Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng công thương bến thuỷ thành phố vinh tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.92 KB, 76 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta. Nó đóng vai trò quyết
định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Để đáp ứng nhu cầu
vốn cho nền kinh tế, nước ta cần phải có các biện pháp, chính sách nhằm huy
động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Ở nước ta thị trường chứng
khoán chưa phát triển do vậy lượng vốn huy động được bằng con đường tài
chính trực tiếp thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Do vậy quá trình nhận
và truyền vốn trên thị trường chủ yếu được thực hiện thông qua các ngân hàng
thương mại và thị trường tín dụng. Có thể nói ở Việt Nam hơn 80% lượng vốn
trong nền kinh tế là do hệ thống ngân hàng cung cấp. Do đó vai trò của Ngân
hàng trong hoạt động huy động vốn cho nền kinh tế là cực kỳ quan trọng.
Như vậy công tác huy động vốn của ngân hàng đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của ngân hàng nói riêng.
Trong thời gian học tập tại trường và thời gian thực tập chi nhánh Ngân hàng
Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An tôi đã cố gắng
nghiên cứu và tìm hiểu kỹ về công tác huy động vốn và chọn đề tài chuyên đề
tốt nghiệp: “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng
Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An”
Chuyên đề tập trung vào nghiên cứu các phương thức huy động vốn của ngân
hàng thương mại, các nhân tố ảnh hưởng đến các phương thức đó. Thực
trạng về công tác huy động vốn của ngân hàng công thương Bến Thuỷ (các
phương thức huy động vốn mà ngân hàng áp dụng, các nhân tố ảnh hưởng tới
nó), từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận được hình thành gồm có 3
chương.
Chương I. Vai trò của vốn và hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng Thương mại.
Chương II. Thực trạng huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng
Công Thương Bến Thuỷ.




Chương III. Giải pháp tăng cường huy động vốn của chi nhánh
Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ.

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

I. Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
1. Định nghĩa Ngân hàng Thương mại.
Lịch sử đã ghi nhận sự phát sinh, phát triển của ngành Ngân hàng được
quyết định bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá- tiền tệ.
Đồng thời cũng còn những yếu tố khác có ảnh hưởng quyết định đến cấu
trúc và sự phát triển của hệ thống ngân hàng; như chế độ pháp quyền,
điều kiện chiến tranh và tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính...
2. Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
2.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
2.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng:
2.3. Nghiệp vụ đầu tư :
2.4. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
2.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng:
II. Vai trò của vốn đối với Ngân hàng thương mại.
1. Vốn của Ngân hàng thương mại.
1.1. Khái niệm về vốn.
1.2. Cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
2. Vai trò của vốn đối với Ngân hàng thương mại.
III. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại.

1. Các hình thức huy động tiền gửi của Ngân hàng Thương mại.
1.1. Phân loại theo tiêu thức kỳ hạn.
1.2. Phân loại theo tiêu thức nguồn hình thành.
1.3. Phân loại theo tiêu thức mục đích sử dụng.
1.4. Phân loại theo tiêu thức loại tiền gửi.
2. Chứng thư tiền gửi loại lớn.
3. Vay ngắn hạn tại Ngân hàng Trung Ương.
4. Vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại.
5. Vay ngắn hạn bằng giấy nợ phụ.
6. Vay của Ngân hàng Trung Ương.
7. Các khoản vay từ công ty mẹ.


IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM
1. Các nhân tố bên ngoài
1.1: Chu kỳ phát triển kinh tế
1.2: Môi trường luật pháp
1.3. Điều kiện về môi trường cạnh tranh
1.4. Yếu tố thuộc về văn hoá - xã hội, tâm lý khách hàng
2. Các yếu tố thuộc về ngân hàng
2.1: Các hình thức huy động vốn mà ngân hàng sử dụng
2.2. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng:
2.4: Trình độ công nghệ ngân hàng
2.5. Uy tín của ngân hàng
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BẾN THUỶ

I. Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển

2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh ngân hàng Công thương Bến Thuỷ.
2.1. Phòng kinh doanh
2.2. Phòng kế toán
2.3. Phòng kinh doanh đối ngoại.
2. 4. Phòng tổ chức - Hành chính
2. 5. Phòng Ngân quỹ
2. 6. Phòng Nguồn vốn
2.7. Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ
2. 8. Phòng giao dịch Trường thi
3. Kết quả hoạt động kinh doanh những năm qua.
3.1. Về huy động vốn.
3.2. Về hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh
3.3. Các hoạt động khác.
3.4. Kết quả kinh doanh
II. Thực trạng hoạt động huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công
thương Bến Thuỷ những năm qua(1998-2002).
1. Tình hình huy động vốn ngắn hạn.
2. Tình hình huy động vốn trung - dài hạn.
III. Đánh giá chung về công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng
công thương Bến Thuỷ trong những năm qua.
1. Những kết quả đạt được:
2. Những hạn chế và nguyên nhân.
2.1.Hạn chế.
2.2. Nguyên nhân.


CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BẾN THUỶ


I. mục tiêu của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ năm tới.
II. Các giải pháp để tăng cường huy động vốn cho ngân hàng.
1. Có định hướng, kế hoạch về phát triển nguồn vốn phù hợp.
2. Mở rộng mạng lưới huy động, đa dạng hoá các hình thức huy động
vốn
3. Đơn giản hoá các thủ tục trong hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng
4. Phải có chính sách lãi suất phù hợp với từng thời kỳ:
5. Thực hiện tốt chính sách khách hàng
6. Ngân hàng không ngừng hoàn thiện các tiện ích như thanh toán, thu
chi hộ,...
7. Hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả trong kinh doanh
8. Đào tạo đội ngũ cán bộ nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao, hết
lòng phục vụ khách hàng
9. Tăng cường hoạt động Marketing trong ngân hàng
III. Một số kiến nghị .
1. Đối với Ngân hàng Công thương Việt nam.
1.1. Cải tiến tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp.
1.2. Cải tiến tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản cá nhân.
2. Một số kiến nghị đối với Ngân hàng Trung Ương.
2.1. Điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với các ngân hàng
thương mại, không nên để lãng phí khoản dữ trữ bắt buộc đóng băng
tại ngân hàng Nhà nước
2.2. Phải có chính sách lãi suất phù hợp trong từng thời kỳ.
2.3. Phải điều chỉnh tỷ giá hợp lý khi có biến động.
2.4. Hoàn thiện môi trường pháp lý, chính sách liên quan đến hoạt
động ngân hàng.
2.5. Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy Công ty bảo
hiểm tiền gửi phát huy vai trò của mình.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Lời nói đầu

