Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.96 KB, 21 trang )

A- PHẦN MỞ ĐẦU
Thế giới đã từng biết đến với một tư tưởng lý luận Mac-Lênin khoa
học, biện chứng, phù hợp với đầy tính thuyết phục. Bằng việc tìm ra, nghiên
cứu, học hỏi và phát triển nó cho phù hợp với lịch sử của đất nước ta, Hồ Chí
Minh cùng với tư tưởng của người thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam – một chính đảng chân chính của giai cấp công nhân đã đưa Cách
mạng nước ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Gần tám thập niên qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cả thời chiến
lẫn thời bình, đất nước ta không chỉ đánh tan bè lũ cướp nước mà còn xây
dựng nên một nước CHXHCN Việt Nam giàu mạnh về kinh tế, công bằng dân
chủ về xã hội, tiên tiến mang đậm chất truyền thống văn hóa Việt. Vươn lên
sánh ngang tầm với các cường quốc lớn trên thế giới.
Hơn 45 năm, nước ta chìm trong chiến tranh, kèm theo đó là sự đau
khổ và đổ máu. Lòng căm thù sẵn có của nhân dân, lòng yêu nước nồng nàn
của truyền thống dân tộc luôn sẵn sàng đứng lên đấu tranh bất cứ lúc nào song
không có một đường lối đúng đắn và một người lãnh đạo sáng suốt.
Trong bối cảnh ấy, ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Một
Đảng Cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của giai
cấp công nhân và dân tộc Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc
Cách mạng tháng 8/1945 thành công, xóa bỏ hoàn toàn chế độ thực dân
phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước
CHXHCN Việt Nam). Đảng đã chèo lái con thuyền Cách mạng vượt qua tình
trạng “ngàn cân treo sợi tóc” vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa đấu tranh
giải phóng dân tộc ở miền Nam. Để rồi đưa toàn bộ dân tộc Việt Nam đến với
đại thắng mùa xuân năm 1975, thống nhất toàn bộ đất nước, non sông thu về
một mối.
Chấm dứt chiến tranh, một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự do lại
được mở ra cho đất nước ta. Bước vào thời bình, vai trò lãnh đạo của Đảng
vẫn không hề giảm sút mà ngày càng được nâng cao. Được sự tin tưởng của
nhân dân, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đưa đất nước thoát khỏi khó khăn,
xây dựng về mọi mặt cho đời sống xã hội phát triển.




Xuyên suốt chiều dài lịch sử hơn 70 năm, nhân dân ta vẫn trước sau
như một, thừa nhận sự lãnh đạo duy nhất của Đảng. Vẫn biết, Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng nhưng “sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của
Đảng là nhân tố quyết định cho Cách mạng Việt Nam”. Và vai trò lãnh đạo
của Đảng sẽ được giữ vững cho đến về sau.
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên mọi mặt chính trị,
kinh tế, văn hóa của đời sống đã chứng tỏ vai trò vô cùng quan trọng của
Đảng. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của
người Cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại” (1)
Xuất phát từ thực tế đã, đang và sẽ xảy ra của nước ta, ta cần phải tìm
hiểu nghiên cứu và nắm vững được tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, sứ
mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhằm hiểu rõ hơn về nhiệm vụ
lãnh đạo của Đảng tăng cường hơn nữa vai trò này và góp phần nào vào nâng
cao sức chiến đấu, khả năng lãnh đạo, xây dựng một Đảng trong sạch, vững
mạnh hơn để xứng với niềm tin của nhân dân. Để đưa đất nước ta sánh vai với
các cường quốc lớn trong khu vực như lời Người đã dạy.
Tự thấy đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng nên tôi đã chọn đề
tài này để nghiên cứu. Bằng các phương pháp logic học, lịch sử và phương
pháp phân tích nghiên cứu tài liệu. Nhằm mục đích tiếp cận nghiên cứu khoa
học, rèn luyện khả năng vận dụng những kiến thức tôi đã đi sâu giải quyết vấn
đề này. Gồm những khía cạnh sau:
I.
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam.
II.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
III. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc chỉnh

đốn và đổi mới Đảng.

Chú thích: (1): Hồ Chí Minh toàn tập, NXB chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000, t.10, tr2


B- PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Cơ sở lý luận.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát điểm từ
chủ nghĩa Mac-Lênin. với tài năng xuất chúng, sự sáng tạo, Người đã kế thừa
và phát huy hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin phù hợp với điều kiện thực
tiễn của đất nước ta thời bấy giờ.
Cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mac-Lênin đã trở thành vũ
khí tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản trên
toàn thế giới. Học thuyết Mac đã chỉ ra quy luật của cuộc đấu tranh giai cấp,
khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, việc giải phóng giai cấp
công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân. Giai cấp công
nhân chỉ có thể trờ thành một giai cấp “cho mình” thực hiện vai trò lãnh đạo
cuộc Cách mạng vô sản khi tổ chức được một chính đảng Cách mạng của
riêng mình và cũng chỉ khi đó phong trào công nhân mới hoàn toàn trở thành
một phong trào tự giác.
Sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân dẫn
đến sự ra đời của Đảng của giai cấp công nhân. Đây là quy luật có tính phổ
biến ở các nước đã kinh qua Cách mạng tư sản. Ví dụ: Đảng công nhân xã hội
Dân chủ Nga -1903, Đảng Cộng sản Mỹ -1919, Đảng Cộng sản Pháp –
1920…. đều theo quy luật phổ biến ấy.
Lê Nin cho rằng: “Trong tất cả các nước chỉ có sứ kết hợp Chủ nghĩa
xã hội với phong trào công nhân mới xây dựng được một cơ sở vững chắc cho
cả hai. Nhưng soi rọi vào mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là sản phẩm của lịch sử,
lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt khác nhau, tùy theo điều

kiện không gian, thời gian khác nhau”.
Cái thứ hai là năm 1917, LêNin và Đảng Cộng sản Bônsêvich Nga đã
lãnh đạo cuộc Cách mạng tháng 10 Nga thành công. Nó đã chứng tỏ được giá
trị hiện thực và sức sông của chủ nghĩa Mac-Lênin, chứng tỏ khả năng và vai


trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chính thức mở ra một chế độ xã hội mới: Xã
hội chủ nghĩa đã bắt đầu. Cách mạng tháng 10 đã thức tỉnh các dân tộc nô lệ
vùng lên đấu tranh để tự giải phóng mình.
Năm 1919, Lê Nin thành lập Quốc tế II, với khẩu hiệu “Vô sản tất cả
các nước và dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Năm 1920, Quốc tế Đại hội đã thông qua bản đề cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lê Nin.
Hai yếu tố lớn và có sức cuốn hút mạnh mẽ nhất để Nguyễn Ái Quốc
trên bước đường đi tìm chân lí của người là Cách mạng tháng 10 và Quốc tế
III. Ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, Hồ Chí Minh cũng đã đến được với
chủ nghĩa Mác-Lênin vào tháng 12-1920. Người bắt gặp luận cương của Lê
Niin và đây là “phút khóc đầu tiên là phúc Bác Hồ cười”(1).
Từ đây hiểu, nghiên cứu và năm 1920, Người tán thành Quốc tế III và
là người dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây
là môc đánh dầu bước thay đổi căn bản về tư tưởng của Người. Từ đây, người
chiến sĩ yêu nước đã trở thành người Cách mạng và cũng từ đây, hành trình
tìm đường cứu nước của người đã có điểm dừng. Người khẳng định rằng:
“muốn giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường
Cách mạng vô sản”. Và muốn làm được điều đó phải có một Đảng chân chính
của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng đó phải lãnh đạo nhân dân đi trên con
đường đúng đắn, phù hợp với thời đại và giải phóng được dân tộc.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận trên, nhờ sự tiếp thu có chọn lọc và
phát huy sáng tạo tư tưởng Mác-Ănghen-Lênin. Cùng với khả năng lãnh đạo
tài tình của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, Người đã vận dụng vào điều

kiện cụ thể của nước nhà. Cho thấy một điều ở một nước bé nhỏ vẫn có thể
đánh thắng được những cường quốc lớn trên thế giới.
Từ những lý luận Mác-Ănghen-Lênin là yếu tố then chốt và quyết định
cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản.

(1)

Tác phẩm “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên


2. Cơ sở thực tiễn.
Nói đến vấn đề thực tiễn ở đây là ta phải nhắc đến vấn đề thực tiễn thời
đại và thực tiễn Cách mạng Việt Nam với nòng cốt các hoạt động Cách mạng
của Hồ Chí Minh.
Lúc này, trên thế giới, chủ nghĩa đế quốc đang khá hùng mạnh và tăng
cường đi xâm chiếm và bóc lột các nước thuộc địa. Điều đó làm cho mâu
thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc càng trở nên sâu sắc hơn và tất yếu cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh chống lại đế quốc diễn ra khắp nơi.
Vì thế, vai trò của Đảng Cộng sản là vô cùng quan trọng. Điều này yêu cầu
phải vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin về Đảng Cộng sản vào các nước
thuộc địa.
Không nằm ngoài quy luật đó, Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX là một nước thuộc địa nửa phong kiến trước sự xâm lược và đô hộ của
thực dân Pháp. Chính vì thế mà mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp là
mâu thuẫn cơ bản và bao trùm xã hội. Có áp bức tất yếu có đấu tranh. Hàng
loạt các cuộc đấu tranh, các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam dấy
lên mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào của giai cấp công nhân. Điều đó đòi hỏi
phải có tổ chức lãnh đạo thống nhất với đướng lối chính trị đúng đắn. Đó là
Đảng cộng sản.
Sinh ra và lớn lên trong điều kiện đất nước đang chiến tranh, phong

trào các mạng tuy nổi lên song đều thất bại, sự khủng hoảng đường lối lãnh
đạo. Bằng lòng khâm phục tinh thần yêu nước của các vị tiền bối và tình trạng
bế tắc của Cách mạng, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường
cứu nước.
Những hoạt động của Người ở nước ngoài:
- Năm 1918, Người giác ngộ Cách mạng và gia nhập Đảng Cộng
sản Pháp.
- Tháng 12/1920, bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và trở thành thành
viên của Đảng Cộng sản Pháp,khi đã giác ngộ và thấu hiểu lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin. Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, sáng tạo, bổ sung, Người đã
tìm ra con đường giải phóng dân tộc là con đường Cách mạng vô sản.
Sau khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh tích cực hoạt động
truyền bá lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và các nước thuộc địa
đặc biệt là lí luận về một Đảng cộng sản. Đặc biệt hơn nữa là người còn hoạt
động về mặt tư tưởng, tổ chức, chuẩn bị cho sự thành lập Đảng.


