Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch i ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.16 KB, 84 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong giai đoạn đổi mới, đổi mới về cơ chế quản lý
cũng như cơ chế thị trường mở ra những cơ hội cũng như thách thức cho nền
kinh tế nước nhà. Nền kinh tế nước nhà đang có những tiến bộ đáng kể, cùng
với nó là sự phát triển của các ngành sản xuất cũng như dịch vụ, ngành ngân
hàng, góp một phần không nhỏ vào sự phát triển đất nước.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất trong khu vực cũng như trên
thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh và trong đó không
thể phủ nhận chức năng,vai trò của ngành ngân hàng.Vì vậy, trong những năm
gần đây, việc cải cách hệ thống ngân hàng bao giờ cũng là điểm nóng trong
các chương trình phát triển của chính phủ và các kế hoạch hợp tác phát triển
với các nhà tài trợ quốc tế.
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất, là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng
triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội đều
gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội;
là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một
phần đối với Nhà nước. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện các chính sách
kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong
chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Trong những năm qua, mặc dù hệ thống Ngân hàng Việt nam nói chung
và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam đã nỗ lực tìm ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này nhưng đây
là một lĩnh vực khá phức tạp nên khi thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và bộc
lộ nhiều hạn chế.
Với tư cách là sinh viên được đào tạo chuyên ngành Ngân hàng-Tài
chính taị trường đại học KTQD, xuất phát từ nhận thức trên, sau một thời gian
thực tập tại Sở giao dịchI-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam em xin
mạn phép được chọn đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam" để làm chuyên đề thục tập với mong muốn góp phần tổng kết


và khái quát lý luận từ thực tiễn, phục vụ cho việc nâng cao chất lượng tín
dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng và công cuộc
CNH-HĐH đất nước nói chung.

1


Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài gồm:
Chương 1: Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh
tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam

2


LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong giai đoạn đổi mới, đổi mới về cơ chế quản lý
cũng như cơ chế thị trường mở ra những cơ hội cũng như thách thức cho nền
kinh tế nước nhà. Nền kinh tế nước nhà đang có những tiến bộ đáng kể, cùng
với nó là sự phát triển của các ngành sản xuất cũng như dịch vụ, ngành ngân
hàng, góp một phần không nhỏ vào sự phát triển đất nước.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất trong khu vực cũng như trên
thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh và trong đó không
thể phủ nhận chức năng,vai trò của ngành ngân hàng.Vì vậy, trong những năm
gần đây, việc cải cách hệ thống ngân hàng bao giờ cũng là điểm nóng trong

các chương trình phát triển của chính phủ và các kế hoạch hợp tác phát triển
với các nhà tài trợ quốc tế.
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất, là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng
triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội đều
gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội;
là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một
phần đối với Nhà nước. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện các chính sách
kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong
chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Trong những năm qua, mặc dù hệ thống Ngân hàng Việt nam nói chung
và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam đã nỗ lực tìm ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này nhưng đây
là một lĩnh vực khá phức tạp nên khi thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và bộc
lộ nhiều hạn chế.
Với tư cách là sinh viên được đào tạo chuyên ngành Ngân hàng-Tài
chính taị trường đại học KTQD, xuất phát từ nhận thức trên, sau một thời gian
thực tập tại Sở giao dịchI-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam em xin
mạn phép được chọn đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam" để làm chuyên đề thục tập với mong muốn góp phần tổng kết
và khái quát lý luận từ thực tiễn, phục vụ cho việc nâng cao chất lượng tín
dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng và công cuộc
CNH-HĐH đất nước nói chung.

3


Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài gồm:
Chương 1: Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc

doanh ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh
tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam

4


CHƯƠNG 1
VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ
NGOÀI QUỐC DOANH Ở VIỆT NAM
1.1. KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.

Đổi mới và cải tổ là xu thế chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Trước năm 1986, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta là xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
xây dựng quan hệ sản xuất với hai hình thức chủ yếu là kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể. Trên thực tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã không được thừa
nhận và làm cho nền kinh tế mất cân đối và rơi vào trạng thái trì trệ trong một
thời gian dài.
Ở Việt Nam , ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã
khẳng định đường lối chính cho phát triển kinh tế - đổi mới cơ cấu kinh tế, cụ
thể là:" phát triển nền kinh tế hàng nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đường lối này tiếp tục được khẳng định và làm rõ thêm ở các Đại hội Đảng
lần thứ VII, VIII và IX. Cho đến nay, có thể nói, nền kinh tế Việt Nam bao

gồm các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
nước ngoài. Các thành phần kinh tế này được chia thành 2 khu vực lớn: khu
vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài nhà nước (ngoài quốc doanh,
tư nhân). Khu vực kinh tế nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế do
nhà nước trực tiếp quản lý từ trung ương tới địa phương. Đây được coi là
thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế. Khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh (NQD) bao gồm các thành phần kinh tế còn lại, hoạt động bên cạnh các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong nền kinh tế thị trường đã góp phần
quan trọng vào việc mở rộng giao lưu hàng hoá khai thác được tiềm năng sẵn
có của các vùng trong cả nước, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân
dân.
1.1.1.Khái niệm và phân loại.
Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế dựa trên sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.Các đơn vị, doanh nghiệp ngoài quốc doanh
bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công tyTNHH, công ty Cổ phần, công ty liên
doanh và các đơn vị theo hình thức Hợp tác xã.