1


LỜI NÓI ĐẦU
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta. Nó đóng vai trò quyết
định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Để đáp ứng nhu cầu
vốn cho nền kinh tế, nước ta cần phải có các biện pháp, chính sách nhằm huy
động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Ở nước ta thị trường chứng
khoán chưa phát triển do vậy lượng vốn huy động được bằng con đường tài
chính trực tiếp thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Do vậy quá trình nhận
và truyền vốn trên thị trường chủ yếu được thực hiện thông qua các ngân hàng
thương mại và thị trường tín dụng. Có thể nói ở Việt Nam hơn 80% lượng vốn
trong nền kinh tế là do hệ thống ngân hàng cung cấp. Do đó vai trò của Ngân
hàng trong hoạt động huy động vốn cho nền kinh tế là cực kỳ quan trọng.
Như vậy công tác huy động vốn của ngân hàng đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của ngân hàng nói riêng.
Trong thời gian học tập tại trường và thời gian thực tập chi nhánh Ngân hàng
Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An tôi đã cố gắng
nghiên cứu và tìm hiểu kỹ về công tác huy động vốn và chọn đề tài chuyên đề
tốt nghiệp: “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng
Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An”
Chuyên đề tập trung vào nghiên cứu các phương thức huy động vốn của ngân
hàng thương mại, các nhân tố ảnh hưởng đến các phương thức đó. Thực
trạng về công tác huy động vốn của ngân hàng công thương Bến Thuỷ (các
phương thức huy động vốn mà ngân hàng áp dụng, các nhân tố ảnh hưởng tới

nó), từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận được hình thành gồm có 3
chương.
Chương I. Vai trò của vốn và hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng Thương mại.


Chương II. Thực trạng huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng
Công Thương Bến Thuỷ.
Chương III. Giải pháp tăng cường huy động vốn của chi nhánh
Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ.
Do thời gian nghiên cứu lý luận và thực tập còn ngắn với trình độ hiểu
biết còn hạn chế do vậy chuyên đề này còn có nhiều thiếu sót. Rất mong nhận
được sự đóng góp và chỉ bảo của các thầy cô và các bạn đọc. Em xin chân
thành cảm ơn thầy GS.TS. ….. đã tận tình chỉ bảo và các cô chú, anh chị công
tác ở phòng kinh doanh, phòng nguồn vốn, phòng kế toán và các cán bộ nhân
viên khác trong ngân hàng đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp
này. Rất chân thành cảm ơn.


Chương I
Vai trò của vốn và hoạt động huy động vốn
của ngân hàng thương mại
I. NHỮNG NGHIỆP VỤ CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Định nghĩa Ngân hàng Thương mại.
Lịch sử đã ghi nhận sự phát sinh, phát triển của ngành Ngân hàng được
quyết định bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Đồng
thời cũng còn những yếu tố khác có ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc và sự
phát triển của hệ thống ngân hàng; như chế độ pháp quyền, điều kiện chiến
tranh và tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính...

Từ thời cổ đại, ở những nước có nền thương mại phát triển sớm đã xuất hiện
những nhóm thương nhân chuyên nghề kinh doanh các dịch vụ tiền tệ nhưng
chưa có một cơ cấu tổ chức nào được coi như một ngân hàng theo đúng chức
danh của nó. Trong nhiều thế kỷ của thời trung cổ, nghề kinh doanh này đã
phải trải qua bao nỗi thăng trầm bởi chiến tranh tàn khốc, không thể phát triển
được. Phải chờ cho đến đầu thế kỷ thứ 12, khi chiến tranh đã dịu bớt, kinh tế
hàng hoá đã có bước phát triển, nhất là khu vực Tây âu. Khi đó, một tổ chức
được mệnh danh là ngân hàng được thành lập ở Venise nước Ý vào năm 1171,
tuy về thực chất chỉ là một tổ chức tài chính được thiết lập để thực hiện sự tài
trợ cho chiến tranh, nhưng nội dung hoạt động của nó đã bao hàm cả nghiệp
vụ ngân hàng.
Cho đến đầu thế kỷ 15, một số tổ chức kinh doanh tiền tệ được thành lập,
được xem như những ngân hàng thực thụ như: Ngân hàng Barcelone, Ngân
hàng Valenee của Tây Ban Nha, những tổ chức này đã thực hiện các nghiệp
vụ nhận tiền ký thác, cấp tín dụng, chuyển ngân và làm các nghiệp vụ thu- chi
tiền cho khách hàng với ý nghĩa là những nghiệp vụ kinh doanh cơ bản.
Sự phát triển của Ngân hàng Thương mại phải kể từ thời kỳ phục hưng, và
đặc biệt là từ khoảng thế kỷ 17 cho đến nay. Thời kỳ kinh tế hàng hoá phát
triển nhanh chóng, mạnh mẽ, nền thương mại không ngừng mở rộng, các
quan hệ hàng hoá- tiền tệ phát triển bao trùm đời sống kinh tế- xã hội đã tạo
ra những tiền đề kinh tế phát sinh và phát triển nghề Ngân hàng.


Ở Việt nam, trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật,
được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể
hỗn hợp đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các
doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác
và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. Theo hướng đó, nền kinh

tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra
đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Từ năm 1986, hoà
vào công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của đất nước theo sự chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước, hệ thống ngân hàng được tổ chức lại theo Nghị định
53/HĐBT được tách ra làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nuớc đảm nhận công tác
phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ, còn chức năng kinh doanh được
thực hiện bởi các Ngân hàng Thương mại.
Năm 1991, sự ra đời của các Ngân hàng Thương mại cổ phần cùng các
Ngân hàng Thương mại quốc doanh đã góp phần rất lớn vào công cuộc phát
triển đất nước. Luật “Tổ chức tín dụng” của Việt nam ban hành vào ngày
12/12/1997 đã định nghĩa Ngân hàng Thương mại như sau:
“Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động
ngân hàng là một hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
2. Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống
như một doanh nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối
đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi
vay và cho vay lại. So với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng
hoá của Ngân hàng Thương mại là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn.
Giá cả của loại hàng hoá này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi suất huy
động hoặc lãi suất cho vay, nó chịu tác động bởi quan hệ cung - cầu vốn trên
thị trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản
xuất kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu của hoạt động ngân hàng sẽ là
khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với thu nhập từ lãi cho vay.



Để có hàng hoá kinh doanh, ngân hàng phải đưa ra một giá mua hợp lý cũng
như đa dạng các hình thức huy động.
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm phân
tán giảm thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh Ngân hàng Thương mại thực hiện
các dịch vụ trung gian hưởng hoa hồng. Ngày nay, hệ thống Ngân hàng
Thương mại phát triển mạnh mẽ, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực
kinh tế xã hội. Sự đa dạng và phong phú các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho
Ngân hàng Thương mại trở thành một tổ chức kinh doanh không thể thiếu
trong tiến trình phát triển kinh tế.
2.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Đây là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhận
được các khoản tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng
nhận tiền gửi của cá nhân, của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải
hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu
cầu sử dụng đến rút tiền ở ngân hàng.
2.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng:
Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ
liên quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực
thanh toán bình thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là
nghiệp vụ đặc trưng nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín
dụng ngân hàng và ngân hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn
vốn đã hình thành trong nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi
thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp
vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân
thành:
2.2.1. Căn cứ vào mục đích:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai.

- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại
và dịch vụ.


- Cho vay nông nghiệp.
- Thuê mua và các loại khác.
2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu
được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của các doanh nghiệp.
- Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt
năm thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm.
Tín dụng trung hạn thường sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải
tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dụng các dự án
mới có quy mô nhỏ với thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm
(Việt nam).
Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng
nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp
mới.
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của
bản thân khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải
có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
2.2.4. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được

thực hiện bằng các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời
vụ,...
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa
dạng, ví dụ như tài trợ thuê mua.
2.2.5. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.


- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và
lãi theo định kỳ.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
2.2.6. Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ
bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này,
ngân hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không
thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực
hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì thế, nghiệp vụ này còn được gọi là tín dụng bằng
chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm: tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng
từ, bảo lãnh của ngân hàng.
2.3. Nghiệp vụ đầu tư :
Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ
chêch lệch thị giá chứng khoán mua bán trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp
vốn vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới.
2.4. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ
nhằm đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh
doanh ngoại tệ còn góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài
trợ cho xuất nhập khẩu,...
2.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng:
- Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ

chuyển tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển
tiền là chuyển tiền bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
- Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi,
ngân hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng
chuyển trả tiền hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi
nhận được chứng từ khách hàng nhờ thu hộ...
- Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác
của khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo
quản chứng khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá... để hưởng hoa hồng.


- Mua bán hộ: Theo sự uỷ nhiệm của khách hàng ngân hàng thực hiện
nghiệp vụ phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc
phát hành trái khoán Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được
một khoản thu nhập dưới hình thức hoà hồng phát hành. Ngân hàng có thể
tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường theo lệnh của khách hàng với
tư cách là một trung gian môi giới trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng
khoán.
II. VAI TRÒ CỦA VỐN ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Vốn của Ngân hàng thương mại.
1.1. Khái niệm về vốn.
Vốn của các ngân hàng thương mại phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong sản xuất kinh doanh được gửi vào ngân hàng với những mục
đích khác nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Vốn và các hoạt động về huy động vốn quyết định trực tiếp
đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương
mại. Vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với việc thực hiện các chức
năng của ngân hàng thương mại.
1.2. Cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:

1.2.1. Vốn chủ sở hữu :
Vốn chủ sở hữu là vốn tự có của ngân hàng, nó là vốn điều lệ khi ngân hàng
mới đi vào hoạt động và được bổ sung thường xuyên. Vốn điều lệ phải lớn
hơn hoặc bằng vốn pháp định do ngân hàng nhà nước trung ương quy định.
Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng sẽ tuỳ thuộc vào quy mô và hoạt
động của nó. Tuỳ theo loại hình ngân hàng mà vốn điều lệ được hình thành có
thể khác nhau. Vốn điều lệ của ngân hàng có nguồn gốc hình thành do ngân
sách nhà nước cấp phát ban đầu nếu là ngân hàng thương mại quốc doanh,
còn nếu là ngân hàng thương mại cổ phần thì sẽ do các cổ đông đóng góp.
Các quỹ dự trữ của ngân hàng: Được coi là nguồn vốn tự có và được bổ
sung hằng năm từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Theo khoản 1 điều 87 luật
các tổ chức tín dụng thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 quy định về việc


trích lập các quỹ từ lợi nhuận, các ngân hàng thương mại phải tiến hành trích
lập các quỹ:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích lập hằng năm theo tỷ lệ 5%
trên tổng lợi nhuận sau thuế hằng năm tới mức tối đa do ngân hàng nhà nước
quy định.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro : Để dự phòng và bù đắp thiệt hại có nguy cơ
ăn mòn vốn do những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân
hàng được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm theo tỷ lệ 10% cho tới khi bằng
100% vốn điều lệ.
Hai quỹ này bắt buộc phải trích lập tại các tổ chức tín dụng, không được
dùng các quỹ này để trả lợi tức cổ phần hoặc chuyển ra nước ngoài.
Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, ngân hàng còn tiến hành
trích lập các quỹ từ lợi nhuận thu được:
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng.
- Quỹ phúc lợi, khen thưởng.
Các quỹ này tỷ lệ trích lập theo quyết định của đại hội cổ đông hoặc theo

chỉ đạo của nhà nước.
Vốn riêng của ngân hàng được dùng để mua sắm tài sản cố định, các
phương tiện cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, nhưng không quá
50% vốn tự có, để tài trợ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng và được sử
dụng để hùn vốn liên doanh, mua cổ phần...
Vốn tự có và các quỹ so với tổng số vốn hoạt động của ngân hàng chỉ chiếm
một phần nhỏ.

1.2.2. Vốn huy động:
Các khoản tiền gửi loại này không thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng ngân
hàng được quyền sử dụng đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này.
Đây là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt
động sử dụng vốn tồn tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
1.2.2.1. Vốn tiền gửi của khách hàng:
Đây là khoản vốn hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ trọng
cao nhất trong nguồn vốn. Tuy nhiên, một bộ phận đáng kể trong vốn tiền gửi
này luôn luôn biến động, do vậy khi sử dụng ngân hàng luôn phải dự trữ để


đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả. Dựa vào yếu tố thời gian và tính chất
của những khoản tiền gửi, tiền gửi của khách hàng có hai loại: Tiền gửi kỳ
hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn.
Là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của người gửi tiền mà không tôn
trọng một kỳ hạn ký thác nào. Đây là khoản tiền gửi thường xuyên biến động
ngân hàng không thể định ra kế hoạch sử dụng trước được mà chỉ dựa vào
kinh nghiệm quản lý, ngân hàng có thể tận dụng ở một mức độ cho phép.
Mục đích của người gửi tiền là sử dụng những dịch vụ trung gian thanh toán
của ngân hàng thương mại như giữ hộ, thu chi hộ,... Ngân hàng không phải
trả lãi hoặc có trả lãi nhưng với một mức lãi suất rất thấp chỉ mang tính chất

tượng trưng. Kinh nghiệm trong quản lý ngân hàng cho thấy mặc dù tài
khoản tiền gửi không kỳ hạn của từng khách hàng có biến động do khách
hàng thường xuyên có những khoản thu và những khoản chi, nhưng trên tài
khoản tổng hợp luôn có số “dư có” bình quân tương đối ổn định. Vì vậy ngân
hàng có thể động viên những khoản vốn tạm thời nhàn rỗi trên các tài khoản
không kỳ hạn làm nguồn vốn kinh doanh.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền
chỉ được rút ra khi đến thời hạn quy định. Đây là bộ phận tiền huy động
mang tính chất ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền huy động từ
khách hàng. Ngân hàng sử dụng chủ yếu để cho vay có kỳ hạn. Chính điểm
thuận lợi này mà ngân hàng phải trả lãi cao vì mục đích của người gửi tiền là
lợi nhuận.
1.2.2.2. Vốn vay.
Ngoài việc huy động tiền gửi theo các hình thức truyền thống, ngân hàng
thương mại có thể bổ sung vốn hoạt động của mình bằng cách đi vay từ các tổ
chức và các tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu hoặc kỳ phiếu
ngân hàng, nhưng phải được ngân hàng Nhà nước chấp nhận, Kỳ phiếu ngân
hàng được phát hành rộng rãi. Những người mua kỳ phiếu ngân hàng sẽ trực
tiếp cho ngân hàng vay với lãi suất cố định thông báo trước. Các tờ giấy nhận
nợ này sẽ được ngân hàng thanh toán khi tới hạn ghi trên mặt kỳ phiếu. Ngoài
ra ngân hàng thương mại còn có thể vay ở ngân hàng nhà nước dưới hình thức
tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các thương phiếu chứng từ có giá. Vay của các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường tiền tệ
liên ngân hàng. Ngân hàng thương mại cũng có thể vay ở ngân hàng nước


ngoài hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Vậy các ngân hàng thương mại
đi vay khi nào?
- Ngân hàng vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi và

với trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền
để sử dụng. Do vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà ngân
hàng nhận được trước đó trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút ra thì
ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán tiền cho khách hàng, nghĩa
là ngân hàng thiếu tiền trả cho khách hàng.Vậy ngân hàng phải đi vay.
- Ngân hàng vay hộ cho khách hàng.
Vì hoạt động cơ bản của ngân hàng là tài trợ cho nền kinh tế nên khi có
khách hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng và đảm bảo các yêu cầu mà ngân
hàng đề ra thì ngân hàng sẽ cho vay. Tuy nhiên, với những khoản vay với số
lượng lớn, thời gian dài mà ngân hàng lại không muốn dùng toàn bộ số tiền
mình có để đầu tư cho dự án này (vì rủi ro cao) vì như thế sẽ mất đi toàn bộ
những cơ hội đầu tư khác. Vì vậy ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng phát
hành trái phiếu nhằm thu gom tiền trong nền kinh tế để phục vụ cho dự án.
Người ta chỉ phát hành trái phiếu vừa đủ số tiền mà dự án cần dùng và trong
một thời hạn bằng thời gian tồn tại của dự án.
- Ngân hàng vay để cho vay.
Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở thành tiền gửi tại các ngân
hàng, nghĩa là các ngân hàng chia nhau nắm giữ lượng tiền trong lưu thông.
Để tăng lượng tiền gửi của mình, các ngân hàng thường tăng lãi suất để thu
hút các khoản tiền gửi ở các ngân hàng khác chảy về. Nhưng thực tế khi một
ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi, để tránh sự chảy vốn các ngân hàng khác
cũng sẽ đồng loạt tăng lãi suất lên làm chi phí ngân hàng tăng lên mà lượng
tiền gửi lại thay đổi không đáng kể. Do vậy khi thiếu vốn để tài trợ cho các dự
án mà ngân hàng cho là có hiệu quả thì ngân hàng sẽ thực hiện chính sách đi
vay. Do tính chất hoạt động không đồng đều giữa các ngân hàng về huy động
vốn và sử dụng vốn nên những ngân hàng thiếu vốn có thể vay vốn ở những
ngân hàng thừa vốn chưa sử dụng hết. Mặt khác khi ngân hàng dự đoán được
sự gia tăng về nhu cầu tín dụng trong tương lai mà nguồn vốn thì có xu hướng
tăng không đáp ứng đủ nhu cầu vốn sử dụng trong thời kỳ tới thì ngân hàng
cũng sẽ đi vay.



- Ngân hàng vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau.
Vào cuối kỳ hạch toán, nếu các chủ ngân hàng dự tính được thu nhập của kỳ
đó lớn nghĩa là kỳ đó họ phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính được kỳ
sau họ sẽ có những khoản chi phí lớn thì họ có thể phát hành kỳ phiếu nhắn
hạn trả lãi trước nhằm tăng chi phí cho kỳ này và giảm chi phí cho kỳ sau.
1.2.2.3. Vốn tiếp nhận.
Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại được tổ chức theo mô hình của
tổng công ty và các công ty con gồm ngân hàng mẹ và hệ thống các chi nhánh
ngân hàng trực thuộc. Có một phương thức huy động vốn được sử dụng rất
hiệu quả hiện nay là chu chuyển nguồn vốn điều hoà. Do tình hình kinh tế xã
hội của các vùng hoạt động của ngân hàng chi nhánh là khác nhau. Những chi
nhánh ngân hàng mà hoạt động sử dụng vốn vượt quá khả năng huy động vốn
thì đầu kỳ lập kế hoạch lên ngân hàng mẹ và xin được nhận một lượng vốn
điều hào cần thiết cho hoạt động sử dụng vốn của mình. Những ngân hàng mà
khả năng huy động vốn vượt quá khả năng sử dụng vốn thì đầu kỳ cũng lập kế
hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về ngân hàng mẹ để được hưởng một lãi
suất điều hoà. Như vậy ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm điều chuyển vốn từ
nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh ngân hàng trong nền kinh tế. Chi
phí nhận nguồn vốn điều hoà thấp hơn chi phí nguồn vốn huy động nhưng tại
sao các ngân hàng đều nhận nguồn vốn điều hoà sau khi đã lập kế hoạch về
lượng vốn huy động được trong kỳ sau, bởi vì tính độc lập của nó với ngân
hàng mẹ. Đây là một phương thức huy động vốn rất hiệu quả được áp dụng
nhiều trên thế giới hiện nay.
1.2.2.4. Vốn uỷ thác đầu tư.
Một số ngân hàng con thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý. Khi đó trong
cơ cấu vốn của ngân hàng con còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư.
Khoản vốn này hình thành chủ yếu hình thành là do các tổ chức tài chính
nước ngoài, trong nước uỷ thác cho ngân hàng một khoản tiền để ngân hàng

thực hiện cho vay các dự án của mình. Có thể là các khoản vay của Chính Phủ
được uỷ thác.
Trên đây là cơ cấu vốn chính của các ngân hàng thương mại. Vốn huy động
là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng,
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động sử dụng vốn. Tuy nhiên,
các ngân hàng thương mại phải tuân thủ theo luật định về mức vốn huy động


tối đa không vượt quá hai mươi lần vốn thuộc sở hữu của ngân hàng và phải
chấp hành tốt các quy định về tỷ lệ dự trữ...
2. Vai trò của vốn đối với Ngân hàng thương mại.
Như mọi đơn vị kinh doanh khác, muốn hoạt động kinh doanh được tiến
hành cần phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh
doanh tiền tệ nên phải có tiền mới có thể hoạt động kinh doanh được. Hoạt
động tìm kiếm tư liệu sản xuất của ngân hàng thương mại là hoạt động huy
động vốn. Như vậy, huy động vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động
của các ngân hàng thương mại.
Thứ nhất, vốn là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh. Đối
với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có
vốn, vì vốn phản ánh năng lực kinh doanh. Điều này thể hiện ở vốn tự có, vốn
huy động, vốn đi vay của ngân hàng. Nếu vốn tự có giữ vai trò quan trọng
trong việc thành lập thì sau khi đi vào hoạt động, vốn huy động quyết định tới
quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng.
Vậy, nếu ngân hàng không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động kinh
doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là
phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Trên thực
tế, ngân hàng nào có khối lượng vốn lớn hơn thì ngân hàng đó có thế mạnh
cạnh tranh trong kinh doanh.
Thứ hai: Vốn ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô các hoạt động của ngân hàng
thương mại.

Vốn của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp tín
dụng, hoạt động bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ hay trong hoạt động thanh
toán của các ngân hàng thương mại. Thông thường so với các ngân hàng nhỏ,
các ngân hàng lớn có những khoản mục về đầu tư cho vay đa dạng hơn,
phạm vi và khối lượng cho vay của các ngân hàng này cũng lớn hơn. Trong
khi các ngân hàng lớn hoạt động trên phạm vi toàn thế giới thì các ngân hàng
nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt động chủ yếu trong một khu vực nhỏ, trong
nước. Nếu khả năng về vốn của ngân hàng đó dồi dào thì ngân hàng có thể
mở rộng được các hoạt động của mình và đáp ứng được nhu cầu về vốn của
khách hàng về cho vay, bảo lãnh, đầu tư...
Ví dụ như :
- Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có.


- Cho vay đối tượng ưu đãi không quá 5% vốn tự có.
- Cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% vốn tự có.
- Kinh doanh ngoại hối không quá 30 lần vốn tự có.
Bên cạnhvốn lớn hay nhỏ thì chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của tính ổn
định của vốn. Một ngân hàng có lượng vốn ổn định thì sẽ dễ dàng trong việc
hoạch định việc cung ứng đầu tư cho vay. Ngân hàng đó có thể dự kiến tương
đối chính xác lượng vốn cung ứng, cho nên sẽ dự kiến được lợi nhuận trong
tương lai khá chính xác.
Thứ ba: Vốn giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh.
Ngân hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu các hoạt động nghiệp
vụ hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để cho vay, vay để đầu tư, vay để
thanh toán... Bởi vì khi đi vay vốn để thực hiện các hoạt động của mình, ngân
hàng sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào đối tượng cho vay về thời hạn vay, số lượng
vay và chi phí vay cao. Do đó có thể ngân hàng sẽ bỏ lỡ cơ hội trong kinh
doanh. Ngược lại, ngân hàng có lượng vốn huy động dồi dào sẽ hoàn toàn
chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình, không phụ thuộc vào ai,

không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn huy động lớn cũng làm tăng
khả năng hoạt động của ngân hàng như chủ động đa dạng hoá các hoạt động
kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và tăng thu nhập, đạt mục tiêu cuối cùng
của ngân hàng là an toàn và sinh lợi.
Thứ tư: Vốn giúp ngân hàng quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy
tín của mình trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt
động đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín của mình trên thị thường là điều
quan trọng. Uy tín đó trước hết được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán
cho khách hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả
dụng càng lớn. Mặt khác, uy tín của ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho
vay và đầu tư của ngân hàng (ngân hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn,
thời hạn dài nếu như ngân hàng có nguồn vốn lớn). Điều này phụ thuộc vào
hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Với tiềm năng vốn và khả năng huy
động vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng
tăng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả; vừa giữ chữ tín vừa nâng cao thanh
thế của ngân hàng trên thị trường.


Bên cạnh đó, một trong những công cụ lớn nhất của vốn tự có là tạo sự uy
tín trong công chúng. Một ngân hàng có trụ sở là tài sản riêng càng đồ sộ
chừng nào thì càng dễ gây tín nhiệm của dân chúng từng nấy. Vốn tự có của
ngân hàng càng lớn thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình
hình kinh tế - xã hội và tình hình hoạt động của ngân hàng trải qua giai đoạn
khó khăn.
Thứ năm: Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Quy mô, trình độ cán bộ, công nhân viên, phương tiện kỹ thuật hiện đại của
ngân hàng là tiền đề thu hút vốn. Khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối
với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần
kinh tế cả về quy mô tín dụng, lẫn việc chủ động về thời hạn cho vay và thậm

chí trong khi quyết định lãi suất phù hợp với khách hàng. Điều này sẽ thu hút
ngày càng nhiều khách hàng đến với mình, nghĩa là doanh số hoạt động của
ngân hàng sẽ tăng lên trong tương lai và ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn
trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn của ngân hàng lớn sẽ giúp cho ngân hàng có
đủ năng lực tài chính kinh doanh đa năng trên thị trường không chỉ cho vay
mà còn đầu tư trên thị trường tiền tệ, liên doanh, liên kết, thực hiện dịch vụ
thuê mua... Và chính sự đa dạng hoá hoạt động sẽ góp phần phân tán rủi ro
trong hoạt động kinh doanh và tạo lợi nhuận cho ngân hàng, đặc biệt là tăng
sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Để ngân hàng tồn tại và phát triển, ngoài vốn chủ sở hữu (Thường chiếm tỷ
trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn) các ngân hàng phải chú trọng tới việc
tăng trưởng nguồn vốn nghĩa là phải làm tốt công tác huy động vốn.

III. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống
quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Đặc biệt là các ngân hàng có
quy mô lớn. Trong vòng ba thập niên từ sau cuộc đại suy thoái 1930, hầu hết
các Ngân hàng thương mại trên thế giới đều quan tâm nhiều nhất tới việc
quản lý tài sản có, hay nói khác đi là kế hoạch và phương hướng đầu tư các
nguồn đã có. Tuy nhiên, từ thập niên 60 đến nay, khi chế độ lãi suất trả cho
tiền gửi được thả nổi linh hoạt, tài sản nợ trở nên đa dạng và sự cạnh tranh
khốc liệt giữa các Ngân hàng thương mại với nhau trong việc tìm kiếm vốn
hoạt động đã dần dần hướng các ngân hàng chú ý đến sự giao động của tài sản


nợ. Vả lại từ thập niên 60 trở đi thì với sự phát triển nhanh của các thị trường
tài chính liên quốc gia, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi tức ổn định và thanh
khoản cao được mở ra trước mắt các ngân hàng ở các nước phát triển. Cho
nên, vấn đề khó khăn không còn là đầu tư vào đâu mà là làm thế nào có đủ

vốn cho đầu tư giữa môi trường cạnh tranh đầy kịch tính trong hệ thống ngân
hàng thế giới.
1. Các hình thức huy động tiền gửi của Ngân hàng Thương mại.
Đây là hình thức huy động vốn mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế, các nhân,...trong xã hội thông qua hoạt động nhận tiền gửi tiết kiệm,
thanh toán hộ, các khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Các hình thức nhận tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại tuỳ thuộc vào
các tiêu thức khác nhau mà được chia thành từng loại khác nhau:
1.1. Phân loại theo tiêu thức kỳ hạn.
Ngày nay, người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này
để có thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi, và là cơ sở để ngân hàng xây
dựng chiến lược dự trữ phù hợp.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định,
người gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào do đó lãi suất thường thấp. Tiền gửi
không kỳ hạn là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và ngân
hàng khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi không kỳ hạn (giao dịch) có thể
huy động. Hình thức này chủ yếu là mở cho các doanh nghiệp. Bởi vì, các
doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng mục đích chính không phải để nhận lãi
mà là để hưởng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp; đó là các dịch vụ thanh
toán, ngân quỹ, thu chi hộ,...
Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có thể đáp ứng nhu cầu của
những khách hàng chưa có dự định rõ ràng trong tương lai, hoặc không thực
sự an tâm về việc gửi tiền mà chỉ mong muốn nhận được một số tiền lãi nào
đó với lượng tiền hiện còn nhành rỗi.
Do tính chất không ổn định của nó nên ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ
lệ phần trăm nhất định nào đó của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được, và
ngân hàng muốn sử dụng thì phải dự tính về sự ổn định tương đối của lượng
tiền này. Do vậy, quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan trọng của
quản lý dự trữ trong các ngân hàng.



- Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa người gửi
tiền và ngân hàng về số lượng, kỳ hạn, lãi suất của khoản tiền gửi. Do có sự
xác định rõ ràng về kỳ hạn, nên nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền có sự
ổn định cao, ngân hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn tương ứng
hoặc có thể chuyển đổi một phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn.
Chính vì lý do này mà lãi suất của các khoản tiền gửi kỳ hạn thường cao hơn
nhiều lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Bởi vì mục đích chính của việc gửi tiền
vào ngân hàng là tiền lãi. Thông thường thì lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, tức
là khoản tiền gửi càng lâu thì lãi suất càng cao và ngược lại.
1.2. Phân loại theo tiêu thức nguồn hình thành.
- Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà họ trực
tiếp chuyển vào ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tiết kiệm, doanh nghiệp nộp tiền
bán hàng,... Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được
ngân hàng tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức thường gửi tiền với mục đích
và kỳ hạn khác nhau. Cá nhân gửi tiền thường với mục đích là để hưởng lãi,
các doanh nghiệp thường là để sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
- Tín dụng tạo tiền gửi: Đây cũng là một hình thức nhận tiền gửi, khi ngân
hàng cho khách hàng vay tiền thì ngân hàng chuyển số tiền này vào tài khoản
tiền gửi của khách hàng ngay trong ngân hàng. Khi khách hàng chưa có nhu
cầu rút tiền ngay lập tức thì ngân hàng có thể sử dụng số tiền đó mặc dù với
thời hạn rất ngắn.
1.3. Phân loại theo tiêu thức mục đích sử dụng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Phần lớn là các khoản ký gửi của các cá nhân với mục
đích là tìm kiếm một khoản thu nhập. Thường thì mỗi khoản tiền gửi tiết kiệm
có khối lượng nhỏ, thời hạn ngắn. Những người gửi tiền tiết kiệm là những
đối tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với hy vọng là sẽ tăng được chi tiêu
trong tương lai.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình này khá phổ biến ở các nước
phát triển, thường được sử dụng với những hộ có thu nhập thấp và trung bình.

Người gửi để dành một khoản tiền gửi vào ngân hàng (thường là các khoản
tiết kiệm đều đặn hàng năm) với ý định tích luỹ tiền cho một mục đích nhất
định. Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính
ổn định, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc hỗ trợ cho người dân mua
sắm nhà cửa, phương tiện.


- Tiền gửi thanh toán: Là khoản ký gửi của các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Họ gửi tiền mục đích không phải là để hưởng thu
nhập mà là hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Thông thường các khoản tiền
gửi thanh toán có khối lượng lớn. Do đó, khi các khoản tiền này tạm thời chưa
sử dụng thì ngân hàng có thể sử dụng vào kinh doanh.
1.4. Phân loại theo tiêu thức loại tiền gửi.
- Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi quan trọng của các ngân hàng, nó
phụ thuộc vào thu nhập trong nước và chiếm tỷ trong rất lớn trong tổng lượng
tiền gửi.
- Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh tiền gửi nội tệ thì ngân hàng còn nhận tiền
gửi dưới dạng ngoại tệ như USD, GBP,DEM,... những khoản ngoại tệ này
cũng rất quan trọng cho hoạt động ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong
nước, tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tê,...
2. Chứng thư tiền gửi loại lớn.
Chứng thư tiền gửi loại lớn là một loại hình phiếu nợ do ngân hàng phát ra
để vay tiền của thị trường. Có hai cách phát hành loại chứng thư này:
Một là khi có các đối tượng đến vay tiền để sản xuất hoặc tiêu dùng theo
hợp đồng với ngân hàng, ngân hàng phát lại chứng thư này cho họ. Hoặc ngân
hàng có thể công bố phát hành chứng thư này cho các đối tượng muốn đầu tư
hoặc muốn gửi tiền vào ngân hàng. Thay vì một cuốn sổ tiền gửi có kỳ hạn,
họ có thể nhận loại chứng thư này. Nhưng chứng thư loại này không có những
đơn vị quá nhỏ bằng tiền mặt.
- Khi ngân hàng thương mại phát ra chứng thư này, nó hướng tới việc vay

tiền của thị trường, của nhân dân và chứng thư là giấy xác nhận khoản vay
này. Đồng thời trên chứng thư có ghi rõ thời hạn sẽ trả lại tiền mặt (6 tháng, 1
năm,...) và lãi suất người cho vay được hưởng. Đến ngày đáo hạn cuối cùng,
người sở hữu chứng thư đem nộp nó cho ngân hàng đã phát hành để nhận lại
cả vốn theo giá trị bề mặt và tiền lời.
- Loại chứng thư này ở các nước công nghiệp thường có thời gian đáo hạn
không qúa 6 tháng kể từ ngày phát hành. Với thời gian ngắn và tính chất được
sử dụng, chấp nhận không khác gì Séc hay tiền mặt, trong khi nó có lãi suất
mà Séc và tiền mặt không có lãi suất, chứng thư này trở thành loại đầu tư
ngắn hạn hấp dẫn nhất đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình.


Tuy nhiên, khả năng vay vốn từ thị trường thông qua việc phát hành chứng
thư tiền gửi hay tín phiếu tuỳ thuộc vào 4 yếu tố: Mức độ chấp nhận của nhân
dân đối với nó như một phương tiện thanh toán trong lưu thông- Sự khuyến
khích hay không của Ngân hàng Trung ương- Hiệu quả của việc sử dụng đồng
vốn đã vay được- Sự phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ.
3. Vay ngắn hạn tại Ngân hàng Trung Ương.
Trong quá trình hoạt động của mình, do có những ngày cho vay quá nhiều,
sự thiếu hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung ương là điều thường xảy ra đối với
các ngân hàng thương mại. Trong khi có một số ngân hàng thương mại thiếu
dự trữ, thì nó cũng có một vài bộ phận khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ
theo quy định của Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng thương mại điện
thoại hoặc liên lạc bằng Computer vay lẫn nhau dự trữ trong một ngày là
chuyện bình thường. Thủ tục vay được tiến hành qua Fax hoặc điện tín.
Việc vay qua vay lại như thế diễn ra hàng ngày trong hệ thống ngân hàng
thương mại. Nó hình thành nên một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy
nhiên, khoản nợ này thường rất ngắn không quá một tuần, và thường là chỉ
một hay hai ngày vì mọi ngân hàng đều tự ý thức không thể lạm dụng kéo dài
thời gian gây khó khăn cho ngân hàng có thiện chí giúp mình.

4. Vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại.
Hợp đồng mua lại là hình thức vay ngắn hạn trên thị trường của ngân hàng
thương mại. Trong hoạt động mỗi ngày, việc thiếu tiền mặt bất ngờ cho những
thượng vụ đầu tư đã được ký kết hoặc hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung ương
là chuyện không có gì lạ đối với các ngân hàng thương mại. Ngoài những
biện pháp nêu trên, trong những trường hợp cấp thiết, ngân hàng thương mại
có thể vay của thị trường trong vài ngày đến vài tuần bằng cách phát hành hợp
đồng mua lại.
Đây là một hợp đồng bán chứng khoán giữa ngân hàng và đối tượng kinh
doanh chứng khoán tương đối thừa tiền mặt trong thị trường như các công ty
tài chính, tổ chức tín dụng, các quỹ tiết kiệm, hưu trí, các công ty kinh doanh
và môi giới chứng khoán.
Chứng khoán mà ngân hàng đem bán là chứng khoán mà ngân hàng đang
đầu tư. Không phải là phiếu nợ do nó phát hành như các trường hợp vừa rồi.
Những loại chứng khoán mà ngân hàng thường đầu tư nhất và có thể đem bán


theo loại hợp đồng này là trái phiếu Kho bạc- hối phiếu Kho bạc- cổ phiếu
Kho bạc và một số loại trái phiếu, cổ phiếu khác của thị trường.
Hợp đồng mua lại có những đặc điểm sau:
- Hợp đồng thuyết minh rõ ràng, ngân hàng chỉ bán ra trong một ngày, hai
ngày hay một tuần, hai tuần. Sau đó, ngân hàng được phép mua lại chính các
loại chứng khoán mà nó đã bán ra với giá đúng bằng giá gốc cộng thêm chi
phí giao dịch. Đó là lý do người ta gọi đây là thoả thuận hoặc hợp đồng mua
lại. Người đã mua chứng khoán của ngân hàng, chỉ được bán lại cho chính
ngân hàng này vào một thời gian ngắn sau đó. Không được phép bán cho ai
khác.
- Do đó, đây là một hình thức giải quyết vấn đề kẹt tiền mặt cấp thời cho
ngân hàng thương mại. Thời gian bán tối đa không quá 2 tuần( ở các nước
công nghiệp hiện nay).

- Khi ngân hàng bán chứng khoán ra theo loại hợp đồng này nó thu tiền mặt
về lượng tiền mặt này xuất hiện như một khoản vay ngắn hạn từ thị trường vì
lượng chứng khoán xuất ra vẫn được xem như một bộ phận tài sản có mà
ngân hàng sẽ thu hồi. Khoản vay ngắn hạn này là một bộ phận của tài sản nợ.
- Tổ chức mua chứng khoán là người cho vay. Ngân hàng phát ra chứng
khoán là chủ thể đi vay. Ngân hàng không bao giờ áp dụng hình thức bán này
cho nhân dân. Bởi lẽ bán ra cho nhân dân dưới hình thức như phát hành lẻ và
sau này mua lại sẽ tốn rất nhiều thời gian và hiệu quả rất chậm không giải
quyết những nhu cầu tiền mặt gấp trong ngắn hạn. Hầu như phương thức này
chỉ áp dụng cho các đại lý lớn mà thôi.
- Chi phí giao dịch mà ngân hàng sẽ trả cho đại lý chính là tiền lãi từ
thương vụ cho vay này đứng về phía người mua là các đại lý. Thông thường
giá bán và giá mua lại(gồm cả lãi) đã được thống nhất sắn trong hợp đồng với
những khoảng thời gian đã định trược. Ở các nước có thị trường tài chính phát
triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Anh, ý,... Các ngân hàng thương mại
vay nợ dưới hình thức này gần như mỗi tuần trong tài sản nợ của họ luôn luôn
có khoản mục vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại, nằm trong khoản
vay ngắn hạn từ thị trường.
5. Vay ngắn hạn bằng giấy nợ phụ.
Đây là khoản mục cuối cùng trong các khoản vay từ thị trường và cũng là
loại tài sản ít thông dụng nhất. Ngân hàng có thể vay nóng, với lãi suất khá


cao và thời gian từ ngắn đến rất ngắn, mỗi khi quá kẹt tiền mặt bằng những
thoả thuận với các thân chủ giàu có vẫn quan hệ thường xuyên với ngân hàng
như các công ty, các tập đoàn kinh doanh, các đại lý tài chính khác,...Hình
thức vay này được thực hiện thông qua một hợp đồng trong đó thuyết minh rõ
người cho vay chấp nhận rõ khoản tiền mà họ cho vay sẽ là loại tài sản nợ
được đền bù sau chót trong trường hợp ngân hàng vỡ nợ. Vì sao có thoả thuận
này! vì họ đã được lãi suất cao hơn bất kỳ một khoản vay nào khác.

Chứng thư mà ngân hàng giao cho họ khi vay là một loại giấy nợ của ngân
hàng (Bank debentures). Ở Hoa Kỳ, nó có một tên gọi rộng là giấy nợ phụ
(subordinated debentures). Những khoản vay này khá phổ biến ở Mỹ, và một
thời kỳ ở Nhật và Hàn Quốc.
6. Vay của Ngân hàng Trung Ương.
Các ngân hàng thương mại hầu như đều được sự cho phép thành lập của
Ngân hàng Trung ương, cho nên nó đều được quyền vay tiền tại Ngân hàng
Trung ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ.
Trường hợp không may diễn ra khi ngân hàng thương mại đến vay giữa lúc
Ngân hàng Trung ương không muốn khuyến khích sự bàng trướng tín dụng,
hoặc thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng tiền để chống lạm phát. Lúc đó lãi
suất chiết khấu được đưa lên cao với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn
của Ngân hàng Trung ương. Do đó, các ngân hàng thương mại chỉ miễn
cưỡng vay trong những tình huống thật ngặt nghèo và tìm mọi cách trả nợ rất
nhanh.
Dù vay ít hay nhiều, vay thường xuyên hay chỉ thỉnh thoảng một năm đôi ba
lần, dịch vụ vay từ cửa ngõ chiết khấu của Ngân hàng Trung ương vẫn là một
khoản mục cố định trong tài sản nợ vì không có ngân hàng thương mại nào
mà chưa hề vay của Ngân hàng Trung ương bao giờ từ khi thành lập.
7. Các khoản vay từ công ty mẹ.
Một hình thức vay vốn khác ngoài các hình thức trên là vốn vay từ công ty
mẹ (parent company). Tại các nước đã phát triển, một công ty hoặc một tập
đoàn kinh doanh có thể là chủ của một đến rất nhiều ngân hàng thương mại.
Thay vì ngân hàng phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ để vay tiền của thị
trường bằng các hình thức kể trên, có thể chịu nhiều sự quản lý và ràng buộc
của Ngân hàng Trung ương về dự trữ, lãi suất và kể cả thủ tục, các công ty mẹ
của ngân hàng có thể thay thế nó làm chuyện đó dưới hình thức phát hành trái



×