Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Lý luận về tất nhiên và ngẫu nhiên của phép biện chứng duy vật và vận dụng nó vào sự phát triển kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.2 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC

SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
HCMC University of Technology and Education
----------

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ

Lý luận về tất nhiên và ngẫu nhiên của phép biện
chứng duy vật và vận dụng nó vào sự phát triển
kinh tế Việt Nam

MÃ MÔN HỌC: LLCT130105
THỰC HIỆN:NHÓM HOA MƯỜI GIỜ , THỨ 5 -TIẾT 1-5
HỌC KÌ 2 NĂM HỌC : 2019 – 2020
GVHD:Th.S TRẦN NGỌC CHUNG
Tp.Hồ Chí Minh, tháng

năm 2019


DANH SÁCH THÀNH VIÊN TRONG NHÓM THAM
GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ 2:NĂM HỌC 2019-2020
NHÓM HOA MƯỜI GIỜ (THỨ NĂM -TIẾT 1,5)
TÊN ĐỀ TÀI : Lý luận về tất nhiên- ngẫu nhiên của phép biện chứng duy vật và

vận dụng nó vào sự phát triển kinh tế Việt Nam


TT

HỌ VÀ TÊN

TT Trong
danh sách

1

67

2

35

3

79

4

64

5

24

6

47


MSSV

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

………………………………………………………..
………………………………………………………..
………………………………………………………...
…………………………………………………..........
Điểm:

Ngày….tháng…năm 2019
Giáo viên chấm điểm

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………….….1
1.

Lý do chọn đề tài………………………...................................................1

2. Mục tiêu nghiên cứu……………………………………….......…………1
3. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………...….2

PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………......3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN
CỦA

PHÉP


BIỆN

CHỨNG

DUY

VẬT………………………………………..3
1.1 Khái niệm về phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên…………………………...3
1.2 Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên…………………………….…...4
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận………………………………………………....7

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ NGẪU NHIÊN VÀ
TẤT NHIÊN VÀO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM…....9
2.1 Vị trí địa lý Việt Nam thuận lơi cho phát triển kinh tế là tất nhiên……….9
2.2 Đường lối phát triển, lý luận đúng của Đảng và nhà nước góp phần xây
dựng
đất nước phát triển theo hướng tích cực đó là điều tất nhiên……….……...9
2.2.1 Quan điểm phát triển của nhà nước……………………….………....9
2.2.2 Những chủ trương, chính sách lớn………………………………....12
2.3 Phân tích những tác động “ngẫu nhiên “ vào kinh tế Việt Nam………….14
2.3.1 Những tác động của điều kiện tự nhiên………………………………
14
2.3.2 Những tác động của điều kiện kinh tế - xã hội trong và ngoài
nước……...14
2.4 Vận dụng hiệu quả các yếu tố tất nhiên và khắc phục các yếu tố ngẫu

nhiên.16



2.4.1

Vận

dụng

hiệu

quả

các

yếu

tố

ngẫu

nhiên…………………………...17
2.4.2

Khắc

phục

các

yếu

tố


ngẫu

nhiên…………………………………….18

PHẦN KẾT LUẬN…………………………….……………………...……
21

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..
….22


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống hằng ngày của mỗi chúng ta, thế giới xung quanh luôn vận động và
luôn biến đổi không ngừng cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Ném một hòn đá xuống
ao ta biết chắc chắn nó sẽ chìm, không thể nào khác được. Thả một quả trứng gà trong
ly nước ta thấy ra sao ? Thông thường thì quả trứng sẽ chìm. Nhưng có người tinh
nghịch có thể "phù phép" cho quả trứng nổi bằng việc bỏ thật nhiều muối vào ly nước
và khoắng cho tan. Nếu ta vội vã kết luận rằng hễ thả một quả trứng vào trong một ly
nước Tất Nhiên quả trứng sẽ chìm thì ta đã lầm lẫn lớn. Ngược dòng lịch sử ta thấy đầu
tiên là sự xuất hiện xã hội nguyên thủy, tiếp theo là xã hội chiếm hữu nô lệ, rồi đến xã
hội phong kiến, rồi tiếp đễn xã hội tư bản chủ nghĩa đó là điều tất yếu trong lịch sử khi
xã hội đạt đến trình độ phát triển cao nhất. Vậy, khi ta bắt gặp một sự vật, hay một hiện
tượng xảy ra thì cũng có thể do nguyên nhân này, cũng có thể do nguyên nhân khác.
Cũng có thể sự việc xảy ra là điều tất nhiên không tránh khỏi nhưng cũng có thể là
hoàn toàn ngẫu nhiên.
Trước năm 1986, đất nước ta gặp nhiều khó khăn bởi nền một nền kinh tế trì trệ, một
hệ thống quản lý yếu kém, nhưng nhờ sự đổi mới kinh tế và chính trị năm 1986 đã thúc
đẩy nền kinh tế, nhanh chóng đưa đất nước Việt Nam từ một trong những quốc gia

nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Nhà nước đã đưa
ra chiến lược kinh tế- xã hôi 2010-2020 “Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp.” Nhưng trên thực tế, chúng ta còn bắt gặp
nhiều những vẫn đề ngẫu nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của đất nước
như: quan liêu, tham nhũng, tri thức kém cỏi, dịch bệnh covid-19…. Những mặt hạn
chế này tuy là ngẫu nhiên nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến cái tất nhiên, làm kiềm hãm
sự phát triển của đất nước. Đây cũng là lý do nhóm em chọn đề tài “ Lý luận về tất
nhiên và ngẫu nhiên của phép biện chứng duy vật và vận dụng nó vào phát triển
kinh tế Việt Nam hiện nay”

2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏ những nội cơ bản của lý luận tất nhiên và ngẫu
nhiên của phép biện chứng duy vật
1


Nghiên cứu việc áp dụng của lý luận tất nhiên và ngẫu nhiên của phép biện chứng duy
vật vào sự phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở đó, phân tích những chính sách phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay, điều
kiện tự nhiên thuận lợi, nêu ra những tác động “ ngẫu nhiên “ làm chậm đi quá trình
phát triển kinh tế, đồng thời đưa ra những biện pháp khắc phục những yếu tố ngẫu
nhiên, và vận dụng hiệu quả các yếu tố tất nhiên trong việc phát triển kinh tế Việt Nam
hiện nay.

3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứa tài liệu, tổng hợp và phân tích những thông tin, nghiên cứu và đưa ra những
nhận xét và đánh giá.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân tích và
tổng hợp, các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.


2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1

Khái niệm về phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

Tất nhiên là phạm trù triết học chỉ cái do nguyên nhân chủ yếu do bên trong sự vật
quy định và trong những điều kiện nhất định,nó nhất định xảy ra như thế chứ không
phải khác.
Ví dụ:
 Sự tương tác vào hạt giống trong những điều kiện nhất định thì sẽ nảy mầm,
thành cây và sinh hoa kết quả.
 Trong điều kiện bình thường, một đứa trẻ bình thường không bị dị tật thì sẽ
phát triển theo các giai đoạn như bò, đứng, đi….
 Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau....
“Xuân Quỳnh”.
Ngẫu nhiên là cái không do mối quan hệ bản chất bên trong sự vật quyết định mà do
các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp của các hoàn cảnh bên ngoài quyết định do đó
nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, xảy ra hoặc không xảy ra, cũng có thể xuất
hiện như thế này hoặc xuất hiện như thế khác.
Ví dụ:
 Trong quá trình học tập sinh viên trong ngành điện sẽ trở thành kĩ sư điện

nhưng do những điều kiện bên ngoài chi phối làm cho một số người không thể
tiếp tục học.
 Sinh, lão, bệnh, tử là “tất nhiên” đối với mỗi người. Song sinh, lão, bệnh, tử
vào lúc nào, như thế nào, trong hoàn cảnh nào, lại mang tính “ngẫu nhiên” đối
với họ.
 Gieo hạt ngô xuống đất, hạt ngô sẽ nảy mầm, mọc thành cây và lại do những
hạt ngô mới là tất nhiên, nhưng cũng có khi hạt ngô bị chim ăn hoặc bị sâu
3


bệnh phá hoại nên không thể nảy mầm, không thể phát triển thành cây, cho hạt
được. Khả năng này do những tác động có tính ngẫu nhiên quy định nên được
gọi là ngẫu nhiên.
Trong sự vận động và biến đổi của thế giới vật chất, tính tất nhiên (tất yếu) bảo đảm
cho sự thống nhất của tự nhiên , còn tính ngẫu nhiên thì tạo ra sự đa dạng của thế giới
đó. Vì vậy, hai tính này luôn có trong mọi sự giải thích khoa học về sự vận động và
biến đổi của thế giới vật chất.

Lưu ý:
-Phạm trù tất nhiên có quan hệ với phạm trù "cái chung", "nguyên nhân", tính quy luật,
nhưng không đồng nhất với những phạm trù đó. Cái tất yếu là cái chung, nhưng không
phải mọi cái chung đều là tất yếu.
- Nếu cái chung được quyết định bởi bản chất nội tại của sự vật, khi đó cái chung gắn
liền với cái tất nhiên, là hình thức thể hiện của cái tất nhiên. Nếu cái chung không được
quyết định bởi bản chất nội tại, mà chỉ là những sự lặp lại một số những thuộc tính
khác ổn định nào đấy của sự vật, khi đó cái chung là hình thức thể hiện của cái ngẫu
nhiên.
-Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tuân theo qui luật:
+ Tất nhiên tuân theo quy luật động lực là quy luật mà trong đó mối quan hệ qua lại
giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đơn trị, nghĩa là ứng với một nguyên nhân

chỉ có một kết quả xác định.
+ Ngẫu nhiên tuân theo quy luật thống kê là quy luật mà trong đó mối quan hệ giữa

nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đa trị, tức là ứng với một nguyên nhân có thể
có kết quả này với kết quả khác.
1.2

Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
 Tính khách quan

Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người và
đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật. Trong quá trình phát triển của sự
vật không phải chỉ có cái tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu
nhiên đều có vai trò quan trọng. Nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của
sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh
hoặc chậm.
4


Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên, còn cái
ngẫu nhiên là hình thức của tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung của tất nhiên, làm cho
cái tất nhiên được bộc lộ một cách sinh động, cụ thể.
“Ở đâu mà cái ngẫu nhiên hình như tác động ngoài mặt thì ở đấy bao giờ tính ngẫu
nhiên ấy cũng phải phục tùng những quy luật nội tại ẩn giấu. Toàn bộ vấn đề chỉ là
phát hiện những quy luật đó”
—Ăng-ghen(1)
Ví dụ:
 Sự phát triển của một cây xanh, khi ta gieo hạt trong điều kiện bình thường thì
cây sẽ nảy mầm và phát triển. Nhưng quá trình cây phát triển nhanh hay chậm
còn tùy thuộc vào các yếu tố khác như: nước, không khí, dinh dưỡng….

 Trong quá trình học tập sinh viên bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh như: tiền
nhà, bạn bè, ý chí học tập… điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề học tập
của sinh viên.
 Tính phi thuần túy
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại,nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới dạng
thuần túy cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần túy. Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại
trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất hữu cơ này thể hiện ở chỗ: Cái tất
nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn
cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên,đồng thời là cái bổ sung cho cái
tất nhiên.
Ăng-ghen đã khái quát mối quan hệ này bằng kiến giải về sự xuất hiện của các nhân
vật lịch sử:
“Sự xuất hiện các nhân vật xuất sắc trong lịch sử là tất nhiên do nhu cầu xã hội phải
giải quyết những nhiệm vụ chín muồi của lịch sử tạo nên. Nhưng nhân vật đó là ai lại
không phải là cái tất nhiên, vì cái đó không phụ thuộc trực tiếp vào tiến trình chung
của lịch sử. Nếu gạt bỏ nhân vật này thì nhân vật khác sẽ xuất hiện, thay thế. Người

5


thay thế này có thể tốt hơn hoặc xấu hơn, nhưng cuối cùng nhất định nó phải xuất
hiện.”
—Engels(2)
1.

C.Mác, Ph. Angghen tuyển tập, tập II, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1971, trag 477

2.

Giáo trình Triết học Mác - Lê nin,bgd-dt, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006, trang 109


Trong những thư từ trao đổi về triết học, Ăng-ghen cũng ghi nhận rằng (1):
“c Napoleon chính là nhà độc tài quân sự mà nền cộng hòa Pháp hết sức cần đến là
một việc hoàn toàn ngẫu nhiên. Đã có nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng nếu không có
Napoleon thì sẽ có một người khác thay thế chỗ ông ta, vì mỗi khi cần đến một người
như thế trong lịch sử thì người đó sẽ xuất hiện có thể đó là Xê da, Augusto, Cromoen... Nếu Mác đã làm ra quan điểm về duy vật lịch sử thì Chieri, Mi-nhê, Ghi-dô và
tất cả những nhà sử học người Anh cho đến năm 1850 đã chứng tỏ tình hình là nhiều
người đã cố gắng theo hướng đó, và cả việc Mooc-găng cũng phát hiện ra quan điểm
đó chứng tỏ thời gian đã chín muồi để có phát hiện đó và phát hiện đó phải được thực
hiện”
Cái tất yếu như là khuynh hướng chung của sự phát triển và khuynh hướng đó không
tồn tại thuần túy, biệt lập, mà được thể hiện dưới hình thức cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu
nhiên cũng không tồn tại thuần túy mà luôn là hình thức thể hiện của cái tất nhiên.
Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất yếu.
“Cái mà người ta quả quyết là tất yếu thì lại hoàn toàn do những cái ngẫu
nhiên thuần túy cấu thành, và được gọi là ngẫu nhiên lại là hình thức trong
đó ẩn nấp cái tất yếu”
— Ăng-ghen (2)
Các Mác đánh giá vai trò của nhân tố ngẫu nhiên trong tiến trình lịch sử, ông cho
rằng :
“Lịch sử sẽ mang tính chất thần bí nếu tất cả những cái ngẫu nhiên không có tác dụng
gì cả. Những ngẫu nhiên này chính là một bộ phân trong tiến tình chung và sự phát
triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào cái ngẫu nhiên, kể cả những cái ngẫu
nhiên rất nhỏ. Thí dụ như: cá tính của những người lúc đầu lãnh đạo phong trào(3) “
Ví dụ:
6


 Sự hình thành trái đất là do vụ nổ lớn đó là điều tất nhiên nhưng thông qua vô
vàn cái ngẫu nhiên là sự vận động, trao đổi của thế giới tự nhiên. Đồng thời,

sự vận động đó là yếu tố cho việc hình thành trái đất…..

1. C.Mác và Ăng-ghen: Một số Một số thư về chủ nghĩa duy vật lịch sử, Nxb sự thật, Hà Nội, năm 1962, tr 109
2. C.Mác, PhAngghen tuyển tập, tập II, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1971, trag 473
3. C. Mac- ph. Ăn ghen: Một số thư về chủ nghĩa duy vật lịch sử, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1962, trang 43

 Chuyển hóa lẫn nhau
Trong hiện thực,tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ
mà thường xuyên thay đổi và trong những điều kiện nhất định,chúng chuyển hóa lẫn
nhau.Tức là,ngẫu nhiên biến thành tất nhiên và ngược lại.
Ví dụ:
 Trong xã hội công xã nguyên thủy,việc trao đổi vật này lấy vật khác là ngẫu
nhiên,vì khi ấy sức sản xuất của công xã đủ dùng.Sau này,khi phân công lao
động rộng rãi,năng lực sản xuất đã lớn,có nhiều sản phẩm dư,từ đó sự trao đổi
sản phẩm tất yếu phải diễn ra để làm cho cuộc sống con người đầy đủ hơn.
Ranh giới của ngẫu nhiên và tất nhiên có tính tương đối. Thông qua những mặt
này,hay trong mối quan hệ này,thì biểu hiện là tất nhiên, nhưng qua những mặt khác,
mối quan hệ khác là ngẫu nhiên.
Ví dụ:
 Nếu xét ở khía cạnh cuối cùng có vỡ hay không, thì việc việc quả trứng bị vỡ
là tất nhiên. Nhưng xét ở khía cạnh nó vỡ khi bị rơi, bị đập ra hay khi gà con
đạp vỡ,thì việc bị vỡ là ngẫu nhiên.

1.3

Ý nghĩa phương pháp luận

Triết học Mác-Lenin đã rút ra một số kết luận về phương pháp luận khi giải quyết mối
quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:



Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái tất nhiên, mà không thể dựa vào cái
ngẫu nhiên vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo
quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại
7


của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không. Tuy vậy cũng không được bỏ qua hoàn
toàn cái ngẫu nhiên vì cái ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật,
nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng
rất sâu sắc. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương án chính (phương án
1), người ta thấy có phương án hành động dự phòng (phương án 2) để chủ động
đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.


Muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích
so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên vì cái tất nhiên không tồn tại thuần túy mà bộc lộ
qua vô vàn cái ngẫu nhiên và vì không phải cái chung nào cũng là cái tất yếu, nên
khi nghiên cứu cái ngẫu nhiên không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung, mà cần
phải tiến sâu hơn nữa mới tìm ra cái chung tất yếu.



Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, không được xem nhẹ, bỏ
qua cái ngẫu nhiên, mặc dù nó không quyết định xu hướng phát triển của sự vật vì
cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa thành cái tất nhiên.
Ăng-ghen nhận định rằng: Việc quy định tất cả mọi hiện tượng về tất nhiên, phủ
nhận sự tồn tại khách quan của ngẫu nhiên về thực chất không phải là nâng ngẫu
nhiên lên trình độ tất nhiên mà là hạ tất nhiên xuống trình độ ngẫu nhiên. (1) Ông
cũng phê phát chủ nghĩa siêu hình và cho rằng: Đối với các nhà duy vật này (DV

Siêu hình), một vật nào đó chỉ có thể hoặc là tất nhiên, hoặc là ngẫu nhiên chứ
không thể vừa cái này, vừa cái kia. Vậy là tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ tồn tại bên
cạnh nhau trong tự nhiên mà thôi.(2)

8


1.Ph. Ăng-ghen: Chống Duyring, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1971, trang 336
2.Ph. Ăng-ghen: Chống Duyring, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1971, trang 333

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ NGẪU NHIÊN VÀ
TẤT NHIÊN VÀO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
2.1 Vị trí địa lý Việt Nam thuận lơi cho phát triển kinh tế là tất nhiên
-

Lãnh thổ Việt Nam gồm 2 bộ phận:
Đất liền: 330991 km2, hình chữ S
Biển rộng gấp nhiều lần so với đất liền, thuận lợi phát triển ngành kinh tế biển
Vị trí địa lý đã quy định đặc điểm cơ bản của thiên nhiên nước ta mang tính

-

chất nhiệt đới ẩm gió mùa.
Nước ta nằm ở vị trí tiếp giáp giữa lục địa và đại dương liền kề với vành đai
sinh khoáng thái bình dương và địa trung hải, trên đường di lưu và di cư của
nhiều loài động thực vật nên có nhiều tài nguyên khoáng sản và tài nguyên sinh

-

vật vô cùng phong phú.

Vị trí và hình thể nước ta tạo nên sự phân hóa đa dạng của tự nhiên thành các
vùng tự nhiên khác nhau giữa miền bắc và miền nam, giữa miền núi và đồng

-

bằng, ven biển và hải đảo.
Việt Nam nằm trên đường ngã tư hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng,
tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta giao lưu văn hóa các nước trong khu vực và

-

trên thế giới.
Nước ta còn là cửa ngõ mở lối ra biển thuận lợi cho các nước Lào, Campuchia,
và khu vực tây nam Trung Quốc.

Vị trí địa lợi thuận lợi như vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển các
ngành kinh tế, các vùng lãnh thổ, tạo điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hộp
nhập các nước trên thế giới, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Vị trí địa lý tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta chung sống hòa bình, hợp tác hữu
nghị và cùng phát triển với các nước, đặc biệt với các nước láng giềng và các nước
trong khu vực Đông Nam Á.
9


2.2 Đường lối phát triển, lý luận đúng của Đảng và nhà nước góp phần

xây dựng đất nước phát triển theo hướng tích cực đó là điều tất
nhiên.
2.2.1 Quan điểm phát triển của nhà nước
1- Phát triển gắn kết bền vững, sáng tạo, bao trùm là nội dung, là yêu cầu xuyên suốt

trong quá trình phát triển đất nước
Phát triển bền vững là phát triển ngày hôm nay không làm tổn hại đến phát triển trong
tương lai. Phát triển bền vững là phát triển bảo đảm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa
giữa phát triển kinh tế bền vững với phát triển xã hội bền vững và bảo vệ môi trường
bền vững. Phát triển kinh tế nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mô, trên nền tảng khoa học - công nghệ ngày càng cao và đổi mới sáng tạo không
ngừng, bảo đảm an ninh kinh tế làm cơ sở thúc đẩy và gắn kết hài hòa với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải
thiện môi trường sống, khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, chủ
động ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
2- Đổi mới đồng bộ, mạnh mẽ, phù hợp giữa kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
là cơ sở, là tiền đề quan trọng để phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm.
Quyết liệt và mạnh mẽ hơn nữa trong thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng
bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế, trọng tâm là đổi mới hơn nữa nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát huy thực
sự dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc
đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu chung này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu
quả của quá trình đổi mới và phát triển. Thể chế hóa và thực hiện nghiêm, có hiệu quả
cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

10


3- Phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của
cả hệ thống chính trị.

Các cấp ủy đảng, chính quyền, các bộ, ngành và địa phương; các cơ quan, doanh
nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mỗi người dân đều phải chung tay
phát triển đất nước bền vững, sáng tạo, bao trùm. Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan,
tổ chức xây dựng quy hoạch, chiến lược, chính sách, kế hoạch hành động, các chương
trình, đề án, nhiệm vụ cụ thể để thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước bền vững,
sáng tạo, bao trùm đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tăng cường năng lực cho
các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện, lồng ghép, giám sát,
đánh giá các mục tiêu phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm. Huy động mọi nguồn
lực xã hội; tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, tổ
chức, đoàn thể, doanh nghiệp và các bên liên quan nhằm bảo đảm thực hiện thành
công các mục tiêu phát triển đất nước bền vững, sáng tạo, bao trùm.
4- Con người là trung tâm của sự phát triển, phát triển vì con người, do con người.
Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được
phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo
và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. Phát huy lợi
thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng
nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
5- Đổi mới sáng tạo, phát triển đột phá lực lượng sản xuất trên nền tảng trình độ khoa
học - công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, đổi mới sáng tạo không ngừng, nhất là đổi
mới, sáng tạo công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển đột phá
lực lượng sản xuất, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ. Phát triển
mạnh mẽ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo giữ vị trí then chốt, là đột phá, là
nền tảng, động lực cho phát triển đất nước bền vững, sáng tạo, bao trùm. Công nghệ
tiên tiến hiện đại, công nghệ kỹ thuật số, công nghệ sạch và thân thiện với môi trường
11



cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất. Động viên, khuyến khích,
tạo cơ hội, tạo điều kiện cho tất cả mọi người, mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh
tế đổi mới sáng tạo không ngừng và phát triển công nghệ tạo ra bởi người Việt “made
by Vietnam” để phát triển bền vững kinh tế tri thức, kinh tế số, bao trùm mọi lĩnh vực,
mọi ngành, nghề, mọi tầng lớp nhân dân. Chủ động, tích cực tận dụng triệt để những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, coi đây là “cơ hội vàng” để đất
nước phát triển. Chuyển mạnh từ áp dụng, “bắt chước” công nghệ sẵn có sang đổi mới
sáng tạo công nghệ, phát triển công nghệ mới, tiên tiến hiện đại. Phải có công nghệ
“made by Vietnam” để tạo ra hàng hóa “made by Vietnam”, làm cho Việt Nam phát
triển hùng cường.
Huy động và sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn lực trong và ngoài nước, nhất là
nguồn lực trí tuệ từ cách mạng công nghiệp 4.0 cho phát triển bền vững, sáng tạo, bao
trùm.
6- Xây dựng nền kinh tế có tính tự chủ ngày càng cao trong điều kiện chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng để phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm.
Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại
lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức
mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có
hiệu quả.
Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có sức
cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước, góp
phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ
động thích ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
2.2.2 Những chủ trương, chính sách lớn
1- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, mục tiêu... phát triển đất nước bền
vững, sáng tạo, bao trùm đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2- Nâng cao nhận thức và hành động của toàn xã hội về phát triển bền vững, sáng tạo,
bao trùm và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm

của Việt Nam.
12


3- Hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và thể chế phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm; đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực cho phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm.
4- Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng
và sức cạnh tranh; thực hiện có hiệu quả chiến lược công nghiệp quốc gia; chú trọng
phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp dựa trên công nghệ mới, tiên tiến,
hiện đại, công nghệ kỹ thuật số...
5- Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nâng cao
sức cạnh tranh; đặc biệt là chú trọng phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
6- Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn
và có sức cạnh tranh, tăng nhanh các ngành dịch vụ dựa trên công nghệ mới, hiện đại,
công nghệ kỹ thuật số...
7- Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông
hiện đại, kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, kết cấu hạ tầng công nghệ kỹ thuật số...
8- Phát triển hài hòa, bền vững các vùng, xây dựng đô thị thông minh và nông thôn
mới...
9- Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế và
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; khơi dậy và phát huy khát vọng dân tộc, phát huy
vai trò nền tảng của giá trị văn hóa, con người Việt Nam...
10- Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe
nhân dân; phát triển y tế công nghệ cao, công nghệ số...
11- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới căn bản, toàn diện và phát triển
nhanh giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm;
chú trọng nguồn nhân lực công nghệ kỹ thuật số chất lượng cao; xây dựng đội ngũ cán
13



bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ...
12- Phát triển mạnh khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là một đột
phá chiến lược, là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh, bền vững, sáng
tạo, bao trùm...
13- Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó và thích nghi có hiệu
quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; phòng và chống thiên tai tích cực, chủ động,
sáng tạo, giảm thiểu thiệt hại...
14- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; nâng
cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

2.3 Phân tích những tác động “ngẫu nhiên “ vào kinh tế Việt Nam
Bên cạnh những điều kiện “tất nhiên” vốn có là vị trí địa lí thuận lợi, đất đai
màu mỡ, tài nguyên thiên thiên phong phú, đa dạng, các chính sách đường lối đúng
đắn của Đảng,… thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội, nước ta cũng chịu ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố “ngẫu nhiên” mà ta không lường trước được. Đó có thể là yếu
tố thúc đẩy đất nước Việt Nam phát triển, cũng có thể kiềm hãm sự phát triển của nền
kinh tế nước ta.
2.3.1. Những tác động của điều kiện tự nhiên.
Tình hình thiên tai diễn biến phức tạp, một số hiện tượng thiên tai điển hình đã
xảy ra trên địa bàn các tỉnh nước ta, nhất là cơn bão số 3 (Sơn Tinh) và sự cố vỡ đập
thủy điện tại Lào ngày 23/7/2018 gây ra tổn thất lớn về người, tài sản và ảnh hưởng
nặng nề đến sản xuất. Lũ lụt, hạn hán cũng thường xuyên xảy ra. Điều đó làm cho việc
sản xuất nông lâm nghiệp gặp nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng nặng nề cho nền kinh tế
nước ta.
2.3.2. Những tác động của điều kiện kinh tế - xã hội trong và ngoài nước.

a) Ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới:
14


Tác động tích cực:
Một ví dụ là sự suy giảm tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc vào năm 2016.
Trung Quốc và Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ, là đối tác thương mại lớn nhất của
Việt Nam. Do đó, khi tăng trưởng của nước này suy giảm sẽ khiến cho giá các mặt
hàng cơ bản trên thị trường thế giới giảm đi, tạo điều kiện giảm chi phí đầu vào sản
xuất của Việt Nam. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đánh giá lại cơ hội đầu
tư và chuyển hướng sang các thị trường có tiềm năng tăng trưởng cao hơn như Việt
Nam, thậm chí dòng vốn FDI đã vào Trung Quốc cũng có thể dịch chuyển sang Việt
Nam.
Tiếp đến là biến động của giá dầu thế giới. Giá dầu tăng sẽ có tác động tích cực đến
kinh tế thế giới, từ đó ảnh hưởng tích cực đến kinh tế Việt Nam.
Tác động tiêu cực:
Bên cạnh đó, sự suy giảm tăng trưởng kinh tế Trung Quốc cũng có một số tác
động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam. Một số hàng hóa là nhóm hàng trung gian (trong
đó chủ yếu là bán thành phẩm), nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị phụ tùng phục vụ
cho tiêu dùng trong nước, sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam được nhập khẩu chủ
yếu từ thị trường Trung Quốc. Do đó, khi đồng Nhân dân tệ bị phá giá, nhập khẩu
nhóm hàng này sẽ có khả năng tăng mạnh hơn, gây áp lực tăng nhập siêu của Việt
Nam đối với các mặt hàng của Trung Quốc. Đồng thời, trong bối cảnh tăng trưởng
giảm, cầu nhập khẩu hàng hóa và Trung Quốc sẽ giảm, khiến cho xuất khẩu của Việt
Nam sang Trung Quốc khó khăn hơn.
Ngoài ra, bối cảnh quốc tế cũng sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế chủ chốt (Mỹ - Trung Quốc – EU) diễn ra
căng thẳng hơn, các quốc gia có xu hướng tiếp tục phá giá đồng nội tệ của mình so với
các đồng tiền mạnh (USD, EUR,…) để hạn chế thiệt hại, đặc biệt là Trung Quốc - có
thể nước này sẽ mạnh tay phá giá đồng nội tệ để tạo cạnh tranh thương mại.

b) Biến động thị trường tài chính toàn cầu:
Tác động tích cực:

15


Biến động thị trường tài chính toàn cầu làm cho đồng USD giảm giá so với hầu
hết các đồng tiền chủ chốt trên thế giới trong 5 tháng đầu năm 2016, trong đó có VND
sẽ khiến nợ ngoại tệ của Việt Nam tính bằng VND giảm xuống. Bên cạnh đó, hiện tại
Việt Nam giao dịch với thế giới chủ yếu bằng đồng USD, nên khi USD giảm giá so với
hầu hết các đồng tiền chủ chốt trên thế giới, thì giá hàng nhập khẩu tính bằng USD
cũng sẽ rẻ hơn. Từ đó, Việt Nam được khuyến khích nhập khẩu.
Tác động tiêu cực:
Việc giảm giá đồng USD sẽ làm cho việc xuất khẩu của Việt Nam ra các nước
c) Ảnh hưởng của dịch covid-19
Giống như hầu hết nền kinh tế trên thế giới, Việt Nam bị ảnh hưởng do sự bùng phát
của dịch bệnh, các ngành công nghiệp tư nhân bị thiếu hụt nguồn nguyên liệu cung
ứng và đối mặt với nguy cơ dừng sản xuất. Dịch COVID-19 còn ảnh hưởng đến nhiều
ngành kinh tế bao gồm hàng hải, hậu cần hay các lĩnh vực phân phối, bán lẻ trong
nước. Ngành hàng không bị ảnh hưởng nặng nề, nhiều chuyến bay bị hủy bỏ, lượng
khách du lịch đến Việt Nam sụt giảm. Nhiều doanh nghiệp, các hộ kinh doanh gặp khó
khăn. Dịch bệnh cũng gây ra tình trạng thất nghiệp ở một số địa phương.Theo báo cáo
của Tổng cục Hải quan, trong tháng 2, dịch COVID-19 đã khiến ngân sách Việt Nam
bị mất khoảng 150 tỷ đồng mỗi ngày, so với tháng 1.Công bố của Tổng cục Thống kê
chiều ngày 27 tháng 3 năm 2020 cho thấy GDP quý I/2020 tăng 3,82% so với cùng kỳ
2019. Đây là mức tăng thấp nhất của quý I trong giai đoạn 2011-2020, thậm chí tồi tệ
hơn kịch bản xấu nhất mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề ra trong phiên họp Chính phủ
thường kỳ tháng 01/2020.
Trong quý 1, thành phố Hồ Chí Minh tăng chỉ có 0,42%, Hà Nội tăng 3,72%, Hải
Phòng tăng 14,9%, Cần Thơ 4,07%, Đà Nẵng chưa có số liệu cụ thể nhưng báo cáo

chính phủ tăng trưởng thấp kỷ lục sau nhiều năm và đánh giá thấp hơn cả TP.HCM.
Các tỉnh: Quảng Ninh 7,2%, An Giang 4,75%, Vĩnh Phúc tăng 6,38%, Khánh Hòa
giảm 9,33%, Lâm Đồng tăng 9,8%, Đắk Nông tăng 5,04%, Tiền Giang tăng 3,9%...
Dự báo quý 2 sẽ giảm nhiều hơn, và nếu dịch được không chế, sẽ tăng cao lên trong
hai quý cuối năm. Theo dự đoán của IMF thì Việt Nam năm 2020 tăng chỉ 2,7%, cao
hàng đầu châu Á (trong khi Đông Nam Á giảm 0,7% và toàn thế giới giảm 3%). Báo
16


cáo Chính phủ tới Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 15/5 đề xuất mục tiêu GDP năm
2020 tăng khoảng 4,5%, giảm 2,3 điểm phần trăm so với mục tiêu Quốc hội giao
6,8%. Nếu tình hình thế giới thuận lợi, dịch bệnh kiểm soát, thị trường hồi phục tốt
hơn thì phấn đấu mức tăng GDP là 5,4%. Tuy nhiên điều chỉnh cần xin ý kiến Bộ
Chính trị sau đó trình ra Trung ương và Quốc hội.

2.4 Vận dụng hiệu quả các yếu tố tất nhiên và khắc phục các yếu tố ngẫu
nhiên

2.4.1 Vận dụng hiệu quả các yếu tố tất nhiên
Một số biện pháp hiệu quả thực thi chính sách phát triển kinh tế Việt Nam:
Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế hoạch định chính sách phát triển kinh
tế
Trong thực tiễn chính sách công ở Việt Nam, bên cạnh những chính sách đảm bảo chất
lượng, cũng có không ít chính sách chất lượng không cao. Chính điều này đã ảnh
hưởng tiêu cực đến hiệu quả thực thi một số chính sách trong thực tế. Chất lượng
không cao của một số chính sách thể hiện trên một số khía cạnh, như phương án và
mục tiêu chính sách thiếu cụ thể, không rõ ràng, thiếu tính khả thi, mục tiêu chính sách
quá cao, một số phương án chính sách được đề ra không phù hợp với thực tiễn.
Hai là, để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần đảm bảo nguồn lực đủ mức cho
thực thi chính sách.

Để đảm bảo nguồn lực cho thực thi chính sách, ngoài sử dụng hợp lý và tiết kiệm
nguồn lực do nhà nước đầu tư, cần thực hiện xã hội hóa tối đa cũng như sự tham gia
của người dân và xã hội để có thêm nguồn lực cho thực thi chính sách.
Ba là, muốn nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần tăng cường sự tương tác và
phối hợp trong thực thi chính sách.
Việc chưa coi trọng đúng mức sự tương tác và phối hợp giữa cấp trên với cấp dưới,
giữa các cơ quan với nhau và giữa cơ quan thực thi chính sách với đối tượng chính
sách cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả thực thi chính sách chưa
17


như mong muốn. Điều này thể hiện ở chỗ: ở một số nơi, cấp trên thiếu sâu sát với cấp
dưới, thiếu sự kiểm tra, giám sát, điều chỉnh đối với hoạt động thực thi chính sách của
cấp dưới nên đã dẫn đến hệ quả tiêu cực; sự phối hợp giữa các cơ quan theo chiều
ngang còn chưa tốt, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cơ quan còn chưa rõ dẫn đến
sự chồng chéo, trùng lắp về nhiệm vụ cũng như không rõ về trách nhiệm.
Bốn là, để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần thông qua các biện pháp khác
nhau để tăng cường sự tiếp nhận và ủng hộ của đối tượng chính sách.
Để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần coi trọng việc nâng cao mức
độ
tiếp nhận của đối tượng chính sách đối với chính sách thông qua việc thật sự tôn trọng
và đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đối tượng chính sách; đổi mới
và tăng cường công tác tuyên truyền chính sách; tăng cường sự tham gia của đối tượng
chính sách trong quá trình cụ thể hóa chính sách hay ban hành kế hoạch thực thi chính
sách.
Năm là, để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công, cần nâng cao phẩm
chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chính sách.
Một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu về năng lực và kỹ năng quản lý chính sách,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống là yếu tố tiêu cực ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả thực thi chính sách công hiện nay. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực thi

chính sách công hiện nay, cần đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ tất cả các khâu của công
tác cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đảm bảo về phẩm
chất và năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Sáu là, để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công, cần coi trọng xây
dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, có cơ chế vận hành phù hợp.
Có nhiều chủ thể tham gia vào quá trình thực thi chính sách công ở Việt Nam, trong đó
chủ thể quyết định trực tiếp hiệu quả thực thi chính sách chính là bộ máy hành chính.
Do đó, để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần đặt nhiệm vụ trọng tâm vào việc
kiện toàn, đổi mới bộ máy hành chính theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ pháp quyền; xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn theo hướng quản lý hay
18


phụ trách đa ngành, đa lĩnh vực, khắc phục tình trạng phân tán về nguồn lực, quyền
lực và trách nhiệm không rõ trong thực thi chính sách
2.4.2 Khắc phục các yếu tố ngẫu nhiên
a. Tránh sự phụ thuộc quá lớn vào nền kinh tế thương mại của một số tổ
chức quốc gia (mở rộng thị trường)
Trong xu thế toàn cầu khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, bên cạnh việc có nhiều
cơ hội thị trường cho sản phẩm hàng hóa và dịch vụ Việt Nam ở nước ngoài, các
doanh nghiệp Việt Nam đồng thời cũng phải cạnh tranh để có thể giữ vững được thị
trường nội địa và thị phần của mình. Do vậy, việc mở rộng thị trường xuất khẩu sẽ
được coi như là một chiến lược dài hạn nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia
sâu vào chuỗi giá trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh qua
đó sẽ giúp việc tồn tại và đứng vững tại thị trường nội địa.
Ngoài ra, mở rộng thị trường còn giúp doanh nghiệp Việt Nam cọ xát hơn nữa với
thế giới bên ngoài, có điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời
khẳng định vị thế mới của mình trên trường quốc tế.
Hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam vẫn tập trung vào một số thị trường lớn và
truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Mở rộng thị
trường là một mặt duy trì và củng cố thị trường truyền thống, mặt khác sẽ tăng cường

thị trường xuất khẩu tiềm năng khác sẽ giúp xuất khẩu giảm bớt sự phụ thuộc vào
những thị trường này để phát triển ổn định và bền vững hơn.
Vì vậy, mở rộng, phát triển thị trường nước ngoài là tất yếu khách quan, cần thiết
trong bối cảnh hiện nay và tương lai, đặc biệt khi Việt Nam đang hội nhập sâu, rộng
vào khu vực và toàn cầu cũng như nỗ lực hạn chế sự phụ thuộc về xuất nhập khẩu vào
một số quốc gia nhất định.
b. Thay đổi để phù hợp với thị trường tài chính (TTTC) thế giới
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Quá trình này
diễn ra ngày càng mạnh mẽ, thể hiện bằng những hiệp định, cam kết song phương

19


và đa phương giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Việc mở cửa thị trường đã đặt ra
nhiều cơ hội và thách thức đối với TTTC Việt Nam. Bối cảnh trên đặt ra các yêu cầu
về khung pháp lý đối với TTTC Việt Nam như sau:
Một là, cần rà soát toàn bộ các văn bản pháp lý về TTTC hiện có và chỉ ra các quy
định hiện hành tương thích và không tương thích với các nghĩa vụ của các hiệp định để
từ đó có kế hoạch điều chỉnh, bổ sung, thay thế cho phù hợp. Mục đích của việc rà
soát, đối chiếu giữa hệ thống pháp luật hiện hành với các nghĩa vụ của hiệp định là để
xác định các biện pháp, chính sách không phù hợp với các nghĩa vụ đó.
Trên cơ sở rà soát khung pháp lý hiện đang áp dụng, cần rà soát các cam kết quốc tế
có liên quan đến TTTC bao gồm, các hiệp định song phương, hiệp định đa phương liên
quan đến lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và TTCK. Việt Nam cũng cần xây dựng và ban
hành một khung pháp lý thận trọng, phù hợp với thông lệ quốc tế, phòng ngừa rủi ro từ
các biến động của TTTC bên ngoài nhằm phát triển ổn định và bền vững hệ thống tài
chính và các định chế tài chính.
Hai là, yêu cầu về rà soát hệ thống pháp lý về TTTC hiện đang áp dụng để chuẩn
bị cho cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh theo yêu cầu của hội nhập. Việc áp dụng
cơ chế giải quyết tranh chấp trong các cam kết quốc tế sẽ tạo ra một số thách thức cho

hệ thống pháp lý về TTTC. Những thách thức này nảy sinh từ những khái niệm, nghĩa
vụ mới của các hiệp định mới sẽ được ký kết so với các hiệp định thương mại tự to mà
Việt Nam đã là thành viên.
c. Kinh tế gắn liền với y tế (trong thời buổi dịch bệnh Covid 19 đang hoành
hành)
Ưu tiên hàng đầu của Việt Nam hiện nay là ngăn chặn COVID-19 đừng lây ra. So sánh
với sự suy thoái thông thường của một nền kinh tế, ảnh hưởng về kinh tế của COVID19 mạnh hơn và gây xáo trộn nhiều hơn, nhưng trong một thời gian ngắn hơn.
Do đó, mục tiêu chính của chính sách hiện nay là phải thực hiện các biện pháp y tế,
đồng thời làm giảm thiểu các ảnh hưởng xã hội của đại dịch và duy trì năng lực của
20


nền kinh tế hầu có thể phục hồi những hoạt động sản xuất như bình thường trong cơ
hội sớm nhất.

PHẦN KẾT LUẬN
Dựa vào ý nghĩa phương pháp luận và những kiến thức cùng những liên hệ giải quyết
vấn đề trong cuộc sống chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của yếu tố ngẫu nhiên
và tất nhiên cùng mối quan hệ biện chứng giữa chúng trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn của đời sống hằng ngày.Với phương pháp luận này cung cấp cho chúng ta
một vấn đề cần thiết trong cuộc sống:trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực
tiễn, chúng ta không được xem nhẹ mọi sự vật,hiện tượng dù là rất nhỏ đang diễn ra
xung quanh ta. Trước khi thực hiện một công việc cần xem xét nó là điều có lợi hay có
hại cho bản thân chúng ta. Việc đánh giá việc làm đó chính là cái kết quả cuối cùng mà
ta sