Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.65 KB, 89 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong giai đoạn đổi mới, đổi mới về cơ chế quản lý cũng
như cơ chế thị trường mở ra những cơ hội cũng như thách thức cho nền kinh tế nước
nhà. Nền kinh tế nước nhà đang có những tiến bộ đáng kể, cùng với nó là sự phát
triển của các ngành sản xuất cũng như dịch vụ, ngành ngân hàng, góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển đất nước.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất trong khu vực cũng như trên thế giới,
nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh và trong đó không thể phủ nhận
chức năng,vai trò của ngành ngân hàng.Vì vậy, trong những năm gần đây, việc cải
cách hệ thống ngân hàng bao giờ cũng là điểm nóng trong các chương trình phát
triển của chính phủ và các kế hoạch hợp tác phát triển với các nhà tài trợ quốc tế.
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất,
là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá
nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội đều gửi tiền tại
ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội; là tổ chức cho
vay chủ yếu đối với doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà
nước. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là
chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính
phủ nhằm ổn định kinh tế.
Trong những năm qua, mặc dù hệ thống Ngân hàng Việt nam nói chung và
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam đã nỗ lực tìm ra các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này nhưng đây là một lĩnh vực
khá phức tạp nên khi thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và bộc lộ nhiều hạn chế.
Với tư cách là sinh viên được đào tạo chuyên ngành Ngân hàng-Tài chính taị
trường đại học KTQD, xuất phát từ nhận thức trên, sau một thời gian thực tập tại Sở
giao dịchI-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam em xin mạn phép được chọn đề
tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại
Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam" để làm chuyên đề thục
tập với mong muốn góp phần tổng kết và khái quát lý luận từ thực tiễn, phục vụ cho
Trang 1
việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói


riêng và công cuộc CNH-HĐH đất nước nói chung.
Trang 2
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài gồm:
Chương 1: Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế
ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với
kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam

Trang 3
CHƯƠNG 1
VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI
QUỐC DOANH Ở VIỆT NAM
1.1. KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
Đổi mới và cải tổ là xu thế chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Trước năm 1986, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta là xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan
hệ sản xuất với hai hình thức chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Trên
thực tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã không được thừa nhận và làm cho nền kinh tế
mất cân đối và rơi vào trạng thái trì trệ trong một thời gian dài.
Ở Việt Nam , ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khẳng
định đường lối chính cho phát triển kinh tế - đổi mới cơ cấu kinh tế, cụ thể là:" phát
triển nền kinh tế hàng nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Đường lối này tiếp tục
được khẳng định và làm rõ thêm ở các Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII và IX. Cho
đến nay, có thể nói, nền kinh tế Việt Nam bao gồm các thành phần kinh tế sau: kinh

tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế nước ngoài. Các thành phần kinh tế này được
chia thành 2 khu vực lớn: khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài nhà
nước (ngoài quốc doanh, tư nhân). Khu vực kinh tế nhà nước bao gồm toàn bộ các
hoạt động kinh tế do nhà nước trực tiếp quản lý từ trung ương tới địa phương. Đây
được coi là thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế. Khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh (NQD) bao gồm các thành phần kinh tế còn lại, hoạt động bên cạnh các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong nền kinh tế thị trường đã góp phần quan
trọng vào việc mở rộng giao lưu hàng hoá khai thác được tiềm năng sẵn có của các
vùng trong cả nước, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
1.1.1.Khái niệm và phân loại.
Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất.Các đơn vị, doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm:
Trang 4
doanh nghiệp tư nhân, công tyTNHH, công ty Cổ phần, công ty liên doanh và các
đơn vị theo hình thức Hợp tác xã.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã có sự
phát triển nhanh chóng và đạt một số kết quả nhất định. Với chính sách khuyến
khích và hỗ trợ hoạt động cho thành phần này, số lượng các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở nước ta đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1991 mới chỉ có 123 doanh
nghiệp với số vốn điều lệ là 63 tỷ đồng thì đến năm 1996 đã có 26.091 doanh
nghiệp với số vốn điều lệ lên tới 8.257 tỷ đồng. Đến năm 2004, kinh tế ngoài quốc
doanh đã có 3.820 hợp tác xã, 31.667 doanh nghiệp tư nhân và 1.286.300 hộ kinh tế
cá thể và 1.826 công ty cổ phần.
Ở nước ta hiện nay,xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp,thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác
xã, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh doanh.
Công ty là loại hình doanh nghiêp hoạt động theo luật công ty,là đơn vị kinh
tế do các cá nhân bỏ vốn thành lập theo luật doanh nghiệp,trách nhiệm quyền hạn
cũng như lợi nhuận được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.Công ty có hai loại:
*Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau:

- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần.
- Cổ đông có thể là một tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba
và không hạn chế tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy
định pháp luật về chứng khoán.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công
ty.
*Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả
các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần góp vốn
được ghi trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại
chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện
tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người không phải là thành viên phải
Trang 5
được sự nhất trí của các thành viên đại diện với ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công
ty.
*Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn để sản
xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên nguyên tắc bình
đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi thành viên nhằm kết hợp
sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh
và đời sống. Cơ quan cao nhất là Đại hội xã viên, cơ quan quản lý các hoạt động của
hợp tác xã là ban chủ nhiệm hợp tác xã được xã viên bầu theo luật hợp tác xã.
*Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh.
*Hộ kinh doanh cá thể là một thực thể kinh doanh do một cá nhân hoặc hộ
gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường xuyên thuê lao
động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh.
Bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và từng bước hoàn

thịên đã và đang thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế.Tuy nhiên,sự phát
triển của kinh tế ngoài quốc doanh cần sự quan tâm rất nhiều của Đảng và Nhà nước
và sự nỗ lực của mọi ngành, mọi cấp.
1.1.2.Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
- Những đặc điểm về khả năng tài chính
Trong khu vực kinh tế tư nhân, ngoại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, nguồn tài chính ban đầu chủ yếu dựa vào tích luỹ cá nhân, gia đình, bạn
bè. Trong quá trình hoạt động, nhu cầu vốn được huy động phần lớn từ các nguồn:
lợi nhuận gửi lại, vay của người thân, vay của khu vực thị trường tín dụng không
chính thức, chỉ một phần nhỏ được tài trợ bởi tín dụng ngân hàng. Nguyên Tổng Bí
thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười đã có lần đề cập vấn đề mà Việt
Nam phải đối mặt trong phát triển kinh tế bằng 3 chữ: “Vốn, vốn và vốn". Các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam cũng có chung quan điểm, họ cho
rằng trở ngại lớn nhất đó là vấn đề: "Tín dụng, tín dụng và tín dụng". Việc tiếp cận
nguồn tín dụng ngân hàng là rất khó khăn đối với khu vực kinh tế NQD, đặc biệt là
Trang 6
nguồn tín dụng trung dài hạn. Nguyên nhân chính là do các thể chế chính sách liên
quan đến vấn đề vốn như: chính sách đất đai, việc thế chấp quyền sử dụng đất hoặc
tài sản để vay vốn chưa được hoàn chỉnh. Có thể nói vốn đang là vấn đề khó khăn
nhất đối với hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD trong việc phát
triển hơn nữa.
- Đặc điểm về trình độ, công nghệ sản xuất.
Do hạn chế về vốn nên năng lực sản xuất thấp kéo theo trình độ kỹ thuật
công nghệ của kinh tế ngoài quốc doanh còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ thuật công
nghệ sử dụng nhiều lao động. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu kinh tế
Trung ương năm 2003 thì chỉ có 36% doanh nghiệp và 28% số công ty sử dụng
công nghệ tương đối hiện đại, 42,5% doanh nghiệp và 31,2% công ty sử dụng công
nghệ cổ truyền, 27,5% doanh nghiệp và 40,8% công ty kết hợp cả công nghệ hiện
đại và cổ truyền. Công nghệ lạc hậu là một trong những nguyên nhân chính làm cho

các sản phẩm kém sức cạnh tranh và thị phần hàng hoá bị giới hạn trong khuôn khổ
chật hẹp. Tuy nhiên đây cũng là đặc điểm chung của các doanh nghiệp nước ta, kể
cả doanh nghiệp Nhà nước phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế còn kém phát
triển,thiếu năng động,mang nặng tính thuần nông của nước ta.
-Đặc điểm về trình độ quản lý, kinh doanh, kỹ năng người lao động.
Thành phần xuất thân của các chủ doanh nghiệp thuộc kinh tế ngoài quốc
doanh có từ nhiều nguồn khác nhau: nông dân, thợ thủ công, tầng lớp trí thức. Hơn
nữa, kinh tế nước ta mới chuyển sang kinh tế thị trường nên những kiến thức về
kinh tế, những hiểu biết về quy luật kinh doanh không phải ai cũng có thể nắm bắt
được. Điều này trước hết gây khó khăn trong việc điều hành doanh nghiệp cho
chính những người làm chủ. Họ gặp nhiều hạn chế, vướng mắc trong công tác tổ
chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự án, các cơ hội
đầu tư.Bên cạnh đó,đội ngũ người lao động phần lớn xuất thân từ dân nghèo, nông
thôn, trình độ học vấn còn nhều hạn chế nên kĩ năng cũng như kỉ luật lao động còn
thấp,chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho công việc.
Việc thực hiện Pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nước trong các
doanh nghiệp này chưa được thực hiện nghiêm túc. Phần lớn, các doanh nghiệp
hạch toán kế toán chủ yếu bằng kinh nghiệm bản thân. Do đó, họ gặp nhiều khó
Trang 7
khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vì không chứng thực được năng lực kinh
doanh cũng như tình hình tài chính của bản thân một cách rõ ràng.
-Đặc điểm về môi trường kinh doanh.
Các chính sách chế độ của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ,
chưa có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi đầu tư vốn
vào sản xuất kinh doanh và giảm bớt rủi ro trong hoạt động. Các văn kiện của Đảng
các chủ trương của Nhà nước và Chính phủ đã nêu rõ và công nhận vai trò quan
trọng của kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ chế thị trường nhưng việc cụ thể hoá
thành quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành để tạo môi trường thuận lợi đối với
kinh tế ngoài quốc doanh đến nay vẫn còn nhiều hạn chế.
Tính ổn định của chính sách kinh tế- tài chính còn thấp, thiếu tính kích

