó. Câu văn làm cho tính chất biểu cảm của văn bản
thêm đậm đà, giá trị văn chương càng nổi bật.
Đã có mấy cách giải thích về chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo, trong đó có người cho
rằng Nguyễn Trãi sử dụng cách gọi của dân gian, “Nguyễn Trãi đã dùng một từ mà
nhân dân quen dùng”, “để chỉ quân Trung Quốc, người Trung Quốc xấu xa, tàn ác,
với hàm ý khinh bỉ, phê phán”(9). Cách hiểu này đầu tiên do một nhà nghiên cứu
văn học dân gian nêu lên trong dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi (1980)
và được một số nhà nghiên cứu tán đồng. Bản thân chúng tôi cũng có lúc tin như thế
nhưng về sau, khi có điều kiện đọc trước tác của Nguyễn Trãi nhiều hơn, kết hợp với

ngẫm nghĩ thêm thấy rằng cách giải thích đó chưa hợp lý. Trong Bình Ngô đại cáo
Nguyễn Trãi gọi kẻ thù bằng hai cách, Ngô và Minh, mỗi cách dùng một lần, Ngô
dùng ở nhan đề và Minh ở câu Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân (Giặc Minh
thừa dịp tàn hại dân ta- Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Sđd, tr.37). Chỉ căn cứ vào
Bình Ngô đại cáo thì sự đối lập về sắc thái ý nghĩa của hai cách gọi chưa rõ, chưa đủ
để kết luận, bởi vậy cần nhìn nhận thêm hai cách gọi này trong các trước tác khác
của Nguyễn Trãi, có ý nghĩa nhất là những văn bản viết trước bản đại cáo, trong
Quân trung từ mệnh tập. Chúng tôi đã khảo sát tỷ mỉ và trình bày trong một tiểu
luận(10), ở đây chỉ nêu vắn tắt một số kết luận. Trong Quân trung từ mệnh tập cả
hai cách gọi đều được sử dụng nhiều lần (Những văn bản sưu tập được có lẽ chưa
đầy đủ - có một khoảng trống mấy năm không thấy có văn bản nào- bởi vậy thống
kê số lần sử dụng hai từ này không phản ánh đúng tình hình). Tình trạng một văn
bản dùng cả hai tên gọi hoặc chỉ dùng một trong hai đều phổ biến. Có những trường
hợp rất đáng lưu ý. Chẳng hạn nếu cách gọi là Ngô mang ý nghĩa trên thì trong văn
bản có tính chất đối nội như Tấu cáo văn (số 22) hẳn sẽ dùng cách định danh này,
nhưng không, ở đây chỉ dùng cách gọi Minh (hai lần: Minh tặc, cường Minh). Tuy
nhiên trường hợp có sức nặng nhất để phản bác ý kiến cho rằng đương thời cách gọi
Ngô đã mang ý khinh bỉ chính là văn bản Tái dụ Vương Thông thư (số 35). Trong thư
này Nguyễn Trãi chỉ dùng cách gọi Ngô, ba lần: Kim Ngô chi cường bất cập Tần (Nay
Ngô mạnh không bằng Tần), phi Ngô quốc sở năng đoạt dã (thì Ngô làm sao có thể
cướp được), cập Ngô quốc chi nhân (cũng như người Ngô). Vương Thông là tổng
binh, là viên quan có quyền cao nhất trong đám tướng lĩnh viễn chinh ở nước ta, là
võ tướng nhưng y thuộc loại thông hiểu chữ nghĩa. Đối với tên này, Nguyễn Trãi luôn
chủ trương binh vận (thư cho Vương Thông nhiều nhất, xưng hô nhã nhặn, viết dài,
dùng nhiều tri thức kinh điển để bàn bạc, thuyết phục). Bức thư này viết lúc thế
thắng đã thuộc về ta, nhưng Nguyễn Trãi vẫn giữ cách ứng xử lịch sự với một đại
quan của thiên triều- một kiểu “lạt mềm buộc chặt”, là cách khéo léo nhắc nhở hắn
cách hành xử cho hợp với một đại nhân, đề phòng “chó cùng rứt dậu”. Là người hiểu
sâu sắc nhân tình thế thái, lẽ nào Nguyễn Trãi hành xử bằng cách miệt thị tổ tiên kẻ
mà mình đang áp dụng chiến thuật “tâm công”? Trong Ngữ văn 10, bức thư này được

in gần kề Bình Ngô đại cáo, nếu giải thích chữ Ngô trong bản đại cáo là cách định
danh biểu thị sự khinh bỉ thì không thuyết phục được người dạy- học.
Tóm lại, chỉ căn cứ vào Bình Ngô đại cáo thì sự đối lập sắc thái ý nghĩa giữa hai cách
gọi Minh và Ngô không rõ, và tìm hiểu những văn bản trước đó được tập hợp trong
Quân trung từ mệnh tập thì chưa có sự đối lập này.
Ngoài những trường hợp đã được các nhà nghiên cứu dẫn ra, chúng tôi thấy thêm vài
trường hợp gọi người phương Bắc là Ngô với ý khinh thị. Đây là một câu trong bài
Dăn đời phú (khuyết danh):

×