5


Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã có
sự phát triển nhanh chóng và đạt một số kết quả nhất định. Với chính sách
khuyến khích và hỗ trợ hoạt động cho thành phần này, số lượng các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1991 mới
chỉ có 123 doanh nghiệp với số vốn điều lệ là 63 tỷ đồng thì đến năm 1996 đã
có 26.091 doanh nghiệp với số vốn điều lệ lên tới 8.257 tỷ đồng. Đến năm
2004, kinh tế ngoài quốc doanh đã có 3.820 hợp tác xã, 31.667 doanh nghiệp
tư nhân và 1.286.300 hộ kinh tế cá thể và 1.826 công ty cổ phần.
Ở nước ta hiện nay,xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp,thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu

hạn, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh doanh.
Công ty là loại hình doanh nghiêp hoạt động theo luật công ty,là đơn vị
kinh tế do các cá nhân bỏ vốn thành lập theo luật doanh nghiệp,trách nhiệm
quyền hạn cũng như lợi nhuận được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.Công ty có
hai loại:
*Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi
là cổ phần.
- Cổ đông có thể là một tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là
ba và không hạn chế tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo
quy định pháp luật về chứng khoán.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn góp vào
công ty.
*Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của
tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các
phần góp vốn được ghi trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát
hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các
thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho
người không phải là thành viên phải được sự nhất trí của các thành viên đại
diện với ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
*Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn
để sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên
nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi

6


thành viên nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn

những vấn đề sản xuất kinh doanh và đời sống. Cơ quan cao nhất là Đại hội xã
viên, cơ quan quản lý các hoạt động của hợp tác xã là ban chủ nhiệm hợp tác
xã được xã viên bầu theo luật hợp tác xã.
*Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
*Hộ kinh doanh cá thể là một thực thể kinh doanh do một cá nhân
hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường
xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và từng bước
hoàn thịên đã và đang thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế.Tuy
nhiên,sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh cần sự quan tâm rất nhiều
của Đảng và Nhà nước và sự nỗ lực của mọi ngành, mọi cấp.
1.1.2.Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
- Những đặc điểm về khả năng tài chính
Trong khu vực kinh tế tư nhân, ngoại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, nguồn tài chính ban đầu chủ yếu dựa vào tích luỹ cá nhân, gia
đình, bạn bè. Trong quá trình hoạt động, nhu cầu vốn được huy động phần lớn
từ các nguồn: lợi nhuận gửi lại, vay của người thân, vay của khu vực thị
trường tín dụng không chính thức, chỉ một phần nhỏ được tài trợ bởi tín dụng
ngân hàng. Nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười
đã có lần đề cập vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt trong phát triển kinh tế
bằng 3 chữ: “Vốn, vốn và vốn". Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD
ở Việt Nam cũng có chung quan điểm, họ cho rằng trở ngại lớn nhất đó là vấn
đề: "Tín dụng, tín dụng và tín dụng". Việc tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng
là rất khó khăn đối với khu vực kinh tế NQD, đặc biệt là nguồn tín dụng trung
dài hạn. Nguyên nhân chính là do các thể chế chính sách liên quan đến vấn đề
vốn như: chính sách đất đai, việc thế chấp quyền sử dụng đất hoặc tài sản để

vay vốn chưa được hoàn chỉnh. Có thể nói vốn đang là vấn đề khó khăn nhất
đối với hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD trong việc phát
triển hơn nữa.
- Đặc điểm về trình độ, công nghệ sản xuất.

7


Do hạn chế về vốn nên năng lực sản xuất thấp kéo theo trình độ kỹ
thuật công nghệ của kinh tế ngoài quốc doanh còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ
thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên
cứu kinh tế Trung ương năm 2003 thì chỉ có 36% doanh nghiệp và 28% số
công ty sử dụng công nghệ tương đối hiện đại, 42,5% doanh nghiệp và 31,2%
công ty sử dụng công nghệ cổ truyền, 27,5% doanh nghiệp và 40,8% công ty
kết hợp cả công nghệ hiện đại và cổ truyền. Công nghệ lạc hậu là một trong
những nguyên nhân chính làm cho các sản phẩm kém sức cạnh tranh và thị
phần hàng hoá bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp. Tuy nhiên đây cũng là
đặc điểm chung của các doanh nghiệp nước ta, kể cả doanh nghiệp Nhà nước
phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế còn kém phát triển,thiếu năng
động,mang nặng tính thuần nông của nước ta.
-Đặc điểm về trình độ quản lý, kinh doanh, kỹ năng người lao động.
Thành phần xuất thân của các chủ doanh nghiệp thuộc kinh tế ngoài
quốc doanh có từ nhiều nguồn khác nhau: nông dân, thợ thủ công, tầng lớp trí
thức. Hơn nữa, kinh tế nước ta mới chuyển sang kinh tế thị trường nên những
kiến thức về kinh tế, những hiểu biết về quy luật kinh doanh không phải ai
cũng có thể nắm bắt được. Điều này trước hết gây khó khăn trong việc điều
hành doanh nghiệp cho chính những người làm chủ. Họ gặp nhiều hạn chế,
vướng mắc trong công tác tổ chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch
cũng như phân tích dự án, các cơ hội đầu tư.Bên cạnh đó,đội ngũ người lao
động phần lớn xuất thân từ dân nghèo, nông thôn, trình độ học vấn còn nhều

hạn chế nên kĩ năng cũng như kỉ luật lao động còn thấp,chưa đáp ứng đủ nhu
cầu cho công việc.
Việc thực hiện Pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nước trong
các doanh nghiệp này chưa được thực hiện nghiêm túc. Phần lớn, các doanh
nghiệp hạch toán kế toán chủ yếu bằng kinh nghiệm bản thân. Do đó, họ gặp
nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vì không chứng thực được
năng lực kinh doanh cũng như tình hình tài chính của bản thân một cách rõ
ràng.
-Đặc điểm về môi trường kinh doanh.
Các chính sách chế độ của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa đầy
đủ, chưa có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi đầu
tư vốn vào sản xuất kinh doanh và giảm bớt rủi ro trong hoạt động. Các văn
kiện của Đảng các chủ trương của Nhà nước và Chính phủ đã nêu rõ và công

8


nhận vai trò quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ chế thị trường
nhưng việc cụ thể hoá thành quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành để tạo
môi trường thuận lợi đối với kinh tế ngoài quốc doanh đến nay vẫn còn nhiều
hạn chế.
Tính ổn định của chính sách kinh tế- tài chính còn thấp, thiếu tính
kích thích mà chủ yếu là chính sách thuế và pháp luật còn nặng tính ràng buộc
về nguyên tắc, chế độ.
Chính sách thuế còn nhiều ưu đãi, chiếu cố cho thành phần kinh tế
Nhà nước, chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng và sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các thành phần kinh tế. Tình trạng còn nhiều đơn vị kinh tế ngoài quốc
doanh phải ngụy trang núp bóng dưới danh nghĩa kinh tế Nhà nước hòng
mong thu được lợi nhuận cao là bằng chứng rõ ràng về sự bất bình đẳng trong
cư xử ,thể hiện ở việc ưu đãi quá mức đối với kinh tế Nhà nước.

Các chính sách Nhà nước chưa thực sự khuyến khích kinh tế ngoài
quốc doanh tăng cường sử dụng công nghệ mới, đào tạo cán bộ quản lý, nâng
cao trình độ khoa học kỹ thuật. Thiếu chính sách bảo hộ quyền lợi chính đáng
của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân về các chế độ người lao
động BHXH, BHYT trong thời gian làm việc, khi về già.
Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, nhũng nhiễu.Tình trạng quan
liêu, cửa quyền trong quản lý kinh tế nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc
doanh nói riêng vẫn đang là nhân tố cản trở không nhỏ đối với sản xuất kinnh
doanh.Mặt khác, môi trường sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm cũng gặp
nhiều khó khăn do sức cạnh tranh còn kém.
Tóm lại, các đặc điểm nói chung và môi trường kinh doanh của thành
phần kinh tế này nói riêng còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này.Do đó, cần có sự quan
tâm đúng mực của các ngành các cấp và đặc biệt là của ngành ngân hàng tạo
để điều kiện cho họ trong việc tiếp cận vốn ngân hàng phục vụ nhu cầu chính
đáng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.3.Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị
trường ở Việt nam.
Trong xu thế mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế, nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần được thừa nhận và tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế ngoài
quốc doanh đã và đang chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trong nền
kinh tế nước ta hiện nay.Điều này được thể hiện ở:

9


1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện
khai thác tối đa nguồn lực của đất nước.
Trải qua 15 năm đổi mới, mặc dù đạt được nhiều thành tựu nhưng trình
độ nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp trong khi tiềm năng phát triển của nền

kinh tế còn rất lớn, kinh tế Nhà nước không thể khai thác và tận dụng hết
được những tiềm năng này. Vì vậy cần phải phát triển kinh tế ngoài quốc
doanh mới có thể khai thác tốt các nguồn lực của đất nước. Việc khuyến khích
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển sẽ huy động được một lượng
vốn lớn đang nằm trong dân, tạo điều kiện cho năng lực con người được giải
phóng và phát huy mạnh mẽ. Mọi cá nhân, tổ chức đều cố gắng phát huy tối
đa khả năng của mình, tìm kiếm, khai thác các nguồn lực vì lợi ích của chính
bản thân. Đó là động lực kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc
đẩy xã hội phát triển.
1.1.3.2. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao
động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao
động đông đảo, kinh tế Nhà nước không thể tạo ra đầy đủ công ăn việc làm
cho tất cả. Hơn nữa trải qua một giai đoạn nền kinh tế hoạt động theo cơ chế
tập trung, bao cấp đã bộc lộ rõ những mặt non kém của công tác quản lý và sử
dụng lao động cho nên với chủ trương giảm biên chế, kinh tế ngoài quốc
doanh là đối trọng để thu hút lao động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan Nhà nước
và hành chính sự nghiệp. Bên cạnh đó, do tính đa dạng trong loại hình của
kinh tế ngoài quốc doanh, nó có mặt trong tất cả mọi nghành nghề lĩnh vực, có
mặt ở cả nông thôn và thành thị, có thể dễ dàng thành lập bởi một cá nhân,
một gia đình, hay một số cổ đông liên kết lại dưới dạng công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương
đối nhiều lao động. Do vậy, kinh tế ngoài quốc doanh là nơi tạo việc làm
nhanh nhất, dễ dàng hơn so với kinh tế Nhà nước.
1.1.3.3. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh
ngày càng phát triển nhanh chóng, đóng góp ngày càng lớn vào tỷ trọng
GDP của quốc gia .
Mặc dù còn lép vế hơn so với kinh tế Nhà nước song sự đóng góp vào
GDP của kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua đã chứng tỏ được
vai trò cần thiết của thành phần kinh tế này đối với sự phát triển của đất

nước.Điều này được thể hiện qua bảng sau:

10


Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước phân theo ngành kinh tế
Đơnvị:tỷđồng
Thành phần kinh tế
Năm2002
1. Kinh tế Nhà nước
124732
2.Kinh tế ngoài quốc 231645
doanh

%
35
65

Năm2003
132624
281826

%
32
68

Năm2004
137652
353962


%
28
72

Tổng số

100

414450

100

491614

100

356377

Nguồn:Niên giám thống kê 2004
Như vậy tỷ trọng GDP kinh tế ngoài quốc doanh tăng dần qua các năm:
65% năm 2002, 68% năm 2003 và 72% năm 2004, hoạt động của kinh tế
ngoài quốc doanh đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị
trường. Bởi lẽ,khác với kinh tế Nhà nước, thành phần kinh này phải tự thân
vận dộng để vươn lên mà không hề có một sự ưu đãi nào từ phía Nhà nước, do
đó, họ đã cố gắng phát huy mọi nhân tài vật lực nhằm khẳng định vị trí của
mình trên thị trường.Trong mấy năm qua, sự phát triển mạnh mẽ loại hình
kinh tế này đã góp phần làm tăng GDP, tăng ngân sách Nhà nước, qua đó thúc
đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
1.1.3.4 Kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh, góp phần tạo
ra sự phát triển sôi động của nền kinh tế.

Từ những thực tế cho ta thấy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã
làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Bởi vì, kinh tế ngoài quốc doanh phát
triển trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề làm cho thị trường hàng hoá trở nên
phong phú, đa dạng, sôi động, tạo ra sự thu hút. Trước sự tồn tại và phát triển
của kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải phân
tích, hoạch định chiến lược kinh doanh cho phù hợp hơn nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình. Điều này càng khẳng định rằng việc phát triển kinh
tế ngoài quốc doanh không những không làm suy yếu kinh tế Nhà nước mà
còn thúc đẩy thành phần này phát triển mạnh mẽ hơn. Thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế Nhà nước phát triển, giải
quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà kinh tế quốc doanh không đảm
nhận hết.
Kinh tế ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt vừa là đối
tác làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ
sản phẩm, cung cấp đầu vào cho kinh tế Nhà nước. Sự kết hợp sản xuất- tiêu

11


thụ giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra một dây chuyền
sản xuất mới của xã hội, giúp cho thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn và
sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất lượng ngày càng tốt hơn.
Như vậy, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và
tăng cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa
các thành phần kinh tế buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể
nói riêng phải luôn đổi mới hoàn thiện để tồn tại và phát triển. Kinh tế ngoài
quốc doanh còn là môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước
ngoài. Trong nền kinh tế mở cửa hiện nay, giao lưu kinh tế giữa các nước phát
triển mạnh, nếu không có một chính sách đúng đắn thì chúng ta sẽ không thể
khai thác hết được tiềm năng của thành phần kinh tế này.

1.1.3.5 Sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần vào quá trình
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra mục tiêu đến
năm 2010, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Bên cạnh đó cũng đặt
ra mục tiêu đến năm 2005 có khoảng 60% doanh nghiệp Nhà nước sẽ cổ phần
hoá. Như vậy với vai trò của mình, trong những năm tới kinh tế ngoài quốc
doanh sẽ được mở rộng và là nơi tập trung vốn, nhân lực vào các ngành kinh
tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri thức như công nghệ thông tin, điện tử... cũng
như có thể lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
không cần nhiều vốn, có mức lợi nhuận không cao mà các nhà đầu tư lớn ít
quan tâm tới. Đây cũng là quan điểm của Đảng ta trong quá trình Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước.
1.2.Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế
ngoài quốc doanh.
1.2.1 Khái niệm Tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế
hàng hoá. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai
đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày
nay tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn dựa
trên những nguyên tắc:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như
hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản...

12


- Người đi vay chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau
khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người
cho vay.

- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay nói cách
khác người đi vay phải trả thêm phần lãi vay.
Trong quá trình phát triển lâu dài của nền sản xuất và lưu thông hàng
hoá quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển thông qua các hình thức: tín
dụng Nhà nước, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển
quyền sử dụng tạm thời một lượng vốn giữa Ngân hàng với khách hàng
trong một thời gian nhất định và sau thời gian đó lượng vốn được hoàn trả
cộng thêm phần lãi trên lượng vốn theo một lãi suất nhất định.
Tín dụng Ngân hàng được biểu hiện qua các quan hệ sau: quan hệ tín
dụng Ngân hàng với kinh tế Nhà nước, giữa Ngân hàng với kinh tế NQD, với
các cá nhân, quan hệ tín dụng giữa các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế,
Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian. Vì vậy, trong quan
hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng đồng thời vừa là
người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng
nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền
gửi, trái phiếu để huy động trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay,
Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các cá nhân. Khác với
tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hóa, còn tín dụng
Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ bao gồm tiền mặt và bút tệ chủ yếu là bút tệ.
1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu thức khác nhau tùy
theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lí của ngân hàng, sau đây là
một số cách phân loại phổ biến hiện nay:
 Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng gồm có:
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12
tháng, tín dụng ngắn hạn bao gồm các loại: cho vay bổ sung vốn lưu động của
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ; chiết khấu chứng từ
có giá; cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời
sống với hộ tư nhân, cá thể.