thích mà chủ yếu là chính sách thuế và pháp luật còn nặng tính ràng buộc về nguyên
tắc, chế độ.
Chính sách thuế còn nhiều ưu đãi, chiếu cố cho thành phần kinh tế Nhà
nước, chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các
thành phần kinh tế. Tình trạng còn nhiều đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh phải ngụy
trang núp bóng dưới danh nghĩa kinh tế Nhà nước hòng mong thu được lợi nhuận
cao là bằng chứng rõ ràng về sự bất bình đẳng trong cư xử ,thể hiện ở việc ưu đãi
quá mức đối với kinh tế Nhà nước.
Các chính sách Nhà nước chưa thực sự khuyến khích kinh tế ngoài quốc
doanh tăng cường sử dụng công nghệ mới, đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ
khoa học kỹ thuật. Thiếu chính sách bảo hộ quyền lợi chính đáng của người lao
động trong các doanh nghiệp tư nhân về các chế độ người lao động BHXH, BHYT
trong thời gian làm việc, khi về già.
Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, nhũng nhiễu.Tình trạng quan liêu,
cửa quyền trong quản lý kinh tế nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói
riêng vẫn đang là nhân tố cản trở không nhỏ đối với sản xuất kinnh doanh.Mặt khác,
môi trường sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn do sức
cạnh tranh còn kém.
Tóm lại, các đặc điểm nói chung và môi trường kinh doanh của thành phần
kinh tế này nói riêng còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản
Trang 8
xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này.Do đó, cần có sự quan tâm đúng mực
của các ngành các cấp và đặc biệt là của ngành ngân hàng tạo để điều kiện cho họ
trong việc tiếp cận vốn ngân hàng phục vụ nhu cầu chính đáng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
1.1.3.Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường ở
Việt nam.
Trong xu thế mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế, nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần được thừa nhận và tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế ngoài quốc
doanh đã và đang chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế nước

ta hiện nay.Điều này được thể hiện ở:
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện khai
thác tối đa nguồn lực của đất nước.
Trải qua 15 năm đổi mới, mặc dù đạt được nhiều thành tựu nhưng trình độ
nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp trong khi tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn
rất lớn, kinh tế Nhà nước không thể khai thác và tận dụng hết được những tiềm năng
này. Vì vậy cần phải phát triển kinh tế ngoài quốc doanh mới có thể khai thác tốt các
nguồn lực của đất nước. Việc khuyến khích thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
phát triển sẽ huy động được một lượng vốn lớn đang nằm trong dân, tạo điều kiện
cho năng lực con người được giải phóng và phát huy mạnh mẽ. Mọi cá nhân, tổ
chức đều cố gắng phát huy tối đa khả năng của mình, tìm kiếm, khai thác các nguồn
lực vì lợi ích của chính bản thân. Đó là động lực kích thích sự phát triển của lực
lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển.
1.1.3.2. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động,
góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao động
đông đảo, kinh tế Nhà nước không thể tạo ra đầy đủ công ăn việc làm cho tất cả.
Hơn nữa trải qua một giai đoạn nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp
đã bộc lộ rõ những mặt non kém của công tác quản lý và sử dụng lao động cho nên
với chủ trương giảm biên chế, kinh tế ngoài quốc doanh là đối trọng để thu hút lao
động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan Nhà nước và hành chính sự nghiệp. Bên cạnh đó,
do tính đa dạng trong loại hình của kinh tế ngoài quốc doanh, nó có mặt trong tất cả
Trang 9
mọi nghành nghề lĩnh vực, có mặt ở cả nông thôn và thành thị, có thể dễ dàng thành
lập bởi một cá nhân, một gia đình, hay một số cổ đông liên kết lại dưới dạng công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần
tương đối nhiều lao động. Do vậy, kinh tế ngoài quốc doanh là nơi tạo việc làm
nhanh nhất, dễ dàng hơn so với kinh tế Nhà nước.
1.1.3.3. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh ngày
càng phát triển nhanh chóng, đóng góp ngày càng lớn vào tỷ trọng GDP của

quốc gia .
Mặc dù còn lép vế hơn so với kinh tế Nhà nước song sự đóng góp vào GDP
của kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua đã chứng tỏ được vai trò cần
thiết của thành phần kinh tế này đối với sự phát triển của đất nước.Điều này được
thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước phân theo ngành kinh tế
Đơnvị:tỷđồng
Thành phần kinh tế Năm2002 % Năm2003 % Năm2004 %
1. Kinh tế Nhà nước
2.Kinh tế ngoài quốc
doanh
124732
231645
35
65
132624
281826
32
68
137652
353962
28
72
Tổng số 356377 100 414450 100 491614 100
Nguồn:Niên giám thống kê 2004
Như vậy tỷ trọng GDP kinh tế ngoài quốc doanh tăng dần qua các năm: 65%
năm 2002, 68% năm 2003 và 72% năm 2004, hoạt động của kinh tế ngoài quốc
doanh đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ,khác
với kinh tế Nhà nước, thành phần kinh này phải tự thân vận dộng để vươn lên mà
không hề có một sự ưu đãi nào từ phía Nhà nước, do đó, họ đã cố gắng phát huy

mọi nhân tài vật lực nhằm khẳng định vị trí của mình trên thị trường.Trong mấy
năm qua, sự phát triển mạnh mẽ loại hình kinh tế này đã góp phần làm tăng GDP,
tăng ngân sách Nhà nước, qua đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện cho
lực lượng sản xuất phát triển.
Trang 10
1.1.3.4 Kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh, góp phần tạo ra sự
phát triển sôi động của nền kinh tế.
Từ những thực tế cho ta thấy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã làm
tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Bởi vì, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển trên
nhiều lĩnh vực, ngành nghề làm cho thị trường hàng hoá trở nên phong phú, đa
dạng, sôi động, tạo ra sự thu hút. Trước sự tồn tại và phát triển của kinh tế ngoài
quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải phân tích, hoạch định chiến lược
kinh doanh cho phù hợp hơn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Điều
này càng khẳng định rằng việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh không những
không làm suy yếu kinh tế Nhà nước mà còn thúc đẩy thành phần này phát triển
mạnh mẽ hơn. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế
Nhà nước phát triển, giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà kinh tế
quốc doanh không đảm nhận hết.
Kinh tế ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt vừa là đối tác
làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm,
cung cấp đầu vào cho kinh tế Nhà nước. Sự kết hợp sản xuất- tiêu thụ giữa kinh tế
Nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra một dây chuyền sản xuất mới của xã
hội, giúp cho thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn và sản phẩm sản xuất ra được
hoàn thiện với chất lượng ngày càng tốt hơn.
Như vậy, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và tăng
cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành
phần kinh tế buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể nói riêng phải
luôn đổi mới hoàn thiện để tồn tại và phát triển. Kinh tế ngoài quốc doanh còn là
môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong nền kinh tế
mở cửa hiện nay, giao lưu kinh tế giữa các nước phát triển mạnh, nếu không có một

chính sách đúng đắn thì chúng ta sẽ không thể khai thác hết được tiềm năng của
thành phần kinh tế này.
1.1.3.5 Sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần vào quá trình Công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra mục tiêu đến năm
2010, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Bên cạnh đó cũng đặt ra mục tiêu
Trang 11
đến năm 2005 có khoảng 60% doanh nghiệp Nhà nước sẽ cổ phần hoá. Như vậy với
vai trò của mình, trong những năm tới kinh tế ngoài quốc doanh sẽ được mở rộng và
là nơi tập trung vốn, nhân lực vào các ngành kinh tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri
thức như công nghệ thông tin, điện tử... cũng như có thể lấp đầy những khoảng
trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn, có mức lợi
nhuận không cao mà các nhà đầu tư lớn ít quan tâm tới. Đây cũng là quan điểm của
Đảng ta trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
1.2.Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế ngoài
quốc doanh.
1.2.1 Khái niệm Tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng
hoá. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn.
Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu
theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn dựa trên những nguyên tắc:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định.
Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá,
máy móc, thiết bị, bất động sản...
- Người đi vay chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi
hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay nói cách khác
người đi vay phải trả thêm phần lãi vay.
Trong quá trình phát triển lâu dài của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá
quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển thông qua các hình thức: tín dụng Nhà

nước, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển quyền sử
dụng tạm thời một lượng vốn giữa Ngân hàng với khách hàng trong một thời
gian nhất định và sau thời gian đó lượng vốn được hoàn trả cộng thêm phần lãi
trên lượng vốn theo một lãi suất nhất định.
Tín dụng Ngân hàng được biểu hiện qua các quan hệ sau: quan hệ tín dụng
Ngân hàng với kinh tế Nhà nước, giữa Ngân hàng với kinh tế NQD, với các cá
nhân, quan hệ tín dụng giữa các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế, Ngân hàng
Trang 12
đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng với
các doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng đồng thời vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh
nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động trong
xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp và các cá nhân. Khác với tín dụng thương mại được cung cấp dưới
hình thức hàng hóa, còn tín dụng Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ
bao gồm tiền mặt và bút tệ - chủ yếu là bút tệ.
1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu thức khác nhau tùy theo
yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lí của ngân hàng, sau đây là một số cách
phân loại phổ biến hiện nay:
 Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng gồm có:
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12 tháng, tín
dụng ngắn hạn bao gồm các loại: cho vay bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ; chiết khấu chứng từ có giá; cho vay đáp
ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống với hộ tư nhân, cá
thể.
+ Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay từ 12 tháng đến 60
tháng. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng

các dự án có quy mô vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này
chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn như: xây dựng nhà ở, các
máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, đầu tư xây dựng các nhà máy,
xí nghiệp.
 Căn cứ vào mục đích sử dụng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các chủ
thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, các hàng hoá tiêu
Trang 13
dùng... Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc
dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
 Căn cứ vào sự bảo đảm cho vay, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không có tài sản
cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba để đảm bảo cho khả năng hoàn trả
của khoản vay. Việc đi vay chỉ dựa vào uy tín của người vay hoặc bảo lãnh bằng uy
tín của một bên thứ ba là các doanh nghiệp hay các tổ chức đoàn thể chính trị - xã
hội.
+ Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi Ngân hàng cấp tín dụng đòi
hỏi người vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba (có thể
bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo lãnh của tổ chức tín dụng khác) để
đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay. Đây là loại tín dụng được tất cả các Ngân hàng
áp dụng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, đặc biệt là khoản vay lớn, các
khoản đầu tư trung, dài hạn.
 Căn cứ vào đối tượng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn lưu động
cho các tổ chức kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như
mua nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ, chi cho các chi phí sản xuất, cho vay để thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn. Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để bù đắp

mức vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Thời gian cho vay vốn ngắn hạn thường dưới
12 tháng.
+ Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố định.
Loại tín dụng này thường dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời
hạn cho vay đối với loại tín dụng này trên 12 tháng.
 Căn cứ vào hình thức ,tín dụng bao gồm:
+Chiết khấu:Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với
giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương
phiếu chưa đên hạn(hoặc một giấy nợ).Đay chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.
Trang 14
+Cho vay:Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định. Có nhiều loại cho
vay:
Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và
trong một khoảng thời gian nhất định.Giới hạn naỳ được gọi là hạn mức thấu chi.
Cho vay trực tiếp từng lần.
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các
khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,không có điều kiện để được cấp
hạn mức thâu chi.Mỗi lần vay,khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương
án sử dụng vốn vay.Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay,xác
định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân,thời hạn trả nợ,lãi suất và yeu cầu đảm bảo
nếu cần.Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức
Là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng.Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kỳ.Đó là
số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản
xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.

Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.Doanh nghiệp
khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ
khi doanh nghiệp bán hàng.Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về
phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu
thụ.hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một hoặc vài năm.
Cho vay trả góp
Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được
áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho taì sản cố định hoặc
hàng lâu bền.Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ.
Trang 15
Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.Bên cạnh đó, ngân
hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp-là hình thức cho vay thông qua
các tổ chức trung gian.
+Bảo lãnh:là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình thông qua uy tín của ngân hàng,qua đó để thu lợi.
+Cho thuê:Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thỏa thuận nhất định.Sau thời gian nhất định, khác hàng phải trả cả
gốc và lãi cho ngân hàng
Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài
hạn.Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng
phải thu gần đủ(hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi.Hết hạn thuê,khách
hàng có thể mua lạo tài sản đó.
1.2.3. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là tập hợp nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, các bước
phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một món vay. Thông thường, để đảm
bảo hiệu quả tín dụng thì quy trình tín dụng phải tuân theo các bước sau:
1. Khai thác khách hàng cũ, tìm kiếm dự án, khách hàng mới.

2. Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn.
3. Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.
4. Ra quyết định cho vay, thông báo đến khách hàng.
5. Kiểm tra, hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
6. Kiểm soát trong khi cho vay, phát tiền vay.
7. Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay, theo dõi hoạt động của dự án.
8. Thu hồi vốn và xử lý nợ.
9. Thanh lý hợp đồng tín dụng.
Quy trình tín dụng là bước quan trọng để thực thi chính sách tín dụng. Thực
vậy, tuân theo các bước của quy trình tín dụng, Ngân hàng sẽ tìm kiếm, lựa chọn
được khách hàng phù hợp, có uy tín, đạo đức. Khi áp dụng quy trình tín dụng cần
phải sáng tạo mở rộng, nâng cao nghiệp vụ để trở thành kỹ năng, nghệ thuật cho vay
Trang 16
của Ngân hàng và năng lực của từng cán bộ, phù hợp với yêu cầu đa dạng của thị
trường.
1.2.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của kinh tế
ngoài quốc doanh ở Việt nam nói riêng.
Ở mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế và chiến lược kinh tế - xã hội khác
nhau cho nên vai trò tín dụng Ngân hàng được thể hiện và có những định hướng
khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhiệm vụ được đặt ra là tín dụng
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung và hoạt
động của các doanh nghiệp nói riêng.
-Tín dụng Ngân hàng thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn
rỗi đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và góp phần
tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.
Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh, kể từ
khi bắt đầu sản xuất kinh doanh cũng như khi một loại hình sản xuất kinh doanh
mới ra đời. Trong bất kỳ nền kinh tế hàng hoá nào cũng có nguồn tiền nhàn rỗi và
chưa sử dụng trong mọi tổ chức, thành phần kinh tế. Tín dụng Ngân hàng đã tập
trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy động vốn của mình theo nguyên