Quá trình hoạt động của Người là một chuỗi dài, là cả cuộc đời Người
hi sinh cho dân tộc, cho nhân dân. Đặc biệt là Người đã xây dựng được cơ sở
về tư tưởng, về tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa
nửa phong kiến với kinh tế lạc hậu, giai cấp công nhân còn non trẻ, số lượng
chưa nhiều.
Đây là những cơ sở thực tiễn trực tiếp tác động tới sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản. Đó là cả quá trình thu thập, hoạt động
của người.
3. Tiểu luận
Cùng với dự tiếp thu và vận dụng một cách có sáng tạo của Hồ Chí
Minh từ những lí luận của Mác- Ăngghen – Lênin. Bằng những hoạt động
thực tế của mình, Người đã đưa nó vào Việt Nam một cách kịp thời, phù hợp
và đúng đắn. Đặc biệt là tư tưởng về Đảng cộng sản.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
1. Thế nào là tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh
về Cách mạng Việt Nam, dựa trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ
nghía Mac-Lênin, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của nước ta, đáp ứng yêu
cầu của thời đại và thế giới. trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Mác-Lênin về Đảng
cộng sản: Đó là hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là những phương pháp cơ bản chủ yếu để xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ứng với từng thời kỳ lịch sử.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt nam có nhiều luận
điểm phát triển hơn so cới tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin làm phong phú
thêm lí luận Mác-Lênin. Đó là đây không phải đảng chỉ của một giai cấp mà
Đảng của toàn dân tộc. Đảng có thể thành lập ở các nước thuộc địa lạc hậu, bị
đế quốc xâm chiếm và bóc lột, với trình độ kinh tế còn ở mức tiền tư bản chủ
nghĩa, tàn dư phong kiến còn duy trì. Những thời kỳ, những nơi mà khi sinh
thời Mác-Ănghen chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu. Như một số quan


điểm về “Đảng của giai cấp”, “Đảng của dân tộc”, “ Đảng do nhân dân tham
gia tổ chức, kiểm tra, giám sát”….
Mác-Lênin cho rằng “Đảng là sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội khoa
học và phong trào công nhân”. Vận dụng điều đó vào thực tiễn Việt Nam,
Người cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước”. Quan điểm của
Người đã thể hiện dự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng

sản vào thực tiễn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển của Cách mạng, thể
hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc. Vì thế,
ở Việt Nam, Đảng không phải chỉ riêng giai cấp công nhần mà của cả nông
dân, tri thức, tiểu tư sản, cả dân tộc. Đảng không chỉ đại biểu cho giai cấp
công nhân mà cho cả nhân dân lao động.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mùa xuân năm 1930, Hồ Chí Minh sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt
Nam là đóng góp to lớn có tính chất bước ngoặt tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc. Sau bao nhiêu năm bôn ba, học hỏi và hoạt động không
ngừng trong phong trào công nhân thế giới, Người đã đến với chủ nghĩa MácLênin (năm 1920) và khẳng định rằng: “Muốn giải phóng dân tọc không còn
con đường nào khác ngoài con đường Cách mạng vô sản”, “Chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(1).
Sự thành công của Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 đã mở ra một
thời đại mới trong lịch sử phát triển của loài người: Độc lập tự do tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cũng từ đây, Hồ Chí Minh cho rằng: Sau Cách mạng tháng 10,
Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phần khăng khít của Cách mạng vô
sản trên toàn thế giới. Người xác định cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc
thắng lợi, phải tiến hành Cách mạng xã hội chủ nghĩa mới thực sự giải phóng
được con người. Vì thế ở Việt Nam, Cách mạng giải phóng dân tộc là bước
thứ nhất. Sau đó, bước tiếp theo làm Cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến lên
xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Để thực hiện thắng lợi yêu cầu của lịch sử và đất nước đó phải có một
Đảng chân chính lãnh đạo – Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng tiên phóng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

(1)

Hồ Chí Minh: Sđd, tập 9-10, trang 128 và 314.



Đáp ứng yêu cầu của lịch sử, ngày 3/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời đã chấm dứt thời kỳ “đen tối như không có đường ra”, chấm dứt thời
kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối của Cách mạng nước ta. “Việc thành lập
Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử Cách mạng Việt
Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thánh và đủ sức
lãnh đạo sách mạng”(1).
Với một cương lĩnh chính trị khoa học và sáng tạo, nhuần nhuyễn về
quan điểm dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tọc và nhân văn, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã giữ vị trí trung tâm, là hạt nhân đoàn kết sức mạnh của
dân tộc, là người dẫn lối, mở đường cho Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
“Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản, là người lãnh đạo duy
nhất của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng
đầu để đưa Cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi”.
Điều này có được vì Đảng được vũ trang bằng lí luận Cách mạng, có
trình độ giác ngộ cao, trong hoạt động thực tiễn Đảng là bộ phận kiên quyết
nhất, biết lôi cuốn quần chúng cùng hành động.
Các Mác và Ănghen cho rằng: Điều trội hơn bộ phận còn lại của giai
cấp vô sản là ở chỗ, Đảng vô sản có một nhận thức sáng suốt về điều kiện,
bước tiến và kết quả chung của phong trào vô sản, ở chỗ nó có một thế giới
quan mới làm cơ sở lý luận. Thế giới quan mới ấy cho phép giai cấp vô sản
nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, biết tổ chức đoàn kết đội ngũ
mình, trang bị cho mình một cương lĩnh hành động thực tế.
Chính vì thế mà Đảng phải nắm vững bản chất Cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa cộng sản khoa học, Đảng phải đưa yếu tố tự giác vào phong
trào Cách mạng. Đảng phải nắm vững đặc điểm và điều kiện của cuộc đấu
tranh, trên cơ sở đó đề ra cương lĩnh hành động đúng đắn, đồng thời phải giáo
dục và tổ chức quần chúng hành động Cách mạng.
Vị trí của Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân đã là

yếu tố tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy
vọt trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam. Được mở đầu bằng thắng
lợi của cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, lập ra nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong Cách mạng mà
còn là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội, không phải là do ý muốn chủ quan, do
(1)

Hồ Chí Minh: Sđd, tập 10, trang 8.


sự áp đặt của những người cộng sản mà như Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa
nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới dành
được địa vị lãnh đạo”(1). Đó là sự lựa chọn khách quan, là sự sáng lọc nghiêm
khắc trên đường đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta. Vì thế mà Đảng không
ngừng trở thành “một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực
nhất”.
Thấy rõ được vai trò lãnh đạo quan trọng của mình, Đảng luận đấu
tranh hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Bằng chứng là cuộc thắng lợi của
cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945. Không dừng lại ở đó dưới ngọn cờ Cách
mạng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta hơn 30 năm đấu tranh không ngừng
nghỉ, đánh tan sự xâm lược của Pháp, Mĩ, Nhât, dành độc lập dân tộc, thống
nhất nước nhà, đưa đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trên con đường đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa đầy chông gai của đất
nước ta, Đảng luôn phát huy và nêu cao vai trò không chỉ là đội tiên phong
mà còn là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội. Đảng không chỉ đại diện cho lợi ích
giai cấp công nhân mà đại diện cho lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc. Bởi:
“Quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân và của cả dân tộc là một.
Chính vì Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân

dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(2)
Tuy nhiên khi đề cập đến vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nó là vị trí
tiên phong chính trị chứ không phải là một tổ chức quyền lực đứng trên mọi
tổ chức xã hôi để làm quan phát tài”.
Những gì mà chúng ta đạt được trong hơn 70 năm qua đã chứng tỏ một
điều rằng, Cách mạng Việt Nam dưới bàn tay chèo lái của Đảng Cộng sản đã
thu được nhiều thắng lợi trên nhiều mặt trận. Chứng tỏ rằng Đảng luôn làm
tốt vai trò lãnh đạo của mình trong suốt thời gian qua.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Cần có sự lãnh đạo của một Đảng Cách
mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân.
Chí vì có sự lãnh đạo của một Đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của đất nước mình thì mới có thể đưa
Cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi, và Cách mạng xã hội chủ nghĩa
đến thành công”(1)
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 3 trang 138.
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 6 trang 175.
(1)
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 12 trang 303.
(1)

(2)


Trải qua bao nhiêu năm đấu tranh và không ít thời gian hòa bình để xây
dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn giữ vai trò then chốt trong bộ máy
lãnh đạo đất nước. Không chi đi đầu trong chính sách, đường lối lãnh đạo mà
còn là lực lượng duy nhất tham gia lãnh đạo toàn diện mọi mặt của xã hội.
Điều này đã được Đảng ta hiện thực hóa trong suốt thời gian lãnh đạo không
ngừng cho đất nước ta ngày hôm nay. Và khẳng định rằng với vị trí không chỉ

với xã hội mà cả trong lòng nhân dân, Đảng sẽ luôn phát huy hơn nữa vai trò
của mình, để xứng đáng với niềm tin mà nhân dân dành cho.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, và tiếp thu tư tưởng lý
luận chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã thấy rõ được vai
trò lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là gắn liền với vai trò của giai
cấp công nhân.
Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và truyền thống đoàn kết
của dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân. Vì nhân dân có sức mạnh vô tân, nhân dân vừa là người lật
thuyền là đánh đổ đế quốc phong kiến, vừa là người “chở thuyền” đưa Cách
mạng tới những thắng lợi vinh quang. Sức mạnh đoàn kết của nhân dân là vô
cùng mạnh mẽ, nó đánh tan bè lũ bán nước và cướp nước”.
Nhưng để tạo ra sức mạnh đó, nhân dân phải được tổ chức theo một
đường lối đúng đắn, phải có một người lái đò vững vàng thì mới giúp con
thuyền Cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh để cập bến an toàn. Trong tác
phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Cách mạng trước
hết phải có cái gì?”. Bằng tinh thần yêu nước và sự hiểu biết của mình, Người
khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”(2)
Trước khi Đảng xuất hiện, đất nước ta chìm trong sự đô hộ của thực
dân phong kiến, nhiều phong trào yêu nước nổ ra song không thu được kết
quả gì. Các phong trào ấy thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần căm thù
giặc sục sôi song lại mang tư tưởng phong kiến, tư sản, tiểu tư sản không còn
phù hợp với thời đại. Vì thế mà vẫn không có một đường lối đúng đắn, làm
cho Cách mạng Việt Nam như chìm trong đêm tối không có đường ra”.
(2)


Hồ Chí Minh: Sđd, tập 2 trang 267-268.


