Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế tác động của nền kinh tế trung quốc đến sự phát triển công nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.87 KB, 28 trang )

I.

NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC SAU 40 NĂM MỞ CỬA
1. Kinh tế Trung Quốc trước cải cách 1978
Từ năm 1949, Trung Quốc đã theo đuổi một chiến lược phát triển công nghiệp nặng

xã hội chủ nghĩa (hay chiến lược Cú hích Lớn theo cách gọi của kinh tế học). Ưu tiên
công nghiệp hóa đồng thời triệt để tiết giảm tiêu dùng theo chính sách "thắt lưng buộc
bụng" để tập trung các nguồn lực cho công nghiệp hóa. Chính phủ đã giữ quyền kiểm soát
một phần lớn nền kinh tế và chuyển các nguồn lực sang xây dựng các nhà máy. Nhiều
ngành mới đã được tạo lập. Kinh tế tăng trưởng mạnh. Việc kiểm soát chặt ngân sách và
cung tiền tệ đã làm giảm lạm phát cuối năm 1950.
Năm 1952, tổng sản lượng công nghiệp của Trung Quốc ước tính là 34.900 triệu
Nhân dân tệ] theo tỷ giá hối đoái thực tế, nghĩa là bằng 3% tổng sản lượng công nghiệp
thế giới lúc đó và gấp 1,5 lần của Nhật Bản và Ấn Độ theo giá trị tuyệt đối (không theo
giá trị bình quân đầu người). Trong khoảng giữa thập niên 1950 (năm 1957), những chính
sách đầy tham vọng của Mao Trạch Đông về Đại nhảy vọt nhằm tập trung hóa sản xuất tại
các vùng nông thôn, sự chấm dứt viện trợ tái thiết và phát triển từ phía Liên Xô, sự thô sơ
của hệ thống quản lý sản xuất, sự tàn phá của thiên tai đã khiến nền kinh tế lâm vào nguy
ngập, nạn đói. Hậu quả là kinh tế suy thoái, nông nghiệp bị tàn phá, công nghiệp ngưng
phát triển, trên 20 -30 triệu người đã chết vì những nguyên nhân phi tự nhiên. Nền kinh tế
Trung Quốc tiếp tục suy thoái trong 10 năm Cách mạng văn hóa.
2. Nền kinh tế Trung Quốc trong giai đoạn cải cách, mở cửa a.
Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)
Trước 1978, chế độ công xã nhân dân thực hiện trong 20 năm ròng kèm với những
mặt trái của cơ chế tập thể hóa ruộng đất, kết quả là hiệu suất nông nghiệp thấp, nông dân
đi vào bước đường cùng. Trong tình cảnh không biết đi về đâu, nông dân đòi phải được
khoán ruộng đất.Và chế độ khoán ruộng đất ấy rất hiệu nghiệm, nhanh chóng lan rộng
trên toàn quốc, mang lại Trung Quốc những thay đổi mà cả thế giới đều phải thừa nhận.
3



Vào năm 1978, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc chỉ có 167.000.000 USD, rất thấp.
30 năm sau, đến năm 2008, con số này đã vượt quá 1.700 tỷ USD, gấp 10.000 lần.Trong
thời kì đầu cải cách , Đặng Tiểu Bình dựa vào “ nguồn vốn lớn tập trung đầu tư ”, dùng
tiền chủ nghĩa tư bản để xây dựng Trung Quốc. Kêu gọi đầu tư nước ngoài là nhiệm vụ
hàng đầu của chính phủ. Nhưng mọi việc không thuận lợi, những nhà đầu tư nhanh chóng
phát hiện ra rằng, một nước Trung Quốc với môi trường chính sách dao động không rõ
ràng, thiết bị và cơ sở hạ tầng vô cùng lạc hậu, vì thế không phải là một nước lí tưởng cho
việc đầu tư. Ngay khi nhận ra kế hoạch này không thể thực hiện được, Đặng Tiểu Bình lập
tức thay đổi chiến lược, ông bắt đầu tập trung vào cải tạo mấy chục ngàn xí nghiệp nhà
nước, tập trung xây dựng đặc khu ở những nơi có vị trí heo hút, thực lực kinh tế thấp kém
tại miền Nam, cụ thể là Thâm Quyến, để từ đó thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của nước
ngoài.
Ông Đặng đã góp phần tạo nên cách tiếp cận độc đáo, thử nghiệm nới lỏng sự kiểm
soát của chính phủ đối với nền kinh tế và một số quyền tự do cá nhân. Câu nói nổi tiếng
của ông là: “Không quan trọng mèo đen hay mèo trắng, miễn là nó bắt được chuột”.
Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu
thị”, chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây
dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Giai
đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng đất”, “phát triển
xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng thí điểm quyền tự chủ kinh
doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa, xây dựng đặc khu kinh tế,
xây dựng các loại thị trường. Việc xây dựng các đặc khu kinh tế (SEZs) ở Trung Quốc
tương đối thành công. SEZs đã phát huy được vai trò “cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng
tích cực đối với trong và ngoài nước. SEZs của Trung Quốc đã đạt được thành công bước
đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường. Những năm 1984 - 1991, cải cách xí
nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá cả là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách.
Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế (1979 - 1991), Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức

4



thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ chế thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế
kinh tế kế hoạch.
Từng chút một, đất nước bắt đầu thay đổi. Nông dân có thể bán sản phẩm dư thừa và
kiếm lời. Các doanh nhân thành lập doanh nghiệp của riêng họ. "Đặc khu kinh tế" cho
phép thương mại tự do được thành lập tại các khu vực riêng.
b. Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
(1992 - 2002)
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi to
lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở các
nước Đông Âu mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến hành
điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.
Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa (họ
Xã) hay tư bản chủ nghĩa (họ Tư) thổi bùng các cuộc tranh luận (đại luận chiến). Trước
tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh luận, tiến
hành “Ba điều có lợi” (có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa, có lợi cho đất
nước, có lợi cho đời sống nhân dân), mạnh dạn xông pha vào thực tiễn và lấy thực tiễn để
kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1992) nêu mục tiêu xây
dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mở cửa. Đây được coi là cuộc
giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc qụan trọng trong tiến trình cải cách, mở cửa ở
Trung Quốc.
Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3
khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều
thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập, lấy phân
phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng, khuyến khích
một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu có”(1). Đại hội XV
5



Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1997) đã xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
trị xã hội chủ nghĩa.
Trung Quốc thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá trên thị trường
song song với nhau, đã làm nảy sinh một chợ đen hùng mạnh. Đồng nhân dân tệ mất giá
quá nhiều khiến cho các mặt hàng Trung Quốc xuất ra thị trường thế giới bỗng trở nên rẻ
rề, nhưng có sức thu hút rất lớn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Các nhà kinh tế học đưa ra quan điểm “không thể ôm gọn tất cả các xí nghiệp. Nhà
nước chỉ cần nắm chắc một số xí nghiệp đầu não nhất, còn những xí nghiệp nhỏ vừa
không đủ sức cạnh tranh, không liên quan chăt chẽ đến quốc kế dân sinh thì sẽ “bỏ
qua”.Tư tưởng cải cách này khác hoàn toàn so với trước đây, mang đến chấn động lớn,
những thành quả của đợt cải cách này cho đến năm 2003 mới bắt đầu thể hiện ra một cách
rõ ràng nhất.
Năm 1994, là năm Đại chiến giá cả và sự hưng khởi của hàng nội địa Trung
Quốc.Các công ty xí nghiệp Trung Quốc phát triển mạnh, các công ty nước ngoài cũng
kéo nhau tới.. Nếu so sánh giữa tính năng và giá cả, người tiêu dùng Trung Quốc chú ý
nhiều hơn đến giá cả sản phẩm. Sản phẩm nội địa Trung Quốc có giá bằng một nửa so với
công ty nước ngoài. Đó là lí do các công ty nước ngoài thua trong trận chiến về giá cả.
Năm 1997, một trận khủng hoảng kinh tế Châu Á, bắt đầu từ Thái Lan, sau đó lan
sang Malaysia, Philippines, Indonesia… Trung Quốc tuy không bị ảnh hưởng trực tiếp,
nhưng những ngày tháng ấy với Trung Quốc thật không dễ dàng. Thị trường cổ phiếu
trầm lắng, thị trường tiêu dùng vắng vẻ, hàng loạt công ty đã từng sang chói rơi vào tình
cảnh khó khăn,…Một chiến lược mới có tên “Quốc thoái dân tiến”, tiền vốn của nhà nước
phần lớn rút lui khỏi các lĩnh vực cạnh tranh, đồng thời nắm độc quyền những ngành nghề
như gang, thép, hàng không, ngân hàng,…
Cuối năm 1999, ngày 15 tháng 11, Trung Quốc chính thức sở hữu tấm vé để bước vào thế
giới toàn cầu hóa WTO, kết quả là sự phất lên của những doanh nghiệp nhà nước qui mô
lớn đã lập nên kỷ lục lợi nhuận cao nhất. Những tập đoàn qui mô lớn của Trung 6



Quốc đã xuất hiện trên thị trường nước ngoài như New York, Hồng Kông…, tập thể
doanh nhân của các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu lộ diện và thể hiện rõ bản lĩnh của
mình, các công ty nước ngoài có mặt tại Trung Quốc, làm dấy lên đợt sóng tư nhân hóa.
Cùng lúc ấy, sự lựa chọn ngành nghề của các công ty nước ngoài xuất hiện những chuyển
biến tinh tế, bắt đầu đi từ lĩnh vực mang tính cạnh tranh, nhưng những công ty nước ngoài
sau này phát hiện ra rằng, cạnh tranh v ới các công ty mới của Trung Quốc trong lĩnh vực
hàng tiêu dùng thì khó thành công. Sau đó chuyển sang đầu tư vào các cơ sở hạ tầng mang
tính kỹ thuật cao hơn, kết quả khá thành công.
Các hạng mục đầu tư tài chính của những công ty nước ngoài tăng lên khá nhanh
chóng, nguồn tài chính của các công ty trong nước đang lớn mạnh trở lại và đang phấn
đấu giành lấy không gian sinh tồn cho bản thân.

7


c.

Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa (2002 - 2012), cải cách theo chiều sâu.

Từ sau chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991, tác động của nó đến Trung Quốc hết sức
to lớn, một mặt nó điều chỉnh những căng thẳng quân sự trước đó giữa Trung – Nga theo
chiều hướng tích cực hơn, một mặt Trung Quốc phải đối đầu trước sự bao vây kiềm chế
của một đối thủ vô cùng lớn mạnh là Mỹ. Cùng với sự phát triển về kinh tế thì việc tăng
cường quân sự, nhất là các vũ khí chiến lược lại vô cùng trở nên cấp bách. Bước sang thế
kỉ XXI, “sự kiện ngày 11 tháng 9” gây chấn động toàn thế giới đặt ra cho tất cả các quốc
gia đứng trước một nguy cơ mới – nguy cơ về một chiến dịch khủng bố. Xuất khẩu của
Trung Quốc và Mỹ, Nhật và EU suy giảm đáng kể (vào khoảng 5%, thấp hơn rất nhiều so
với năm 2000 là 27,8%). Cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính bùng nổ ở Đông Nam Á

1997 tác động mạnh mẽ vào kinh tế Hồng Kông, một đặc khu hành chính của Trung
Quốc. Chính quyền Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm khắc phục khủng
hoảng, trong đó có việc điều chỉnh ngoại thương mà không phá giá đồng nhân dân tệ.
Những năm đầu của thập niên 20 nền kinh tế Trung Quốc đứng trước nhiều khó khăn về
một bài toán kinh tế trong bối cảnh toàn cầu rối ren và bất ổn.
Năm 2001, Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chính thức
trở thành một thành viên trong hệ thống thương mại đa phương toàn cầu, từng bước mở
cửa thị trường tài chính của mình và hoàn thiện các quy định, văn bản luật pháp có liên
quan. Đại hội lần thứ XVI năm 2002 khẳng định tư tưởng quan trọng “ba đại diện” về xây
dựng Đảng và đề ra nhiệm vụ chiến lược “xây dựng toàn diện xã hội khá giả” trong 20
năm đầu thế kỉ XXI.
Năm 2007, sản lượng lương thực của Trung Quốc đạt 501,6 triệu tấn, tăng 64,6% so
với năm 1978. Giá trị gia tăng công nghiệp năm 2007 vượt mức 10.000 tỷ nhân dân tệ
(1.470 tỷ USD), tăng 23 lần so với năm 1978. Năm 2007, Trung Quốc đứng đầu thế giới
về sản lượng sản phẩm nông nghiệp như ngũ cốc, thịt và bông. Các sản phẩm công nghiệp
như thép, than đá, xi-măng và phân hóa học của Trung Quốc cũng đạt sản lượng hàng đầu
8


thế giới. Trung Quốc đã có 22 doanh nghiệp lọt vào danh sách 500 doanh nghiệp mạnh
của thế giới.
Thu nhập tài chính của Chính phủ Trung Quốc đã tăng gấp 45 lần trong vòng 30
năm qua. Tháng 8-2008, Trung Quốc tổ chức thành công Ðại hội thể thao Olympic Bắc
Kinh 2008, được đánh giá là đại hội quy mô hoành tráng và thành công nhất trong lịch sử
các kỳ đại hội.

9


3. Thành tựu và vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Trung Quốc

a) Thành tựu của nền kinh tế Trung Quốc
Theo Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, trong báo cáo của Cục Thống kê quốc
gia Trung Quốc công bố về những thành tựu phát triển kinh tế và xã hội kỷ niệm 70 năm
thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã cho thấy cho thấy, trong 70 năm kể từ
khi thành lập nước Trung Quốc mới, nền kinh tế của Trung Quốc đã duy trì tốc độ phát
triển nhanh chóng, GDP liên tục được nâng cao.
Khi Trung Quốc mới thành lập, nền tảng kinh tế còn vô cùng yếu kém. Năm 1952,
GDP của Trung Quốc chỉ là 67,9 tỷ NDT, GDP bình quân đầu người là 119 NDT. Sau
những nỗ lực liên tục, GDP của Trung Quốc năm 1978 đã tăng lên 367,9 tỷ NDT, chiếm
1,8% tỷ trọng của kinh tế thế giới, xếp thứ 11 trên thế giới.
Kể từ khi cải cách và mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng.
Năm 1986, GDP của Trung Quốc vượt mốc 1 nghìn tỷ NDT. Năm 2000, vượt mốc 10
nghìn tỷ NDT, vượt qua Ý để trở thành nền kinh tế lớn thứ sáu thế giới. Năm 2010, vượt
mốc 40 nghìn tỷ NDT, vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới.
Kể từ Đại hội Đảng lần thứ 18, sức mạnh quốc gia của Trung Quốc tiếp tục được
cải thiện. Trong ba năm qua, GDP của Trung Quốc đã liên tục vượt qua các mốc 70 nghìn
tỷ NDT, 80 nghìn tỷ NDT và 90 nghìn tỷ NDT và đạt mốc 90,03 nghìn tỷ NDT vào năm
2018, chiếm 16% tỷ trọng của kinh tế thế giới. Tính theo mức giá không đổi, GDP năm
2018 cao gấp 175 lần so với năm 1952, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt
8,1%. Trong đó, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm từ năm 1979 đến năm 2018 đạt
9,4%, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng 2,9% hàng năm của kinh tế thế giới, đóng
góp 18% cho tăng trưởng trung bình hàng năm của kinh tế thế giới. Năm 2018, tổng thu
nhập quốc dân bình quân đầu người của Trung Quốc đạt 9.732 USD, cao hơn bình quân
của các quốc gia thu nhập trung bình.
10


Cùng với tăng trưởng của GDP, sức mạnh tài chính cũng được tăng cường rõ rệt. Từ
năm 1951 đến 2018, thu ngân sách nhà nước tăng trưởng trung bình 12,5% hàng năm.
Trong đó thu ngân sách nhà nước từ năm 1979 đến năm 2018 tăng trưởng trung bình

13,6% hàng năm, góp phần đảm bảo tài chính để thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện
cuộc sống của người dân. Nếu như năm 1978, GDP bình quân đầu người ở Trung Quốc
mới chỉ ở mức 156 USD, là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nhưng đến năm
2017, GDP bình quân đầu người đã đạt 8.800 USD, được xếp vào nhóm nước có thu nhập
trung bình cao (3). Số người nghèo ở Trung Quốc giảm từ 770 triệu người năm 1978
xuống còn 30,46 triệu người năm 2017, tức tỷ lệ người nghèo giảm từ 97,5% năm 1978
xuống mức 3,1% năm 2017 (4). Tăng trưởng kinh tế cao kéo theo các ngành, nghề nền
tảng như năng lượng, giao thông vận tải, viễn thông, khoa học, giáo dục, y tế, xây dựng
cơ sở hạ tầng… cùng phát triển. Các khoản đầu tư vào khoa học - công nghệ tăng. Chỉ
riêng trong năm 2017, có hơn 1,3 triệu đơn đăng ký sáng chế được cấp bằng sáng chế.
Hằng năm, hơn 3 triệu sinh viên chuyên ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học
ở các trường đại học Trung Quốc tốt nghiệp, lớn hơn gấp 5 lần so với Mỹ.

Ảnh hưởng và đóng góp vào nền kinh tế toàn cầu của Trung Quốc không ngừng gia
tăng. Thành tựu mà kinh tế Trung Quốc đạt được trong 40 năm cải cách và mở cửa không
tách rời với mối quan hệ và ảnh hưởng với thị trường thế giới. Là nước lớn với dân số
chiếm khoảng 18% dân số toàn cầu, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với nền kinh tế thế
giới là rất rõ rệt. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, Trung Quốc luôn tích cực thúc đẩy
phát triển thương mại, đầu tư song phương và đa phương. Trao đổi thương mại nước
ngoài của Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ trung bình hằng năm là 14,5%. Kể từ khi
Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), năm 2001, Trung Quốc thực
hiện đầy đủ các cam kết đối với WTO. Trung Quốc giảm đáng kể thuế nhập khẩu và các
hàng rào phi thuế quan. Mức thuế trung bình giảm từ 15,3% năm 2001 xuống còn 9,8%
năm 2017. Trung Quốc cũng mở cửa thị trường dịch vụ, liên tục giảm và xóa bỏ những
hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Lĩnh vực
11


ngoại thương của Trung Quốc càng tăng trưởng thì mức đóng góp cho thị trường và
thương mại quốc tế ngày càng lớn. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 bùng

nổ, nhiều quốc gia chịu sự tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, tỷ lệ tăng trưởng của
kim ngạch thương mại toàn cầu nằm ở mức thấp trong một thời gian dài nhưng tăng
trưởng xuất nhập khẩu của Trung Quốc tương đối ổn định, góp phần ổn định thương mại
toàn cầu.
b) Thách thức đối với nền kinh tế Trung Quốc
Sau 40 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn về mọi mặt, song cũng đang đứng trước nhiều vấn đề, thách thức lớn.
 Thứ nhất, khó khăn trong việc thực hiện cân bằng hoá cán cân thanh toán, xuất
khẩu - nhập khẩu và giữ giá đồng tiền quốc gia.
Trong năm 2014, nền kinh tế Trung Quốc có ở thặng dư xuất khẩu đạt 81,5 tỷ USD và thâm
hụt vốn và tài khoá dừng lại với mức 81,6 tỷ USD Mỹ. Đây được xem là một tín hiệu tốt cho
nền kinh tế này trong mục tiêu duy trì cán cân thanh toán ở trạng thái ổn định.

Tuy nhiên, để trở thành một nền kinh tế mạnh thực sự, Trung Quốc phải tiến tới việc duy
trì một trạng thái cân bằng trong nền kinh tế nhằm xoay trục vị thế của mình từ một quốc
gia tăng trưởng chỉ dựa vào xuất khẩu các hàng hoá thô với việc phá giá đồng tiền của
mình thành một nền kinh tế dựa vào việc sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao,
đồng thời có một đồng tiền thực sự mạnh khi so sánh với các ngoại tệ khác.
Đây là một thách thức lớn trong giai đoạn chuyển giao nền kinh tế mà không thể không
thực hiện của Trung Quốc.
 Thứ hai, mất lợi thế lao động rẻ.
Chi phí lao động ngày càng tăng lên trong các ngành sản xuất ở Trung Quốc đang gây bất
lợi cho quốc gia này trong việc duy trì tính cạnh tranh của sản xuất.

12


Hơn thế nữa, cạnh tranh về giá nhân công khốc liệt từ Việt Nam, Bangladesh, Mexico, Ấn
Độ và Đông Âu cũng làm cho Trung Quốc gặp khó khăn nhiều hơn trong việc thu hút đầu
tư nước ngoài cũng như cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế (các dịch vụ lao động

thuê ở bên ngoài).
 Thứ ba, giảm thị phần xuất khẩu.
Là một quốc gia vốn tăng trưởng dựa phần lớn vào xuất khẩu, nhưng hiện nay thị phần
xuất khẩu tại các quốc gia phát triển cũng đang giảm nghiêm trọng do sự tăng giá của
đồng Nhân dân tệ. Kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đã giảm 2,3% thị phần trên toàn
thế giới từ năm 2013 và 2% từ Hoa Kỳ năm 2011.
Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại mới từ các khu vực xuyên Thái Bình Dương,
thương mại xuyên Đại Tây Dương, đối tác đầu tư và các Hiệp định Dịch vụ Đa phương
quy định loại bỏ thuế quan giữa một số nước, các tiêu chuẩn về lao động và môi trường,
và chủ nghĩa bảo hộ ngầm cũng là những thách thức nghiêm trọng với xuất khẩu của
Trung Quốc.
 Thứ tư, thách thức về chênh lệch giữa đầu tư và tiêu dùng trong nội bộ nền kinh tế.
Trung Quốc đang cố gắng đạt đến một sự tái cân bằng nội bộ của đầu tư và tiêu dùng
trong nền kinh tế. Suy giảm tăng trưởng trong tài sản cố định từ 33% năm 2009 chỉ còn
16% năm 2014 đặt nhiều áp lực lên việc tăng trưởng sản lượng.
Trong khi đó, vốn góp đầu tư vào tăng trưởng GDP cũng giảm vì một trong những lý do
chính là Trung Quốc vẫn chưa thật sự hấp thụ được năng lực sản xuất được tạo ra bởi đầu
tư quy mô lớn trong những năm 2010 – 2011.
Khả năng hấp thụ thấp do sức mua hay khả năng tiêu dùng thấp đã làm gia tăng khoảng
cách giữa đầu tư và tiêu dùng trong nền kinh tế. Nhiều ngành công nghiệp mới nổi như
điện gió, pin mặt trời và sợi carbon với nhu cầu sử dụng ít hơn 75% năng lực sản xuất của
ngành.

13


 Thứ năm, đầu tư thiếu hụt và kém hiệu quả.
Trong những năm 1999 – 2012 chỉ số ICOR - thể hiện vốn đầu tư cần thiết để tăng sản
lượng tổng thể lên một đơn vị - ở Trung Quốc trung bình là 3,9. Đây là một con số khá
cao phản ảnh đầu tư vốn ở Trung Quốc kém hiệu quả hơn so với các nước đang phát triển

ở mức tăng trưởng tương tự.
Bên cạnh đó, thiếu hụt vốn đầu tư cũng là một thách thức mà Trung Quốc đang đối mặt
hiện nay.
 Thứ sáu, thách thức về khía cạnh tiếp thu công nghệ và đổi mới để tạo ra các sản
phẩm công nghệ cao.
Công nghệ được coi là một câu đố trong việc tái cân bằng nền kinh tế Trung Quốc hiện
nay. Độ trễ lớn trong việc áp dụng công nghệ và đổi mới đang góp phần gia tăng khoảng
cách phát triển giữa Trung Quốc và các nước phát triển ở phương Tây, làm cho việc
chuyển đổi nền kinh tế trở nên chậm hơn và cản trở khả năng Trung Quốc di chuyển lên
chuỗi giá trị toàn cầu.
 Thứ bảy, ô nhiễm môi trường đang đe dọa đến phát triển bền vững.
Tăng trưởng kinh tế dựa vào sản xuất thô và sử dụng nhiều năng lượng trong nhiều thập
kỷ qua đã đẩy Trung Quốc vào vị thế là một trong các quốc gia “đóng góp” lớn nhất vào
trữ lượng phát thải toàn cầu.
Theo thống kê của Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA), phát thải CO2 vào năm
2012 của Trung Quốc chiếm khoảng 26,1%, lớn hơn cả Hoa Kỳ. Con số này cho thấy mục
tiêu phát triển bền vững của Trung Quốc đang bị thách thức nghiêm trọng.
Đặc biệt, vào tháng 12 năm 2019 đã chứng kiến sự bùng nổ của đại dịch viêm
đường hô hấp Covid 19 do chủng mới của virus Corona gây ra tại Trung Quốc đã khiến
cho nền kinh tế của nước này cũng như toàn thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đến nay
tuy Trung Quốc đã tuyên bố khống chế được dịch nhưng những thách thức cho việc tái
khởi động nền kinh tế vẫn còn hiện hữu. Thứ nhất, lực lượng lao động vẫn chưa phục hồi
14


đầy đủ vì nhiều lý do. Theo dữ liệu chính thức, hơn 50 triệu lao động nhập cư vẫn chưa
trở lại làm việc. Một số vẫn còn trong thời kỳ cách ly. Những người khác bị mắc kẹt ở các
vùng nông thôn - nơi dịch vụ xe buýt chưa nối lại. Nhiều công ty cũng không cần người vì
khách hàng và đối tác hầu như chưa chi tiêu. Tại Thượng Hải, rất nhiều công nhân vẫn
chưa quay lại. Theo dữ liệu chính thức, các doanh nghiệp lớn mới chỉ có chưa đầy hai

phần ba số công nhân. Các doanh nghiệp nhỏ có ít hơn một nửa. Ở một số khu vực, rất ít
người đi làm hoặc đi mua sắm. Thách thức thứ hai là áp lực nợ đang chực chờ. Nợ hộ gia
đình và doanh nghiệp tại Trung Quốc đã phình to sau một thập kỷ tăng trưởng chủ yếu
nhờ đòn bẩy tài chính. Công nhân không biết liệu chủ lao động có thể trả tiền cho họ hay
không. Các doanh nghiệp thì không rõ đối tác có thể chi trả cho hàng hóa và dịch vụ
không. Thứ ba, nhu cầu thế giới đối với hàng hóa Trung Quốc đang chậm lại. Sự bùng
phát của Covid -19 bên ngoài nước này đang đe dọa tăng trưởng toàn cầu, và có thể ảnh
hưởng đến quá trình hồi phục của Trung Quốc. Theo Cao Heping - chuyên gia kinh tế tại
Đại học Bắc Kinh, nếu cú sốc về nhu cầu không được giải quyết sớm, đây có thể là vấn đề
không nhỏ cho nền kinh tế thứ hai thế giới.Nhu cầu nội địa cũng chưa mấy sáng sủa. Hầu
hết các đại lý ôtô mở cửa trở lại vào cuối tháng 2/2020 nhưng vẫn ế ẩm. Doanh số bán xe
đã giảm 80% trong tháng 2 so với cùng kỳ năm trước. "Trước đây, một đại lý có thể đón
hơn một nghìn lượt khách mỗi tháng và giờ thì chỉ khoảng chục nhóm", ông Cui
Dongshu, Tổng thư ký Hiệp hội Ôtô khách Trung Quốc cho biết các đại lý đang "mắc kẹt"
với những chiếc xe 5 tháng không bán được.
Như vậy, cho dù Trung Quốc đang vươn mình trên thế giới với quy mô kinh tế lớn
hàng đầu trên thế giới, quốc gia này vẫn đang phải đối diện nhiều thách thức nghiêm
trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, kinh tế quốc tế, và đặc biệt là đạt được phát triển bền
vững trong thời gian tới.

15


II.

ẢNH HƯỞNG CỦA TRUNG QUỐC ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP Ở
VIỆT NAM
1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp
Từ đầu thập niên 1980 đến nay, kinh tế Trung Quốc phát triển trung bình gần 10%.


Kết quả là hiện nay nước này vươn lên vị trí thứ hai thế giới về GDP, mậu dịch và có
lượng dự trữ ngoại tệ nhiều nhất thế giới.Sự trỗi dậy của Trung Quốc có một số đặc điểm
sau:
Thứ nhất, đó là quá trình công nghiệp hóa tiến nhanh trên quy mô lớn. Nhiều ngành
trong công nghiệp chế biến, chế tác (manufacturing) phát triển trên dưới 20% mỗi năm
như đồ điện gia dụng, xe hơi, máy tính cá nhân và nhiều loại máy móc khác. Trong nhiều
mặt hàng thuộc các ngành này, Trung Quốc chiếm tới trên dưới 40% sản lượng thế giới.
Vì vậy mà Trung Quốc được xem là công xưởng của thế giới.
Thứ hai, xuất khẩu của Trung Quốc ngày càng nghiêng hẳn về hàng công nghiệp. Năm
1980, hàng công nghiệp chiếm 48% tổng xuất khẩu nhưng 10 năm sau tăng lên 78% và gần
đây (2003) đã lên tới 92%. Hàng xuất khẩu công nghiệp của Trung Quốc hiện nay rất đa
dạng, từ những mặt hàng có hàm lượng lao động giản đơn như may mặc, giày dép, dụng cụ lữ
hành, đồ chơi trẻ em, tạp hoá, v.v., đến những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao như các
loại máy móc. Đồ điện, điện tử gia dụng, đồng hồ, máy tính cá nhân, xe máy và các loại máy
móc khác chiếm tới 43% tổng xuất khẩu năm 200311. Số liệu năm 2003 dựa theo JETRO
Boueki Toshi Hakusho (Sách Trắng về thương mại và đầu tư của JETRO), 2004. Số liệu năm
1980 và 1990 tính từ thống kê thương mại Liên hợp quốc. Trung Quốc đã nhanh chóng trỗi
dậy thành một cường quốc kinh tế, chiếm vị trí hàng đầu thế giới trong sản xuất và ngoại
thương. Năm 2004, GDP của Trung Quốc đạt 1.649 tỷ USD, xếp thứ bảy trên thế giới. Với đà
phát triển hiện nay, chỉ vài năm nữa Trung Quốc sẽ vượt Italia, Pháp và Anh để lên hàng thứ
tư (sau Mỹ, Nhật và Đức). Kim ngạch xuất và nhập khẩu của Trung Quốc năm 2004 đã lên
tới 1.155 tỷ USD, lần đầu tiên vượt Nhật Bản trở thành cường quốc ngoại thương thứ ba (năm
2000 xếp thứ tám) trên thế giới (sau Mỹ và Đức). Từ cuối thập niên

16


1990, dư luận quốc tế đã nói đến Trung Quốc như là một "công xưởng thế giới" (world
factory). Thật vậy, điều tra của báo Nikkei, tờ nhật báo kinh tế lớn nhất ở Nhật Bản, cho thấy
vào năm 2000, Trung Quốc chiếm 40% tổng lượng sản xuất máy điều hoà không khí của thế

giới, 24% tivi màu, 22% VTR, 11% máy tính cá nhân (desktop PC), 10% điện thoại di động,
v.v.. Xu thế đầu tư tại Trung Quốc sau đó cho thấy thị phần của Trung Quốc hiện nay còn cao
hơn. Ngành xe hơi chẳng hạn, vào năm 2000 Trung Quốc xếp thứ tám trong những nước sản
xuất nhiều nhất thế giới nhưng đến năm 2004 đã tiến lên hàng thứ tư.

Thứ ba, phát triển của Trung Quốc còn có đặc tính là dựa nhiều vào đầu tư. Trước
năm 1992 tỉ lệ của đầu tư trên GDP vào khoảng 30% nhưng năm 2002 tăng lên 40% và
mấy năm gần đây lên tới 50%. Các tỉnh cạnh tranh đầu tư và sản xuất hàng công nghiệp,
gây nên hiện tượng đầu tư trùng lặp và sản xuất thừa làm kém hiệu suất của toàn nền kịnh
tế. Nhưng đối với Việt nam và các nước có nền kinh tế còn nhỏ ở Đông Nam Á, hiện
tượng sản xuất thừa của Trung Quốc là một trong những nguyên nhân chính làm tràn ngập
hàng công nghiệp giá rẻ vào thị trường các nước này.

17


Thứ tư, cơ cấu công nghiệp của Trung Quốc ngày càng chuyển dịch lên cao. Khuynh
hướng này phản ảnh rõ trong cơ cấu xuất khẩu. Biểu đồ 1 chia các mặt hàng thành 5
nhóm, trong đó 3 nhóm được chia theo 3 trình độ liên quan đến kỹ năng của lao động.
Những sản phẩm có hàm lượng công nghệ càng cao càng cần nhiều lao động có kỹ năng
cao và do đó để sản xuất và xuất khẩu được những mặt hàng này đòi hỏi nền giáo dục,
đào tạo, nghiên cứu khoa học phải cung cấp đủ nguồn nhân lực có trình độ tương ứng.
Biểu đồ 1 cho thấy cho đến năm 2008 có tới trên 30% kim ngạch xuất khẩu của
Trung Quốc thuộc nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng cao như máy tính, máy móc về
viễn thông, về y tế, dược phẩm, v.v.. . Nếu kể cả nhóm hàng dùng nhiều kỹ năng vừa phải
như xe hơi, xe máy, đồ điện gia dụng, kim khí, v.v.. thì tỉ trọng của 2 nhóm hàng này
chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Một điểm đáng chú ý là các
mặt hàng có hàm lượng kỹ năng thấp như may mặc, giày dép, dụng cụ lữ hành, v.v.. vẫn
còn chiếm một tỉ trọng lớn. Tỉ trọng trong xuất khẩu của Trung Quốc chỉ giảm đáng kể
trong hai lĩnh vực nông sản và nguyên liệu. Điều này cho thấy các loại hàng công nghiệp,

từ trình độ thấp đến trình độ cao Trung Quốc đều hiện diện trên thị trường thế giới với số
lượng lớn.
Nhìn ở một khía cạnh khác, sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải chỉ tạo ra thách
thức đối với khu vực Á châu và thế giới. Trung Quốc phát triển mạnh không phải chỉ nhập
khẩu tài nguyên, năng lượng mà còn trở thành một thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp
nhập khẩu từ nước ngoài. Như Biểu đồ 2 cho thấy, từ năm 1990 đến 2008, nhập khẩu của
Trung Quốc tăng 18 lần. Trong 983 tỉ USD nhập khẩu năm 2008, hàng công nghiệp chiếm
trên 60%, đặc biệt riêng các loại máy móc chiếm khoảng 40%. Từ cùng nguồn tư liệu như
trong Biểu đồ 2, ta tính thử tỉ trọng của các loại máy móc trong tổng xuất khẩu của Trung
Quốc thì thấy con số đó là 47.5%. Nhìn từ hàm lượng kỹ năng trong hàng xuất khẩu, Biểu
đồ 1 cũng cho thấy khuynh hướng tương tự. Máy móc là các loại sản phẩm có nhiều bộ
phận, linh kiện, công đoạn nên trong nội bộ mỗi ngành, các công ty
18


đa quốc gia (MNCs) triển khai phân công lao động trên qui mô toàn cầu, hình thành các
chuỗi cung ứng. Từ đầu thập niên 1990, Trung Quốc đã thành công trong việc thu hút đầu
tư nước ngoài (FDI) tập trung trong các ngành chế tạo các loại máy móc từ trung cấp (như
đồ điện gia dụng) đến cao cấp (như máy tính, máy chụp hình kỹ thuật số) làm thành các
cụm công nghiệp ở các tỉnh ven biển, nhất là ở tam giác sông Châu Giang tỉnh Quảng
Đông. Qua đó, Trung Quốc tham gia mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu, vừa xuất
khẩu vừa nhập khẩu các mặt hàng thuộc nội bộ các ngành này. Hiện nay có hơn 50% kim
ngạch xuất và nhập khẩu của Trung Quốc do MNCs thực hiện, nhất là MNCs có gốc Nhật,
Hàn Quốc và Đài Loan.

Phân tích ở trên cho thấy Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp trên quy mô
lớn và triển khai hầu như toàn diện trong các lĩnh vực, từ sản phẩm có hàm lượng công
nghệ thấp đến các sản phẩm có hàm lượng kỹ năng cao, công nghệ cao; đồng thời Trung
Quốc triển khai phân công hàng ngang (horizontal trade), phân công nội ngành (intraindustry trade) với các nước khác trong các mặt hàng chế tạo các loại máy móc, là những
lĩnh vực chủ đạo trong mậu dịch quốc tế hiện nay. Với tính chất này, các nước phát triển

19


ở trình độ cao hơn Trung Quốc như Nhật, Hàn Quốc, hoặc các nước đã thành công trong
việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu (như Malaysia, Thái Lan,…) có thể đẩy mạnh xuất
khẩu sang Trung Quốc những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng cao hoặc trung bình.
Nhưng đối với các nước ở trình độ phát triển thấp hơn, sự trỗi dậy của Trung Quốc là một
thách thức lớn vì vừa bị Trung Quốc cạnh tranh mạnh trong những mặt hàng có hàm
lượng kỹ năng thấp nhưng lại chưa có năng lực triển khai phân công hàng ngang với
Trung Quốc trong những nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng trung và cao cấp.
2. Cơ cấu mậu dịch Việt Trung
Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp chiếm khoảng
60% nhưng chủ yếu là những ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn. Thêm vào đó, việc
sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản phẩm trung gian nhập
khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ năng lao động cao, chỉ chiếm
độ 10% tổng xuất khẩu. Trở lại Biểu đồ 1, so sánh cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam với
Trung Quốc, ta thấy: Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nông phẩm, nguyên liệu và những
mặt hàng dùng công nghệ thấp và dùng nhiều lao động kỹ năng thấp là sản phẩm công
nghiệp mà Việt Nam phải cạnh tranh với Trung. Tỉ trọng các mặt hàng đòi hỏi lao động có
kỹ năng cao của Việt Nam năm 2008 chỉ bằng Trung Quốc vào năm 1990.
Riêng mậu dịch với Trung Quốc, cơ cấu của Việt Nam còn yếu hơn nữa.
Mậu dịch hai nước tăng nhanh từ năm 2000 nhưng ngày càng mất quân bình. Từ
năm 2000 đến năm 2009, đối với Trung Quốc, nhập khẩu của Việt Nam tăng 11 lần nhưng
xuất khẩu chỉ tăng 5 lần. Từ năm 2003, Trung Quốc vượt Nhật Bản trở thành nước có thị
phần lớn nhất trong tổng nhập khẩu của Việt Nam và ngày càng bỏ xa Nhật Bản. Do nhập
khẩu tăng nhanh, nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc ngày càng mở rộng. Năm
2009, riêng nhập siêu với Trung Quốc (11,5 tỉ USD) chiếm tới 90% tổng nhập siêu của
Việt Nam.

20



Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc,ta thấy: Nguyên
liệu và nông phẩm chiếm vị trí áp đảo. Theo Biểu đồ 3 (Biểu đồ này dựa trên thống kê
nhập khẩu của Trung Quốc), 7 mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc có kim ngạch cao
nhất (năm 2007) đều nằm trong 2 nhóm nguyên liệu và nông phẩm. Riêng than đá đã
chiếm gần 30%. Hàng công nghiệp chỉ chiếm 12% (năm 2007). Cơ cấu này hầu như
không thay đổi trong 10 năm qua. Các loại máy móc (và linh kiện) dùng cho văn phòng,
cho công nghệ thông tin, cho điện lực,… gần đây bắt đầu xuất khẩu sang Trung Quốc do
kết quả của chiến lược triển khai chuỗi cung ứng của các công ty Nhật như Canon,
Sumiden, Hitachi (các công ty này đầu tư vào miền Bắc Việt Nam để bổ sung vào mạng
lưới sản xuất của họ ở vùng Hoa Nam Trung Quốc). Tuy nhiên, những sản phẩm này mới
chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc.
21


Nhìn sang cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc ta thấy hàng công nghiệp
chiếm vị trí áp đảo (chiếm tới 75% vào năm 2007). Tất cả 20 mặt hàng có kim ngạch
nhập khẩu nhiều nhất đều là hàng công nghiệp (Biểu đồ 4).
Các loại hàng này có thể chia ra thành 3 nhóm: thứ nhất là nguyên vật liệu hoặc sản
phẩm trung gian như thép để chế biến thành phẩm tiêu dùng, hai là các loại máy móc (và
bộ phận, linh kiện) như xe hơi, khí cụ dùng cho bưu chính viễn thông, và nhóm thứ ba là
các loại sản phẩm trung gian ngành dệt may như tơ sợi tổng hợp, vải bông, vải may nội y,
… Điều này cho thấy nền công nghiệp Việt Nam quá mỏng manh, phụ thuộc nhiều vào
sản phẩm trung gian nhập từ Trung Quốc. Nếu xét đến quá trình phát triển kinh tế, Việt
Nam lẽ ra phải có lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực vải sợi (trừ loại sợi cao cấp chủng loại
đặc biệt như tơ sợi tổng hợp). Tuy nhiên trên thực tế, các sản phẩm như vải dệt may hay
dệt kim hầu hết Việt Nam phải nhập từ Trung Quốc. Trong vài ngành nằm trong dây
chuyền cung ứng toàn cầu của các công ty đa quốc gia (các loại máy dùng cho văn phòng

như máy tính xách tay, máy in, …) Việt Nam có xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng kim
ngạch còn rất nhỏ.

22


Cơ cấu ngoại thương Việt Trung như phân tích ở trên đã hình thành từ những năm
1990 và hiện nay cơ cấu này vẫn như cũ. Từ năm 2002 gọi đây là cơ cấu mậu dịch có tính
Nam Bắc, nghĩa là cơ cấu giữa nước chậm phát triển và nước tiên tiến.
Với cơ cấu này, trong khi Hiệp định thương mại tự do ASEAN Trung Quốc
(ACFTA) được thực thi hoàn toàn thì áp lực của Trung Quốc đối với Việt Nam còn mạnh
hơn nữa. ACFTA ký kết vào tháng 11 năm 2002 và có hiệu lực từ tháng 7 năm 2005 (thuế
suất bắt đầu cắt giảm). Đối với các thành viên mới trong khối ASEAN như Việt Nam, thời
hạn hoàn thành thời khóa biểu cắt giảm thuế đối với hàng nhập từ Trung Quốc là đầu năm
2015, nghĩa một số mặt hàng nằm trong danh mục nhạy cảm, tất cả hàng công nghiệp
nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam sẽ không bị đánh thuế. Thêm vào đó, thuế suất
của phần lớn những mặt hàng trong danh mục nhạy cảm cũng sẽ phải giảm xuống dưới
5% trước năm 2020. Đặc biệt so với thuế suất hiện hành mà Việt Nam áp dụng đối với
hàng nhập từ các nước thành viên WTO, thuế suất cắt giảm đối với hàng nhập từ Trung
Quốc theo khuôn khổ ACFTA sẽ rất lớn đối với hàng công nghiệp trong 23


các lĩnh vực như tơ sợi và vải, các loại hóa chất, đồ điện gia dụng và sản phẩm phụ trợ, xe
hơi và sản phẩm phụ trợ. Như đã thấy ở trên, đây là những mặt hàng mà Việt Nam hiện
nay nhập khẩu nhiều từ Trung Quốc dù thuế suất cao.
3. Nguy cơ nền công nghiệp của Việt Nam dựa trên các lý thuyết thương mại
Xem xét quan hệ kinh tế Việt Trung từ một số lý thuyết về mậu dịch để thấy rõ hơn
những vấn đề của Việt Nam.
Trước hết là mô hình về lực dẫn (gravity model). Theo mô hình này, mậu dịch giữa
hai nước tùy thuộc vào lực dẫn của nước này đối với nước kia. Lực dẫn lớn hay nhỏ tùy

theo quy mô thị trường (đo bằng GDP) và khoảng cách địa lý giữa hai nước. Khoảng cách
địa lý càng nhỏ thì phí tổn chuyển chở hàng hóa và các dịch vụ như bảo hiểm càng thấp
và thông tin về thị trường cũng dễ thu thập. GDP lớn và tăng nhanh cũng tăng sức mua
đối với hàng hóa của nước ngoài.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nền kinh tế phát triển với tốc độ cao hoặc tương đối
cao, lại ở cạnh nhau nên hội đủ cấc yếu tố thuận lợi trong mô hình về lực dẫn. Đặc biệt
đối với Việt Nam, Trung Quốc là nền kinh tế lớn và phát triển nhanh. Thế nhưng như đã
phân tích trong phần trước, Việt Nam không tận dụng được thế mạnh này, chỉ xuất khẩu
nguyên liệu và hàng sơ chế trong khi các nước khác đẩy mạnh được xuất khẩu hàng công
nghiệp sang Trung Quốc. Nguyên nhân có thể do năng lực cung cấp yếu và hạn chế của
phía Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình về lực dẫn chỉ chú ý đến mặt cầu vì vậy cần phải phân
tích mặt cung nữa.
Thứ hai, liên quan đến điều kiện giao dịch (terms of trade), tức là quan hệ tương đối
giữa giá của hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu. Từ giữa thập niên 1950, các nhà nghiên
cứu về kinh tế phát triển hầu như thống nhất nhận định cho rằng điều kiện giao dịch của
các nước xuất khẩu nông phẩm và nguyên liệu (sản phẩm khai thác từ tài nguyên thiên
nhiên) luôn bất lợi vì nhu cầu của các sản phẩm này tăng ít, giá cả lại biến động, trong khi
đó nhu cầu và giá cả của hàng công nghiệp luôn tăng nhanh vì có tính thu nhập cao (thu
nhập của người dân càng tăng thì nhu cầu về các mặt hàng này càng tăng, tăng nhanh hơn
24


cả thu nhập). Do đó, điều kiện giao dịch của các nước sản xuất và xuất khẩu sản phẩm
khai thác từ tài nguyên sẽ càng bất lợi và các nước này càng tăng xuất khẩu càng giảm sức
mua. Nhận định này đã trở thành cơ sở cho chủ trương là các nước xuất khẩu tài nguyên
phải công nghiệp hóa thì kinh tế mới phát triển.
Về quan hệ mậu dịch Việt Trung, Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu, nông sản. Theo
ý kiến chính thống trong lý luận về kinh tế phát triển thì Việt Nam bất lợi trong điều kiện
giao dịch với Trung Quốc. Tuy nhiên, có ý kiến ngược lại cho rằng kinh tế Trung Quốc
phát triển mạnh mẽ với quy mô lớn nên nhu cầu về nguyên liệu luôn tăng, do đó các nước

xuất khẩu nguyên liệu có lợi từ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cụ thể là điều kiện giao dịch
với Trung Quốc chẳng những không bất lợi mà ngược lại.
Điều kiện giao dịch của Việt Nam không bất lợi vì các lý do sau:
Thứ nhất, giá cả trên thị trường thế giới về những mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam
xuất sang Trung Quốc trong 10 năm qua có khuynh hướng tăng.
Thứ hai, các mặt hàng công nghiệp Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam thường có
giá không cao. Tại Việt Nam hàng Trung Quốc cũng nổi tiếng giá rẻ. Như đã nói đến ở
trên, các tỉnh ở Trung Quốc cạnh tranh nhau trong đầu tư sản xuất gây ra vấn đề sản xuất
thừa.
Tuy nhiên dù cho điều kiện giao dịch đang theo chiều hướng thuận lợi, một nước
đông dân như Việt Nam không thể phát triển nếu chỉ dựa trên khai thác và xuất khẩu tài
nguyên. Không kể khả năng tài nguyên sẽ cạn kiệt, mô hình phát triển này sẽ không kích
thích và không khuyến khích việc xây dựng nguồn nhân lực có tri thức, có kỹ năng cao,
những điều kiện cần để có một nền kinh tế phát triển bền vững. Thu nhập qua việc khai
thác tài nguyên cũng thường được phân phối giữa những người thuộc tầng lớp lãnh đạo
hoặc quan chức và doanh nghiệp liên hệ. Đây là hiện tượng liên quan đến giả thuyết về lời
nguyền của tài nguyên (resource curse) đã được phân tích nhiều cả về lý luận và thực
chứng.
25


Vấn đề ở đây là dù biết xuất khẩu tài nguyên là bất lợi trên đường phát triển nhưng
với quy mô sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp quá lớn, và nhu cầu tiêu thụ tài
nguyên với quy mô lớn và đang tăng mạnh của Trung Quốc, thách thức đối với Việt Nam
là rất lớn. Thêm vào đó, trong quan hệ mậu dịch Việt Trung, còn một điểm nữa về mặt lý
luận cũng đáng quan tâm. Đó là ảnh hưởng của trào lưu mậu dịch tự do hiện nay.
Ở Đông Á hiện nay, Hiệp định tự do mậu dịch (FTA) và Hiệp định hợp tác kinh tế
(EPA) đang trở thành trào lưu chính trong quan hệ kinh tế giữa các nước. Mục tiêu chính
của các hiệp định là cắt giảm hoặc bãi bỏ các hàng rào quan thuế và phi quan thuế, đẩy
mạnh phân công lao động, tăng mậu dịch và đầu tư. Đối với các nước thành viên, do thị

trường mở rộng, và do các yếu tố sản xuất như lao động, tư bản dịch chuyển nhanh sang
các ngành có lợi thế so sánh, kinh tế phát triển nhanh hơn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên,
trong các hiệp định tự do mậu dịch mà trình độ phát triển giữa các nước thành viên quá
khác biệt, cơ hội và thách thức đối với các nước sẽ không giống nhau. Đối với các nước
còn ở trình độ phát triển thấp, thách thức lớn hơn cơ hội nếu không nỗ lực nhanh chóng
hình thành và thực hiện các chiến lược, chính sách phát triển thích hợp trước khi hiệp định
được thực thi hoàn toàn. Khác với kinh nghiệm của những nước đã phát triển (như Nhật,
Hàn Quốc, Thái Lan, v.v..), các nước đang phát triển ngày nay không đủ thời gian để bảo
hộ các ngành công nghiệp còn non trẻ, ít thời gian để chuẩn bị chuyển dịch sang một lợi
thế so sánh mới. Do đó, trong khi chưa có các chính sách, chiến lược hiệu quả, trong
khuôn khổ của FTA hoặc EPA, hàng công nghiệp từ các nước phát triển trước sẽ tràn ngập
vào các nước phát triển sau. Trong quá trình hội nhập, lợi thế so sánh hiện tại của các
nước đi sau có khả năng sẽ bị cố định hóa.
Đối với Việt Nam, ảnh hưởng của Hiệp định mậu dịch ASEAN Trung Quốc
(ACFTA) là đáng lo ngại. Như đã phân tích ở trên, hiệp định này đã làm cho tác động từ
sự trỗi dậy của Trung Quốc đối với Việt Nam càng mạnh mẽ hơn. Cơ cấu về lợi thế so
sánh của Việt Nam sẽ bị cố định hóa, nghĩa là cơ cấu xuất nhập khẩu (các Biểu 1, 3 và 4)
của Việt Nam có nguy cơ sẽ kéo dài nhiều năm trong tương lai. Việt Nam có nguy cơ sẽ

26


trở thành thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp của Trung Quốc và cung cấp tài nguyên và
các sản phẩm nông lâm,ngư nghiệp cho nước này.
4. Con đường để Việt Nam thoát ra khỏi nguy cơ
Phân tích trên đây cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đang gây tác động lớn, đang
trở thành trở lực lớn trên con đường công nghiệp hóa của Việt Nam. Mặt khác, nhìn tình
trạng và chính sách kinh tế, chính sách giáo dục của Việt Nam hiện nay, ta không thể
không bi quan. Nếu lãnh đạo hiện nay không ý thức đầy đủ thách thức nầy và khẩn trương
đưa ra các chiến lược, chính sách thích hợp và dốc toàn lực thực hiện các biện pháp liên

hệ thì nguy cơ đến từ dòng thác công nghiệp Trung Quốc cộng với cái bẫy của trào lưu
mậu dịch tự do chắc chắn sẽ xảy ra.
Đâu là con đường để Việt Nam thoát khỏi nguy cơ này? Dưới đây là một vài giải
pháp:
Thứ nhất, trước mắt và trong trung hạn (độ 3 năm), cần có ngay các chính sách tăng
sức cạnh tranh quốc tế của những mặt hàng đang có lợi thế so sánh và chuẩn bị tham gia
mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong các mặt hàng có hàm lượng kỹ năng trung
bình. Chính sách này gồm rất nhiều bộ phận. Một là phải tạo điều kiện khai thông thị
trường vốn, thị trường lao động để doanh nghiệp tiếp cận được đến các yếu tố sản xuất
(hiện nay có tình trạng khu công nghiệp thiếu lao động trong khi lao động dư thừa ở nông
thôn; doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa không có vốn để đầu tư thay đổi
công nghệ). Chính sách hạ tầng xã hội liên quan đến đời sống của người lao động ở các
khu công nghiệp, khu chế xuất cũng phải được quan tâm. Hai là phải cải thiện ngay các
điều kiện về hạ tầng, ưu tiên cung cấp điện cho sản xuất, đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ
tầng giao thông liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp. Ba là phải cải thiện các khâu
liên quan thủ tục hành chánh ở bến cảng, ở khu công nghiệp và những nơi có liên quan
đến hoạt động của doanh nghiệp. Những vấn đề này có thể thực hiện được ngay. Nhưng
vấn đề là lãnh đạo phải có quyết tâm và quan chức liên hệ phải có năng lực và tinh thần
trách nhiệm.
27


×