tắc hoàn trả và có lãi để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động, các tổ chức kinh tế có thể mở tài khoản tiền gửi
tại Ngân hàng để phục vụ cho hoạt động giao dịch với các tổ chức khác và tiền gửi
trong tài khoản của các đơn vị luôn phải có số dư nhất định. Nhờ vậy mà Ngân hàng
có thể huy động những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh
doanh của các tổ chức kinh tế - xã hội và nguồn dự trữ chưa dùng đến của ngân sách
Nhà nước, hình thành nên nguồn vốn. Từ đó, ngân hàng tiến hành phân phối các
nguồn đó một cách có kế hoạch, đáp ứng nhu cầu của quá trình tái sản xuất mở
rộng.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản
xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế
mũi nhọn.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị
trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả nhất nguồn
Trang 17
tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài nguyên để chuyển
hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì không thể thiếu
vai trò của tài chính tiền tệ. Trong đó, tín dụng Ngân hàng tạo nguồn vốn bằng cách
huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với
chỉ số trượt giá của đồng tiền để đầu tư vào các ngành, các công trình trọng điểm...
Bên cạnh đó, Ngân hàng còn tập trung tín dụng tài trợ cho những ngành kinh tế mũi
nhọn mà sự phát triển của các ngành này sẽ tạo cơ hội, cơ sở thúc đẩy các ngành
kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí, xây dựng cơ
sở hạ tầng...
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân
chuyển tiền tệ.
Bằng việc nhận và trả tiền gửi, mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng
với quy mô ngày càng lớn và có tính chất thường xuyên, liên tục. Hoạt động thanh
toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế diễn ra qua hệ thống NHTM đã làm tăng tốc
độ luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ.

Ngoài ra, sự phát triển của các nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng đi đôi với việc
thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông góp phần ổn định lưu thông tiền tệ.
Đây cũng là một trong những phương thức để kiềm chế lạm phát.
- Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm
soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung thống
nhất công tác tín dụng đã tạo tiền đề khách quan cho tín dụng Ngân hàng thực hiện
chức năng trên. Thông qua việc thực hiện phân phối lại tiền tệ trên nguyên tắc hoàn
trả, phục vụ tái sản xuất mở rộng. Tín dụng Ngân hàng phản ánh một cách tổng hợp
và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
với tình hình hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp kịp
thời phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Quá trình phản ánh và kiểm soát của tín dụng Ngân
hàng là không thể tách rời nhau trong chức năng này. Do đó, nó được sử dụng như
một đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong công tác quản lý tài chính, kiểm
Trang 18
soát các quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội thực hiện và củng cố chế độ
hạch toán kinh tế.
-Tín dung ngân hàng tham gia vào quá trình hình thành và phát triển
của khu vực kinh tế NQD
Mặc dù nguồn vốn ban đầu của các cơ sở kinh tế NQD là chủ yếu dựa vào
tích luỹ cá nhân, gia đình. Song vốn tín dụng cũng đóng góp một phần không nhỏ,
ngày càng có nhiều doanh nghiệp tư nhân được thành lập dựa trên cả 2 nguồn: tích
luỹ và tín dụng. Trong năm 2004, trên 14 triệu hộ gia đình nông thôn trở thành hộ
sản xuất kinh doanh được ngân hàng cho vay vốn. Đặc biệt, tín dụng ngân hàng
đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần một bộ
phận lớn trong khu vực kinh tế NQD. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanhcủa công ty cổ phần luôn xảy ra hiện tượng tạm thời thiếu hoặc thừa vốn. Tình
trạng này được giải quyết thông qua quan hệ tín dụng. Việc phát hành cổ phiếu,
chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu cùng được thực hiện thông qua thị trường vốn,

thị trường tiền tệ là các mặt hoạt động có liên quan đến tín dụng ngân hàng.
Như vậy tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và hoạt
động kinh doanh của khu vực kinh tế NQD.
-Tín dụng ngân hàng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp NQD
Thị trường đang trở nên cạnh tranh khốc liệt từng ngày. Để đứng vững trong
thương trường, chiến thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp luôn chú trọng vào
bốn lĩnh vực. Đó là: giá cả và chất lượng; sự kịp thời và bí quyết; cổ phần và chi
phối; đầu tư chiều sâu. Đối với các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế NQD ở Việt
Nam thì lĩnh vực được quan nhất đó là giá cả và chất lượng. Muốn nâng cao chất
lượng sản phẩm với giá thành hợp lý thì phải đầu tư áp dụng khoa học công nghệ
mới. Ở đây khó khăn lại là vấn đề vốn. Tín dụng ngân hàng là yếu tố hợp lý nhất để
tháo gỡ vấn đề này (hợp lý cả về số lượng, giá cả, lãi suất và thời hạn). Như vậy, tín
dụng ngân hàng tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh cho khu vực kinh tế NQD.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp NQD hoạt động kinh
doanh và đầu tư có hiệu quả
Trang 19
Tín dụng ngân hàng không phải rải đều bất kỳ cho khách hàng nào có nhu
cầu mà chọn lọc khách hàng làm ăn có hiệu quả. Vì vậy, để tiếp cận tín dụng ngân
hàng một cách dễ dàng trước hết các doanh nghiệp phải nỗ lực kinh doanh có hiệu
quả.
Bên cạnh đó, khi cấp tín dụng cho một dự án đầu tư, thì trước đó quá trình thẩm
định khắt khe của ngân hàng phải thấy được tính khả thi, hiệu quả của nó. Trong
quá trình cho vay, ngân hàng luôn giám sát việc sử dụng vốn vay của các doanh
nghiệp. Do đó, chính tín dụng đã có khả năng loại trừ các dự án không khả thi.
Điều này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
-Tín dụng ngân hàng là cầu nối cho các thành phần kinh tế NQD Việt
Nam thiết lập quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế
Ngày nay trong quan hệ kinh tế quốc tế, sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi
giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển mạnh mẽ. Trong