Từ trong đêm tối ấy, Đảng xuất hiện với đường lối lãnh đạo đúng đắn
đã lãnh đạo toàn dân đứng lên làm Cách mạng giải phóng dân tộc. “Màu cờ
đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái man đêm đen tối, soi
đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong
cuộc Cách mạng phản đế phản phong.”(1)
Như thế từ khi mới ra đời cho đến nay, Đảng giữ một vai trò hết sức to
lớn. Đó là đoàn kết, tập hợp, lôi kéo các tầng lớp nhân dân đứng lên làm Cách
mạng. Trong điều lệ vắn tắt, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt
Nam được lập ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu tieu
trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội chủ nghĩa.Thành công
của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng Cách mạng vô
tân của nhân dân để lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới lá cơ tất thắng của chủ
nghĩa Mác-Lênin”
Đảng không chỉ với vai trò lôi kéo, tập hợp, đoàn kết toàn bộ giai cấp
trong xã hội Việt Nam mà Đảng còn góp phần tích cực vào việc truyền bá lý
luận Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, mở ra con
đường đi đúng đắn giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Vai trò này Đảng phải
gắn liền với vai trò của Nguyễn Ái Quốc. Bằng trí tuệ và khả năng tài tình, Hồ
Chí Minh với các tổ chức của Đảng đã không ngừng truyền bá lý luận MácLênin vào phong trào công nhân. Có như vậy mới dẫn đường chỉ lối, mới
khơi dậy được trí tuệ, năng lực vô tận của dân tộc, kết hợp được sức mạng
dân tộc với sức mạnh thời đại.
Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ: “Đảng phải làm cho quần chúng giác
ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột, phải dạy cho quần chúng hiểu các quy
luật phát triển của xã hội để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh, chỉ rõ
con đường giải phóng cho quần chúng, cổ động quần chúng kiên quyết Cách
mạng, làm cho quần chúng tin chắc Cách mạng thắng lợi”(2).
Sự nghiệp Cách mạng như Hồ Chí Minh đã nói là cả một “cuộc đấu

tranh rất phức tạp” đầy khó khăn gian khổ khi kẻ thù thì mạnh mà dân tộc
mình thì nhỏ yếu. Có lòng yêu nước, ý chí giết giặc song rất cần một đường
lối đúng đắn. Nếu không có một người dẫn dắt thì rất dễ bị lạc phương hướng,
đi lầm đường lạc lối. Vì thế vai trò của Đảng ta là vô cùng to lớn. Đảng lãnh
đạo nhân dân đi theo con đường đấu tranh đúng đắn là Cách mạng vô sản.
Đảng lãnh đạo để nhận rõ được tình hình, đường lối, định ra phương hướng.
(1)

(2)

Hồ Chí Minh: Sđd, tập 10 trang 3.
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7 trang 228.


Đảng đề ra phương châm cụ thể từng hành động thời kỳ. Như Hồ Chí Minh
đã nói: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo
để nhận rõ tình hình, đường lối và định ra phương châm cho đúng” (1). “Muốn
thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết. Vì
vậy, phải có Đảng để tổ chức giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh
để đánh đổ địch, tranh lấy chính quyền”(2).
Cũng như các Đảng Cộng sản khác, Đảng ta không chỉ là đội tiên
phong Cách mạng của giai cấp công nhân mà Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lấy sự nghiệp giải phóng giai
cấp công nhân và nhân dân lao động làm mục tiêu cao nhất. Đảng có mối
quan hệ mật thiết với giai cấp nông dân. Đứng lên lãnh đạo tổ chức nhân dân
đấu tranh giành độc lập.
Hơn thế nữa, ta thấy Đảng là người đưa yếu tố tự giác nhất vào phong
trào công nhân và là người định hướng chính trị. Như lịch sử đã cho thấy
trước năm 1930, phong trào đấu tranh diễn ra lẻ tẻ, tự phát và vì những lẽ đó
luôn bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Nhưng Đảng ta ra đời đã giúp nhân

dân nhận rõ con đường, biết tổ chức để ra phương pháp cụ thể đúng đắn và đi
đến gặt hái nhiều thắng lợi.
Thể hiện vai trò tiên phòng của Đảng không chỉ thực hiện về mặt lý
luận mà còn thể hiện ở mặt tổ chức và hoạt động. Đặc biệt đầu tiên trong tổ
chức Đảng đã có tổ chức thống nhất chặt chẽ trong nội bộ Đảng. Như Hồ Chí
Minh nói: “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khí tiến đánh chỉ như một người”
thống nhất về ý chí và hành động, nghiêm minh về kỷ luật.
Đảm nhận vai trò là đội tiên phong, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến
hành đấu tranh. Với cương lĩnh chính trị đúng đắn của Đảng đã lãnh đạo nhân
dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Mở đầu bằng thắng lợi của cuộc
Cách mạng tháng 8 năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng trăm năm
ở nước ta, lập ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, và mở ra một kỷ nguyên
mới độc lập tự do cho dân tộc. Với chiến thắng này, dân tộc Việt Nam có thể
tự hào rằng: “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Cách mạng của các dân tộc
thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo Cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Trên đà thắng lợi Đảng ta lại lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu
tranh đánh thực dân Pháp và đế quốc Mĩ giải phóng hoàn toàn miền Nam,
(1)
(2)

Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7 trang 228.
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7 trang 229.


thống nhất dân tộc. Hoàn thành cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa.
“Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi lại vào lịch sử dân tộc như một
trong những tranh sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng

của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng và trí tuệ con người. Và đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và tinh thần thời đại sâu sắc” (trích “Báo cáo chính trị” tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng).
Với những gì mà Cách mạng nước ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của
Đảng thì ra càng phải khẳng định thêm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng và
giờ đây trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta vẫn giữ vững và
phát huy vai trò lãnh đạo đó của mình. Đây là vấn đề mà Hồ Chí Minh rất
quan tâm và nhấn mạnh: “Cần có sự lãnh đạo của một Đảng biết vận dụng
một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình
thì mới có thể đưa Cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và Cách mạng
xã hội chủ nghĩa đến thành công”(1).
“Đảng lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết
trong thành quả của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhần dân
Việt Nam, để đoàn kết và lãnh đạo dân tộc kháng chiến đến thắng hoàn toàn,
để thực hiện Dân chủ mới”(2).
Luôn kiên đinh vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi những người cộng
sản không được nhân nhượng với chủ nghĩa cơ hội “không khi nào nhượng
một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp…” (Sách lược
vắ tắt của Đảng tháng 2/1930). “Đấu tranh không nhân nhượng, chống tư
tưởng bè phái và tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin để nâng
cao trình độ văn hóa và chính trị cho các đảng viên”(3).
Bọn chủ nghĩa cơ hội đang làm mọi việc để phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng. Vì thế việc nâng cao vai
trò, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt hàng đầu cho Cách
mạng nước ta.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã khẳng định: “phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng vì nước ta không có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không thể có đọc lập dân tộc; không có
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 12 trang 303.

Hồ Chí Minh: Sđd, tập 6 trang 175.
(3)
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 3 trang 138.
(1)

(2)


quyền làm chủ thực sự của nhân dân; không có nhà nước của dân, do dân, vì
dân; không thể thực hiện được công bằng xã hội. Lúc bình thường vai trò lãnh
đạo của Đảng rất quan trọng, ở nhưng bước chuyển giai đoạn vai trò đó lại
càng quan trọng”.
Để giữ được vao trò lãnh đạo sáng suốt, vị trí tiên phong và vai trò to
lớn của mình là một quá trình phấn đấu gian khổ, đấu tranh không ngừng nghỉ
không chỉ nội bộ Đảng mà cả nhân dân Việt Nam. Ngay trong ội bộ Đảng
luôn phải tự chỉnh đốn, phê bình kỷ luật để ngày càng làm trong sạch Đảng
hơn. Không ngừng nâng cao sức chiến đấu và tính giai cấp của mình để trở
thành Đảng kiểu mẫu, toàn Đảng phải có tư tưởng nhất trí, hành động thống
nhất mới làm tròn được nhiệm vụ nhân dân giao phó. Mỗi đảng viên phải là
một chiến sĩ trên mặt trận ấy, phải tích cực gương mẫu, “luôn nâng cao đạo
đức Cách mạng và quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Và nhân dân ta cũng có một
vai trò hết sức to lớn là góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh hơn. Đây là một quá trình không phải ngày một ngày hai, cũng không
phải một sớm một chiều mà là một quá trình lâu dài, gian khổ mà yêu cầu mọi
người trong Đảng và ngoài Đảng phải “chung lưng đấu cật”, phải đoàn kết
thống nhất trong mọi hoạt động mới tạo ra được sức mạnh to lớn ấy, thể hiện
được sức mạnh đoàn kết của nhân dân, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Để
không chỉ giữ vững được vai trò lãnh đạo mà còn phát huy hơn nữa vai trò to
lớn của Đảng không chỉ trong thời chiến mà còn trong thời bình ngày nay.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt

Nam
Sứ mệnh lịch sử của Đảng ta luôn đi kèm với sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân bởi Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân và do công nhân
lãnh đạo.
Hồ Chí Minh – vẫn đề lớn nhất trong tư tưởng của Người vẫn là giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Nhưng để làm được điều đó Người lại đề
cào sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản, đóng một vai trò to lớn, then chốt
trong cuộc Cách mạng.
Công lao to lớn của Mác-Ăngghen là phát hiện ra vai trò, sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân là “người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, sáng lập
ra nền văn minh xã hội chủ nghĩa”. “trong khi biến ngày càng đông đảo nhân


dân thành người vô sản, phương thức sản xuất tư bản tạo ra một lực lượng mà
trước nguy cơ sống còn, lực lượng đó buộc phải thực hiện sự thay đổi ấy”(1).
Xác định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, từ đó đi đến
xác định sự cần thiết phải thành lập Đảng của giai cấp vô sản: “giai cấp vô
sản muốn đủ mạnh và có thể dành được thắng lợi trong thời cơ quyết định thì
nó phải thành lập một Đảng đặc biệt với tất cả các Đảng khác và đối lập với
những Đảng khác và tự coi mình là Đảng của giai cấp” (2). Mác-Ăngghen cũng
đã khẳng định: “Đảng là hạt nhân lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cuộc
đấu tranh lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và giành chính quyền, xây
dựng chủ nghĩ xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Lênin cũng nhấn mạnh: “Đảng
là đội tiên phong cầm quyền trực tiếp của giai cấp vô sản. Đảng là người lãnh
đạo”(3).
Tiếp thu và phát triển những điều đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Sứ mệnh
lịch sử của Đảng là lãnh đạo tất cả các tổ chức khác của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
rằng: “Đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, là đội tiên phong của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm

việc”, Người khẳng định sứ mệnh lịch sử của Đảng: “Đảng không phải là một
tổ chức làm quan phát tài. Nó phải làm trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(4).
Xét về mặt lợi ích, Đảng là người đại diện đải biệu cho lợi ích giai cấp
công nhân, cũng là đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động. “Đảng ta là
một Đảng chỉ vì lợi ích của nhân dân mà phấn đấu, ngoài ra không có một lợi
ích riêng nào khác”. “Nhiệm vụ của Đảng ta là một lòng một dạ phụng sự Tổ
quốc và nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có
lợi ích gì khác”. Chính vì vậy mà Đảng phải ra sức tổ chức và lãnh đạo nhân
dân đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc và để nâng cao đời sống sinh hoạt
cho nhân dân. Do đó, Đảng là ngọn cờ đầu của dân tộc.
Lịch sử Việt Nam trải qua bao thăng trầm, nấc thang lên xuống mà mối
thời kỳ phải đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp phù hợp với
điều kiện thực tiễn thời kỳ ấy. Vì thế sứ mệnh lịch sử của Đảng cũng phải linh
động, thay đổi cho phù hợp với điều kiện từng thời kỳ. hi bị ngoại xâm độ hộ,
nhân dân Việt Nam bị mất tự do, mang trên mình thân phân nô lệ thì sứ mệnh
C.Mác và Ănghen: toàn tập, tập 26 trang 291
C.Mác và Ănghen: toàn tập, tập 27 tiếng Nga, trang 275.
(3)
V.I.Lênin toàn tập, NXB tiến Bộ, Matxcơva, tập 42 trang 294.
(4)
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 5, trang 249 - (5): Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7, trang 335.
(1)

(2)


lịch sửcuar Đảng là đứng lên lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, thoát
khỏi ách thống trị cuâ thực dân phong kiến, đưa nhân dân tự thân phận nô lệ
lên địa vị làm chủ đất nước. Khi đất nước đã hòa bình độc lập, thì sứ mệnh

lịch sử của Đảng lại phải thay đổi. Đảng phải năm bắt và giải quyết kịp thời
những nhu cầu trực tiếp mà đời sống xã hội và nhân dân đặt ra. Xây dựng cho
nhân dân được hưởng ấm no hạnh phúc. “Hễ còn có một người Việt Nam bị
bóc lột, bị nghèo nàn thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là mình chưa làm tròn
nhiệm vụ”. Dân có hạnh phúc, có sung sướng, cơm no áo âm như Hồ Chí
Minh đã mong đợi hay không đó là phụ thuộc vào vai trò, sứ mệnh lịch sử của
Đảng ta.
Nói đến sứ mệnh lịch sử của Đảng là “không chỉ nói đến việc Đảng
phải lo tính công việc lớn như đổi mới nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của
nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến” để xây dựng chủ nghĩa xã
hội tiến lên chủ nghĩa cộng sản… mà đến cả “những việc nhỏ như tương, cà,
mắm, muối, cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân” cũng được Đảng
xem là nhiệm vụ và trách nhiệm của mình.
Vì thế, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả
nước” đồng thời quan trọng hơn vì: “Nó gần gũi tôn trọng lòng của mỗi đồng
bào ta”. Đây là nguyên nhân quan trọng tạo nên sức mạnh thần kỳ, sức sống
mãnh liệt của Đảng ta trong suốt 70 năm qua. Chính nhờ vào đay mà nhân
dân ta tin tưởng, đặt niềm tin, giao phó trách nhiệm lãnh đạo vào tay Đảng
Cộng sảnViệt Nam. Cũng chính vì thế mà trong suốt chiều dài lịch sử đất
nước ta, Đảng luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp Cách
mạng nước nhà.
Nói tóm lại, sứ mệnh lịch sử của Đảng là lãnh đạo nhân dân ta đấu
tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng cho nhân dân ta cuộc sống ấm no hạnh
phúc, luôn phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Và Đảng ta đã, đang
và sẽ cố gắng phấn đấu để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó. Vì thế mà Đảng
luôn phải có đấu tranh và tự chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh, đủ sức
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
III. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, sứ
mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc chỉnh đốn
Đang và đổi mới Đảng ta hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt và xây dựng Đảng là
quan điểm chỉ đạo cho việc xây dựng Đảng ta là một Đảng cầm quyền chân


chính, là một Đảng Macxit-Lêninxit, là Đảng thực sự của nhân dân, luôn đi
đầu tiên phong trong mọi hoạt động. Đặc biệt, bước vào thời kỳ đổi mới vai
trò, vị trí, sứ mệnh lịch sử của Đảng càng trở nên quan trọng hơn khi xu thế
toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, như Bác đã nói: “Thắng Đế quốc và
phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”.
Cho nên việc quán triệt tư tưởng Đảng là người tiên phong lãnh đạo Cách
mạng, lãnh đạo nhân dân là điều cần thiết.
Từ Đảng cho tới nhân dân đều thấy tõ và tin tưởng tuyệt đối vào vai trò
lãnh đạo của Đảng, để củng cố và giữ vững vị trí nòng cốt trong Cách mạng
và trong lòng nhân dân. Vì thế mà để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã
hội, làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình Đảng và nhân dân ta đều phải đóng
góp tích cực vào việc chỉnh đốn và đổi mới Đảng.
Về phần Đảng, tiếp tục phát huy sức mạnh và vai trò lãnh đạo của
mình, Đảng luôn phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn và luôn kiên định và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh nước ta, luôn trung thành với
bản chất công nhân, luôn đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên trên hết.
Nhưng cũng phải vì thế mà khép mình mà phải luôn mở rộng học hỏi kinh
nghiệm của Đảng khác. Mặt khác, Đảng luôn phải củng cố mối quan hệ bền
chặt giữa Đảng với nhân dân, luôn xứng đáng với niềm tin của nhân dân, nếu
không, như Hồ Chí Minh đã nói: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày
mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng
nức, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Chính điều này là động lực cho Đảng
phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn trên những vấn đề sau: “Đảng
phải vững mạnh về mọi mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Để xứng đáng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân. Phải luôn xây dựng, giáo

dục cán bộ, Đảng viên nâng cao đạo đức Cách mạng, phải luôn khắc phục
những tiêu cực, thoái hóa, biến chất và chủ nghĩa cá nhân. Đảng phải tự vươn
lên đáp ứng kịp thời với yêu cầu thời đại và nhiệm vụ mới. Để làm được điều
đó, Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, tầm tư tưởng, nâng cao trình độ về mọi
mặt”.
Tuy nhiên, trong lãnh đạo Đảng có lúc phạm nhiều khuyết điểm sai
lầm, một bộ phận cán bộ, Đảng viên đã thoái hóa biến chất, tham nhũng và
quan liêu phổ biến trong nội bộ Đảng làm cho lòng tin của nhân dân bị giảm
sút. Vì thế mà Đảng luôn chấn chỉnhbooj máy và tổ chức ở các cấp, luôn phải
nâng cao dân chủ trong Đảng. trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, đi


đôi với giáo dục Đảng cần coi trọng việ cơ chế hóa nguyên tắc tập trung dân
chủ và kiểm tra chặt chẽ để buộc mọi tổ chức Đảng và mọi Đảng viên đều
phải thực hiện. Khi Đảng Cộng sản là tổ chức tien phong của Cách mạng,
lãnh đạo Cách mạng nên việc chỉnh đốn và đổi mới mình là không thể thiếu
và một quá trình khó khăn phức tạp không chỉ là của Đảng mà phải có sự góp
phần tích cực của nhân dân. Nhăm vừa thực hiện được quyền làm chủ của
nhân dân, Đảng là công bộc của dân, vừa thể hiện niềm tin của nhân dân vào
Đảng. Đảng không cân “xưng danh, địa vị” quần chúng vẫn suy tôn Đảng, sẽ
“sống không rời Đảng” và “chết cũng không rời Đảng”. Đảng và nhân dân
thực sự gắn bó máu thịt với nhau “Đảng là của dân” và “Dân là của Đảng”.


C – KẾT LUẬN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản nói chung và về vị trí, vai
trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng nói riêng luôn đóng vai trò quan trọng là quan
điểm chỉ đạo chủ yếu trong việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Bởi Đảng là
yếu tố then chốt quyết định thắng lợi trên mọi mặt trận của xã hội. Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thức XVII khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi

hành động”.
Vận dụng và phát huy một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta từ khi phôi thai cho đến khi ra đời luôn giữ
vị trí then chốt, hạt nhân tiên phong của Cách mạng, luôn là tay chèo lái con
thuyền Cách mạng đi đến bền bờ thắng lợi. Không những thế Đảng còn dẫn
dắt nhân dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Không giảm sút vai trò lãnh đạo của mình Đảng lại sát
cánh cùng nhân dân trên con đường chống lại mọi tư tương phản động, thoát
khỏi khó khăn để xây dựng Đất nước.
Đến ngày nay, khi tốc độ phát triển như vũ bão của nền kinh tế và khoa
học kỹ thuật, đứng trước xu thế toàn cầu hóa của thế giới thì tư tưởng về vị
trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản càng được khẳng định và quán
triệt hơn. Từ đấy việc vận dụng quan điểm này vào thực tế để chỉnh đốn và
đổi mới Đảng đã trở thành nhiệm vụ hàng đầu thường trực của cả Đảng và
nhân dân. Luôn ý thực được điều đó, Đảng đã không ngừng phát huy vai trò
và đạt được rất nhiều thành tựu trong sứ mệnh lịch sử của mình. Vào thời kỳ
đổi mới hiện nay, vai trò đó lại càng được nâng cao để thực hiện thắng lợi
mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững
bước tiến lên CNXH mang đậm bản sắc Việt Nam. Giờ đây, Đảng ta đang
luôn phấn đâu lãnh đạo nhân dân đưa nước ta từ nước kém phát triển thành
nước công nghiệp phát triển, cho nhân dân cuộc sống âm no hạnh phúc “ai
cũng có cơm ăn áo mặc” đưa đất nước “sánh vai với các cường quốc năm trên
thế giới” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy và mong muốn.


Tài liệu tham khảo:
1.

Hồ Chí Minh toàn tập – NXB chính trị Quốc Gia Hà Nội 2000.


2.

Tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, xây
dựng Đoàn – NXBThanh Niên – Hà Nội – 2002.

3.

Giáo trình tư tưởng HCM – NXB chính trị Quốc Gia – Hà Nội –
2006.

4.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng – NXB Lao Động – 2001

5.

Giáo trình học thuyết Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng và xây dựng Đảng.

6.

HCM về xây dựng và chỉnh đốn Đảng – NXB chính trị Quốc Gia
2002

7.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng (KhóaVI, VII, VIII).

8.


Các Mác và Ăngghen toàn tập, NXB chính trị Mat ơva.

9.

70 năm ĐCSVN – NXB chính trị Quốc Gia – Hà Nội – 2000.


MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
B- PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.........................3
1. Cơ sở lý luận..............................................................................................................3
2. Cơ sở thực tiễn...........................................................................................................5
3. Tiểu luận.....................................................................................................................6
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt
Nam....................................................................................................................................6
1. Thế nào là tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam...............................6
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí của Đảng Cộng sản Việt Nam.................................7
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam............................10
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam.............14
III. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc chỉnh đốn Đang và đổi mới Đảng ta hiện nay.......16
C – KẾT LUẬN:..................................................................................................................19
MỤC LỤC............................................................................................................................21



×