13


+ Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay từ 12 tháng
đến 60 tháng. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài
sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án có quy mô vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn
nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín
dụng này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn như: xây
dựng nhà ở, các máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, đầu tư
xây dựng các nhà máy, xí nghiệp.
 Căn cứ vào mục đích sử dụng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các
chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, các hàng hoá
tiêu dùng... Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng
tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá.


Căn cứ vào sự bảo đảm cho vay, tín dụng bao gồm:

+ Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không có tài
sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba để đảm bảo cho khả
năng hoàn trả của khoản vay. Việc đi vay chỉ dựa vào uy tín của người vay
hoặc bảo lãnh bằng uy tín của một bên thứ ba là các doanh nghiệp hay các tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội.
+ Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi Ngân hàng cấp tín dụng

đòi hỏi người vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ
ba (có thể bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo lãnh của tổ chức tín
dụng khác) để đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay. Đây là loại tín dụng được
tất cả các Ngân hàng áp dụng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, đặc biệt
là khoản vay lớn, các khoản đầu tư trung, dài hạn.
 Căn cứ vào đối tượng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn lưu
động cho các tổ chức kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh
doanh như mua nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ, chi cho các chi phí sản xuất,
cho vay để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tín dụng vốn lưu động thường

14


được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Thời gian cho
vay vốn ngắn hạn thường dưới 12 tháng.
+ Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố
định. Loại tín dụng này thường dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi
mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công
trình mới. Thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này trên 12 tháng.
 Căn cứ vào hình thức ,tín dụng bao gồm:
+Chiết khấu:Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương
ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu
một thương phiếu chưa đên hạn(hoặc một giấy nợ).Đay chỉ là hình thức trao
đổi trái quyền.
+Cho vay:Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định. Có
nhiều loại cho vay:
Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người

vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.Giới hạn naỳ được gọi là
hạn mức thấu chi.
Cho vay trực tiếp từng lần.
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với
các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,không có điều kiện để
được cấp hạn mức thâu chi.Mỗi lần vay,khách hàng phải làm đơn và trình
ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và
kí hợp đồng cho vay,xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân,thời hạn trả
nợ,lãi suất và yeu cầu đảm bảo nếu cần.Mỗi món vay được tách biệt thành các
hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức
Là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng.Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc
cuối kỳ.Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên
cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của
khách hàng.

15


Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.Doanh
nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng
và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận
với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa
và khả năng tiêu thụ.hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một hoặc
vài năm.
Cho vay trả góp
Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả

gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho taì
sản cố định hoặc hàng lâu bền.Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù
hợp với khả năng trả nợ.
Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.Bên cạnh đó,
ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp-là hình thức cho
vay thông qua các tổ chức trung gian.
+Bảo lãnh:là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài
chính hộ khách hàng của mình thông qua uy tín của ngân hàng,qua đó để thu
lợi.
+Cho thuê:Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định.Sau thời gian nhất định, khác hàng
phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng
Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài
hạn.Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân
hàng phải thu gần đủ(hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi.Hết hạn
thuê,khách hàng có thể mua lạo tài sản đó.
1.2.3. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là tập hợp nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, các
bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một món vay. Thông
thường, để đảm bảo hiệu quả tín dụng thì quy trình tín dụng phải tuân theo các
bước sau:
1. Khai thác khách hàng cũ, tìm kiếm dự án, khách hàng mới.
2. Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn.
3. Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.

16



4. Ra quyết định cho vay, thông báo đến khách hàng.
5. Kiểm tra, hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và tài sản thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh.
6. Kiểm soát trong khi cho vay, phát tiền vay.
7. Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay, theo dõi hoạt động của dự án.
8. Thu hồi vốn và xử lý nợ.
9. Thanh lý hợp đồng tín dụng.
Quy trình tín dụng là bước quan trọng để thực thi chính sách tín dụng.
Thực vậy, tuân theo các bước của quy trình tín dụng, Ngân hàng sẽ tìm kiếm,
lựa chọn được khách hàng phù hợp, có uy tín, đạo đức. Khi áp dụng quy trình
tín dụng cần phải sáng tạo mở rộng, nâng cao nghiệp vụ để trở thành kỹ năng,
nghệ thuật cho vay của Ngân hàng và năng lực của từng cán bộ, phù hợp với
yêu cầu đa dạng của thị trường.
1.2.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của
kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt nam nói riêng.
Ở mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế và chiến lược kinh tế - xã hội
khác nhau cho nên vai trò tín dụng Ngân hàng được thể hiện và có những định
hướng khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhiệm vụ được đặt ra là
tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói
chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng.
-Tín dụng Ngân hàng thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và
góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.
Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh,
kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh cũng như khi một loại hình sản xuất
kinh doanh mới ra đời. Trong bất kỳ nền kinh tế hàng hoá nào cũng có nguồn
tiền nhàn rỗi và chưa sử dụng trong mọi tổ chức, thành phần kinh tế. Tín dụng
Ngân hàng đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy động vốn
của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.

Trong quá trình hoạt động, các tổ chức kinh tế có thể mở tài khoản tiền
gửi tại Ngân hàng để phục vụ cho hoạt động giao dịch với các tổ chức khác và
tiền gửi trong tài khoản của các đơn vị luôn phải có số dư nhất định. Nhờ vậy
mà Ngân hàng có thể huy động những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá
trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế - xã hội và nguồn dự trữ

17


chưa dùng đến của ngân sách Nhà nước, hình thành nên nguồn vốn. Từ đó,
ngân hàng tiến hành phân phối các nguồn đó một cách có kế hoạch, đáp ứng
nhu cầu của quá trình tái sản xuất mở rộng.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung
sản xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành
kinh tế mũi nhọn.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế
thị trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả
nhất nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài
nguyên để chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã
hội thì không thể thiếu vai trò của tài chính tiền tệ. Trong đó, tín dụng Ngân
hàng tạo nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông
qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số trượt giá của đồng tiền để đầu tư
vào các ngành, các công trình trọng điểm... Bên cạnh đó, Ngân hàng còn tập
trung tín dụng tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển của
các ngành này sẽ tạo cơ hội, cơ sở thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển
như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí, xây dựng cơ sở hạ tầng...
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và
luân chuyển tiền tệ.
Bằng việc nhận và trả tiền gửi, mở tài khoản và thanh toán qua Ngân
hàng với quy mô ngày càng lớn và có tính chất thường xuyên, liên tục. Hoạt

động thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế diễn ra qua hệ thống
NHTM đã làm tăng tốc độ luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ.
Ngoài ra, sự phát triển của các nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng đi đôi với
việc thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông góp phần ổn định lưu
thông tiền tệ. Đây cũng là một trong những phương thức để kiềm chế lạm
phát.
- Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và
kiểm soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh
tế.
Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung
thống nhất công tác tín dụng đã tạo tiền đề khách quan cho tín dụng Ngân
hàng thực hiện chức năng trên. Thông qua việc thực hiện phân phối lại tiền tệ
trên nguyên tắc hoàn trả, phục vụ tái sản xuất mở rộng. Tín dụng Ngân hàng
phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất

18


kinh doanh của các doanh nghiệp với tình hình hoạt động của nền kinh tế.
Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp kịp thời phát huy những nhân tố tích
cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra để thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Quá trình phản ánh và kiểm soát của tín dụng Ngân hàng là không thể tách rời
nhau trong chức năng này. Do đó, nó được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế
không thể thiếu được trong công tác quản lý tài chính, kiểm soát các quá trình
sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội thực hiện và củng cố chế độ hạch toán
kinh tế.
-Tín dung ngân hàng tham gia vào quá trình hình thành và phát
triển của khu vực kinh tế NQD
Mặc dù nguồn vốn ban đầu của các cơ sở kinh tế NQD là chủ yếu dựa
vào tích luỹ cá nhân, gia đình. Song vốn tín dụng cũng đóng góp một phần

không nhỏ, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tư nhân được thành lập dựa trên
cả 2 nguồn: tích luỹ và tín dụng. Trong năm 2004, trên 14 triệu hộ gia đình
nông thôn trở thành hộ sản xuất kinh doanh được ngân hàng cho vay vốn. Đặc
biệt, tín dụng ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát
triển các công ty cổ phần một bộ phận lớn trong khu vực kinh tế NQD. Trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanhcủa công ty cổ phần luôn xảy ra hiện
tượng tạm thời thiếu hoặc thừa vốn. Tình trạng này được giải quyết thông qua
quan hệ tín dụng. Việc phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng và mua bán cổ
phiếu cùng được thực hiện thông qua thị trường vốn, thị trường tiền tệ là các
mặt hoạt động có liên quan đến tín dụng ngân hàng.
Như vậy tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
và hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế NQD.
-Tín dụng ngân hàng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp NQD
Thị trường đang trở nên cạnh tranh khốc liệt từng ngày. Để đứng vững
trong thương trường, chiến thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp luôn chú
trọng vào bốn lĩnh vực. Đó là: giá cả và chất lượng; sự kịp thời và bí quyết; cổ
phần và chi phối; đầu tư chiều sâu. Đối với các doanh nghiệp trong khu vực
kinh tế NQD ở Việt Nam thì lĩnh vực được quan nhất đó là giá cả và chất
lượng. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm với giá thành hợp lý thì phải đầu
tư áp dụng khoa học công nghệ mới. Ở đây khó khăn lại là vấn đề vốn. Tín
dụng ngân hàng là yếu tố hợp lý nhất để tháo gỡ vấn đề này (hợp lý cả về số

19


lượng, giá cả, lãi suất và thời hạn). Như vậy, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện
nâng cao sức cạnh tranh cho khu vực kinh tế NQD.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp NQD hoạt động
kinh doanh và đầu tư có hiệu quả

Tín dụng ngân hàng không phải rải đều bất kỳ cho khách hàng nào có
nhu cầu mà chọn lọc khách hàng làm ăn có hiệu quả. Vì vậy, để tiếp cận tín
dụng ngân hàng một cách dễ dàng trước hết các doanh nghiệp phải nỗ lực
kinh doanh có hiệu quả.
Bên cạnh đó, khi cấp tín dụng cho một dự án đầu tư, thì trước đó quá trình
thẩm định khắt khe của ngân hàng phải thấy được tính khả thi, hiệu quả
của nó. Trong quá trình cho vay, ngân hàng luôn giám sát việc sử dụng vốn
vay của các doanh nghiệp. Do đó, chính tín dụng đã có khả năng loại trừ
các dự án không khả thi. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
-Tín dụng ngân hàng là cầu nối cho các thành phần kinh tế NQD
Việt Nam thiết lập quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế
Ngày nay trong quan hệ kinh tế quốc tế, sự hợp tác bình đẳng, cùng có
lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển mạnh
mẽ. Trong đó đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu là hai
lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng nhất. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên
cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng thực tế hầu hết các chủ thể của khu
vực kinh tế NQD không đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng thông qua hoạt động
tín dụng sẽ là trở thủ đắc lực cho các doanh nghiệp NQD đầu tư và kinh doanh
xuất nhập khẩu.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Với định hướng của Đảng và Nhà
nước, các NHTM đang xây dựng một chiến lược về thị trường nhằm nâng
cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh, phục vụ cho sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước.
1.3. Chất lượng tín dụng ngân hàng

1.3.1. Chất lượng tín dụng.
chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng các yêu cầu hợp lí của
khách hàng có lựa chọn,đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và đảm

bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.Nói cách khác, chất lượng tín dụng
là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự
20


phát triển của môi trường bên ngoài,thể hịên sức mạnh cạnh tranh của ngân
hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Nói cụ thể hơn, chất lượng tín dụng chính là chất lượng các món
vay,được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được khách hàng sử dụng
có mục đích,phục vụ cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo trả nợ
ngân hàng đúng hạn,bù đắp được chi phí và có lợi nhuận, có nghĩa là ngân
hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế,vừa đem laị hiệu quả xã hội.
Dựa vào lợi ích các bên tham gia trong quan hệ tín dụng,có thể xem xét
khái niệm chất lượng tín dụng trên ba khía cạnh:
- Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử
dụng của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn nợ hợp lý. Thủ tục giản đơn thu hút
được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và
lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất.
- Đối với NHTM: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với
thực lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng hạn
và có lãi của tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt
động, mang lại lợi nhuận và đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt
động tín dụng.
1.3.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
1.3.2.1.Nhóm các chỉ tiêu đánh giá quy mô
a)Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản Có(Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu)
Tỷ lệ này được đo bởi công thức:

Vốn tự có
Tỷ lệ vốn tự có trên
=
-------------------------tổng tài sản Có
Tổng tài sản Có
-Vốn tự có ở đây xác định gồm có hai phần: Vốn điều lệ của ngân hàng
và quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
-Tổng tài sản Có: Là các loại tài sản Có của ngân hàng đã được điều
chỉnh theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản(bao gồm cả các cam kết ngoại
bảng của ngân hàng).Việc quy định mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản Có

21


tùy thuộc vào đặc điểm riêng cụ thể của từng nước và từng thời kỳ khác nhau,
phản ánh tỷ lệ rủi ro dự đoán đối với tài sản có của ngân hàng.
-.Về cơ bản,một ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác dịnh quy mô vốn
tự có.Ngân hàng có thể tăng vốn tự có khi các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có
thể đầu tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro.Việc quyết định quy mô vốn của
ngân hàng không dễ dàng nhưng rất quan trọng,một ngân hàng muốn phát
triển phải mở rộng cơ sở vốn của nó nhưng đồng thời phải giữ được mức rủi
ro nhất định.
b)Tình hình cho vay , dư nợ và thu nợ NQD.
Chỉ tiêu này được phản ánh qua các con số về doanh số cho vay, doanh
số dư nợ và doanh số thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh-Doanh số cho
vay NQD là số tiền cho vay của ngân hàng đối với khách hàng thuộc kinh tế
ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
-Dư nợ tín dụng NQD là số tiền mà khách hàng thuộc kinh tế ngoài
quốc doanh còn nợ ngân hàng tại một thời điểm.
DN tín dụng = DN tín dụng

+ DS cho vay
- DS thu nợ
NQD
NQD kỳ trước
NQD trong kỳ
NQD trong kỳ
-Doanh số thu nợ tín dụng NQD là số tiền ngân hàng thu nợ khách hàng
thuộc kinh tế ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
Thông qua đó, đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng đối
với thành phần này thông qua sự tăng trưởng hay giảm sút của các con số.
1.3.2.1. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng có thể định
lượng
a)Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản Có(Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu)
Tỷ lệ này được đo bởi công thức:
Vốn tự có
Tỷ lệ vốn tự có trên
=
-------------------------tổng tài sản Có
Tổng tài sản Có
-Vốn tự có ở đây xác định gồm có hai phần: Vốn điều lệ của ngân hàng
và quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
-Tổng tài sản Có: Là các loại tài sản Có của ngân hàng đã được điều
chỉnh theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản(bao gồm cả các cam kết ngoại
bảng của ngân hàng).Việc quy định mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản Có

22


tùy thuộc vào đặc điểm riêng cụ thể của từng nước và từng thời kỳ khác nhau,
phản ánh tỷ lệ rủi ro dự đoán đối với tài sản có của ngân hàng.

-.Về cơ bản,một ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác dịnh quy mô vốn
tự có.Ngân hàng có thể tăng vốn tự có khi các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có
thể đầu tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro.Việc quyết định quy mô vốn của
ngân hàng không dễ dàng nhưng rất quan trọng,một ngân hàng muốn phát
triển phải mở rộng cơ sở vốn của nó nhưng đồng thời phải giữ được mức rủi
ro nhất định.
b)Tình hình cho vay , dư nợ và thu nợ NQD.
Chỉ tiêu này được phản ánh qua các con số về doanh số cho vay, doanh
số dư nợ và doanh số thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh-Doanh số cho
vay NQD là số tiền cho vay của ngân hàng đối với khách hàng thuộc kinh tế
ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
-Dư nợ tín dụng NQD là số tiền mà khách hàng thuộc kinh tế ngoài
quốc doanh còn nợ ngân hàng tại một thời điểm.
DN tín dụng = DN tín dụng
+ DS cho vay
- DS thu nợ
NQD
NQD kỳ trước
NQD trong kỳ
NQD trong kỳ
-Doanh số thu nợ tín dụng NQD là số tiền ngân hàng thu nợ khách hàng
thuộc kinh tế ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
Thông qua đó, đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng đối
với thành phần này thông qua sự tăng trưởng hay giảm sút của các con số.
c)Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD
Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là khi đến thời hạn thanh
toán khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của
mình đối với người cho vay.Nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ tín dụng
không hoàn hảo, trước hết, nó vi phạm đặc trưng của tín dụng về tính thời
hạn,tính hoàn trả và lòng tin của người cấp tín dụng với người nhận tín dụng.

Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD được đo bởi công thức sau:
Tổng số dư nợ quá hạn NQD
Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD = ------------------------------ ------ *100%
Tổng dư nợ cho vay NQD
Về cơ bản, Tỷ lệ Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh các khoản tín
dụng có vấn đề - những khoản cho vay quá hạn mà ngân hàng không thu hồi
được.Mặc dù các khoản tín dụng có vấn đề là kết quả của nhiều yêú tố nhưng
cơ bản là kết quả của sự không sẵn lòng chi trả của khách hàng vay vốn, hoặc

23


không có khả năng thực hiện hợp đồng để giảm bớt dư nợ hay toàn bộ khoản
vay như đã thỏa thuận, cá biệt có âm mưu chiếm dụng vốn.
d)Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD.
Tỷ lệ này được đo bởi công thức sau:
Nợ quá hạn khó đòi NQD
Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD = ---------------------------------- *100%
Tổng dư nợ NQD
Chỉ tiêu này phản ánh các khoản nợ đã quá thời hạn gia hạn nợ
quá hạn mà khách hàng còn nợ ngân hàng.Cùng với chỉ tiêu nợ quá hạn, chỉ
tiêu này thể hiện chất lượng tín dụng tốt hay xấu.Tỷ lệ này càng cao biểu hiện
cho dấu hiệu của một khoản tín dụng xấu và ngược lại.Tốt nhất, nên hạn chế
tỷ lệ này ở mức dưới 1%.
Chỉ tiêu này được đo bởi công thức:
Lợi nhuận từ tín dụng NQD
Tỷ lệ LN từ cho vay NQD =
Tổng dư nợ tín dụng NQD
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường chất
lượng tín dụng của ngân hàng.Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín

dụng NQD. Tỷ lệ này càng cao nghĩa là lợi nhuận thu được từ tín dụng đối với
kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào thu nhập của ngân hàng càng lớn, thể
hiện chất lượng tín dụng đối với thành phần này càng cao.
1.3.2.2.Nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng không thể
định lượng.
Bên cạnh những chỉ tiêu đánh gía chất lượng có thể tính toán như
trên, còn có những tiêu chí khác để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng
không thể đo lường và tính toán cụ thể:
-Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù
hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của ngan hàng trong từng giai đoạn.
-Hệ thống tranh thiết bị, công nghệ hiện đại hỗ trợ cho công tác
nghiệp vụ một cách thuân lợi, hiệu quả.
-Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ, năng lực và đạo đức nghề
nghiệp,đây là yếu tố cuối cùng và quan trọng nhất trong mọi hoạt động của
ngân hàng.

24


-Quy trình nghiệp vụ tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế, đảm
bảo quản lý chặt chẽ quá trình cấp tín dụng,vừa thuận tiẹn với khách hàng,vừa
đảm bảo tín dụng cho ngân hàng.
-Uy tín mà ngân hàng đã tạo dựng được trong nền kinh tế và các mối
quan hệ với các khách hàng truyền thống.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
chất lượng tín dụng là hai chỉ tiêu luôn đi liền nhau. Bởi lẽ, nếu mở
rộng quy mô mà không tính đén chất lượng thì sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn. Nếu
chỉ tăng chất lượng mà không quan tâm đến quy mô tín dụng thì không đạt
hiệu quả kinh tế tối ưu. Do mối quan hệ mật thiết giữa hai chỉ tiêu này mà hầu

hết những nhân tố tác động lên chỉ tiêu này thì cũng có tác động lên chỉ tiêu
khác và ngược lại.
1.3.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
a) Kinh tế
Về tổng thể, nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tín dụng. Khi đó, các quá trình sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp NQD nói riêng sẽ phát triển lành
mạnh. Và như thế, quy mô và chất lượng tín dụng đều được nâng cao. Một khi
môi trường kinh tế không ổn định, môi trường kinh doanh biến động sẽ gây
khó khăn cho hoạt động của khu vực kinh tế NQD - khu vực không có sự hỗ
trợ đặc biệt của nhà nước thì quy mô và chất lượng tín dụng cũng bị ảnh
hưởng mà trước hết là nợ quá hạn tăng sau đó là quy mô tín dụng giảm dần.
b) Nhóm xã hội
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Sự tín nhiệm là
cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng nào có uy tín cao thì sẽ thu
hút khách hàng lớn. Khách hàng nào làm ăn hiệu quả, được tín nhiệm trong
quan hệ tín dụng sẽ được vay vốn dễ dàng, được hưởng các ưu đãi của ngân
hàng. Niềm tin lẫn nhau là cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và đảm bảo cho
chất lượng tín dụng.
c) Nhân tố pháp lý
Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy
đủ thống nhất của các văn bản dưới luật. Đồng thời gắn liền với quá trình chấp
hành pháp luật và trình độ dân trí. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một môi
trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận tiện và

25


×