đó đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu là hai lĩnh vực hợp tác
quốc tế thông dụng nhất. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá
trình này. Nhưng thực tế hầu hết các chủ thể của khu vực kinh tế NQD không đủ
vốn để hoạt động. Ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng sẽ là trở thủ đắc lực cho
các doanh nghiệp NQD đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế ngoài quốc doanh. Với định hướng của Đảng và Nhà nước, các
NHTM đang xây dựng một chiến lược về thị trường nhằm nâng cao chất lượng
tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh, phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước.
1.3. Chất lượng tín dụng ngân hàng
1.3.1. Chất lượng tín dụng.
chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng các yêu cầu hợp lí của khách
hàng có lựa chọn,đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng.Nói cách khác, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu
tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự phát triển của môi
trường bên ngoài,thể hịên sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng trong quá trình cạnh
tranh để tồn tại.
Trang 20
Nói cụ thể hơn, chất lượng tín dụng chính là chất lượng các món vay,được
đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được khách hàng sử dụng có mục
đích,phục vụ cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo trả nợ ngân hàng đúng
hạn,bù đắp được chi phí và có lợi nhuận, có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả
kinh tế,vừa đem laị hiệu quả xã hội.
Dựa vào lợi ích các bên tham gia trong quan hệ tín dụng,có thể xem xét khái
niệm chất lượng tín dụng trên ba khía cạnh:
- Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng
của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn nợ hợp lý. Thủ tục giản đơn thu hút được khách
hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu

thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất.
- Đối với NHTM: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực
lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi
của tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt động, mang lại
lợi nhuận và đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động
tín dụng.
1.3.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
1.3.2.1.Nhóm các chỉ tiêu đánh giá quy mô
a)Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản Có(Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu)
Tỷ lệ này được đo bởi công thức:
Vốn tự có
Tỷ lệ vốn tự có trên = --------------------------
tổng tài sản Có Tổng tài sản Có
-Vốn tự có ở đây xác định gồm có hai phần: Vốn điều lệ của ngân hàng và
quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
Trang 21
-Tổng tài sản Có: Là các loại tài sản Có của ngân hàng đã được điều chỉnh
theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản(bao gồm cả các cam kết ngoại bảng của
ngân hàng).Việc quy định mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản Có tùy thuộc vào
đặc điểm riêng cụ thể của từng nước và từng thời kỳ khác nhau, phản ánh tỷ lệ rủi ro
dự đoán đối với tài sản có của ngân hàng.
-.Về cơ bản,một ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác dịnh quy mô vốn tự
có.Ngân hàng có thể tăng vốn tự có khi các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có thể đầu
tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro.Việc quyết định quy mô vốn của ngân hàng
không dễ dàng nhưng rất quan trọng,một ngân hàng muốn phát triển phải mở rộng
cơ sở vốn của nó nhưng đồng thời phải giữ được mức rủi ro nhất định.
b)Tình hình cho vay , dư nợ và thu nợ NQD.
Chỉ tiêu này được phản ánh qua các con số về doanh số cho vay, doanh số dư

nợ và doanh số thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh-Doanh số cho vay NQD là
số tiền cho vay của ngân hàng đối với khách hàng thuộc kinh tế ngoài quốc doanh
trong một thời kỳ.
-Dư nợ tín dụng NQD là số tiền mà khách hàng thuộc kinh tế ngoài quốc
doanh còn nợ ngân hàng tại một thời điểm.
DN tín dụng = DN tín dụng + DS cho vay - DS thu nợ
NQD NQD kỳ trước NQD trong kỳ NQD trong kỳ
-Doanh số thu nợ tín dụng NQD là số tiền ngân hàng thu nợ khách hàng
thuộc kinh tế ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
Thông qua đó, đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với
thành phần này thông qua sự tăng trưởng hay giảm sút của các con số.
1.3.2.1. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng có thể định lượng
a)Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản Có(Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu)
Tỷ lệ này được đo bởi công thức:
Vốn tự có
Tỷ lệ vốn tự có trên = --------------------------
tổng tài sản Có Tổng tài sản Có
Trang 22
-Vốn tự có ở đây xác định gồm có hai phần: Vốn điều lệ của ngân hàng và
quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
-Tổng tài sản Có: Là các loại tài sản Có của ngân hàng đã được điều chỉnh
theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản(bao gồm cả các cam kết ngoại bảng của
ngân hàng).Việc quy định mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản Có tùy thuộc vào
đặc điểm riêng cụ thể của từng nước và từng thời kỳ khác nhau, phản ánh tỷ lệ rủi ro
dự đoán đối với tài sản có của ngân hàng.
-.Về cơ bản,một ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác dịnh quy mô vốn tự
có.Ngân hàng có thể tăng vốn tự có khi các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có thể đầu
tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro.Việc quyết định quy mô vốn của ngân hàng
không dễ dàng nhưng rất quan trọng,một ngân hàng muốn phát triển phải mở rộng
cơ sở vốn của nó nhưng đồng thời phải giữ được mức rủi ro nhất định.

b)Tình hình cho vay , dư nợ và thu nợ NQD.
Chỉ tiêu này được phản ánh qua các con số về doanh số cho vay, doanh số dư
nợ và doanh số thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh-Doanh số cho vay NQD là
số tiền cho vay của ngân hàng đối với khách hàng thuộc kinh tế ngoài quốc doanh
trong một thời kỳ.
-Dư nợ tín dụng NQD là số tiền mà khách hàng thuộc kinh tế ngoài quốc
doanh còn nợ ngân hàng tại một thời điểm.
DN tín dụng = DN tín dụng + DS cho vay - DS thu nợ
NQD NQD kỳ trước NQD trong kỳ NQD trong kỳ
-Doanh số thu nợ tín dụng NQD là số tiền ngân hàng thu nợ khách hàng
thuộc kinh tế ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
Thông qua đó, đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với
thành phần này thông qua sự tăng trưởng hay giảm sút của các con số.
c)Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD
Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là khi đến thời hạn thanh toán
khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối
với người cho vay.Nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo,
trước hết, nó vi phạm đặc trưng của tín dụng về tính thời hạn,tính hoàn trả và lòng
tin của người cấp tín dụng với người nhận tín dụng.
Trang 23
Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD được đo bởi công thức sau:
Tổng số dư nợ quá hạn NQD
Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD = ------------------------------ ------ *100%
Tổng dư nợ cho vay NQD
Về cơ bản, Tỷ lệ Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh các khoản tín dụng có
vấn đề - những khoản cho vay quá hạn mà ngân hàng không thu hồi được.Mặc dù
các khoản tín dụng có vấn đề là kết quả của nhiều yêú tố nhưng cơ bản là kết quả
của sự không sẵn lòng chi trả của khách hàng vay vốn, hoặc không có khả năng thực
hiện hợp đồng để giảm bớt dư nợ hay toàn bộ khoản vay như đã thỏa thuận, cá biệt
có âm mưu chiếm dụng vốn.

d)Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD.
Tỷ lệ này được đo bởi công thức sau:
Nợ quá hạn khó đòi NQD
Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD = ---------------------------------- *100%
Tổng dư nợ NQD
Chỉ tiêu này phản ánh các khoản nợ đã quá thời hạn gia hạn nợ quá hạn
mà khách hàng còn nợ ngân hàng.Cùng với chỉ tiêu nợ quá hạn, chỉ tiêu này thể hiện
chất lượng tín dụng tốt hay xấu.Tỷ lệ này càng cao biểu hiện cho dấu hiệu của một
khoản tín dụng xấu và ngược lại.Tốt nhất, nên hạn chế tỷ lệ này ở mức dưới 1%.
Chỉ tiêu này được đo bởi công thức:
Lợi nhuận từ tín dụng NQD
Tỷ lệ LN từ cho vay NQD =
Tổng dư nợ tín dụng NQD
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường chất lượng tín
dụng của ngân hàng.Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng NQD. Tỷ
lệ này càng cao nghĩa là lợi nhuận thu được từ tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh đóng góp vào thu nhập của ngân hàng càng lớn, thể hiện chất lượng tín dụng
đối với thành phần này càng cao.
Trang 24
1.3.2.2.Nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng không thể định
lượng.
Bên cạnh những chỉ tiêu đánh gía chất lượng có thể tính toán như trên,
còn có những tiêu chí khác để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng không thể đo
lường và tính toán cụ thể:
-Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với
thực tế hoạt động kinh doanh của ngan hàng trong từng giai đoạn.
-Hệ thống tranh thiết bị, công nghệ hiện đại hỗ trợ cho công tác nghiệp vụ
một cách thuân lợi, hiệu quả.
-Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ, năng lực và đạo đức nghề
nghiệp,đây là yếu tố cuối cùng và quan trọng nhất trong mọi hoạt động của ngân

hàng.
-Quy trình nghiệp vụ tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế, đảm bảo
quản lý chặt chẽ quá trình cấp tín dụng,vừa thuận tiẹn với khách hàng,vừa đảm bảo
tín dụng cho ngân hàng.
-Uy tín mà ngân hàng đã tạo dựng được trong nền kinh tế và các mối quan
hệ với các khách hàng truyền thống.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng đối
với kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
chất lượng tín dụng là hai chỉ tiêu luôn đi liền nhau. Bởi lẽ, nếu mở rộng quy
mô mà không tính đén chất lượng thì sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn. Nếu chỉ tăng chất
lượng mà không quan tâm đến quy mô tín dụng thì không đạt hiệu quả kinh tế tối
ưu. Do mối quan hệ mật thiết giữa hai chỉ tiêu này mà hầu hết những nhân tố tác
động lên chỉ tiêu này thì cũng có tác động lên chỉ tiêu khác và ngược lại.
1.3.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
a) Kinh tế
Về tổng thể, nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động tín dụng. Khi đó, các quá trình sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nói
chung và của các doanh nghiệp NQD nói riêng sẽ phát triển lành mạnh. Và như thế,
quy mô và chất lượng tín dụng đều được nâng cao. Một khi môi trường kinh tế
không ổn định, môi trường kinh doanh biến động sẽ gây khó khăn cho hoạt động
Trang 25

×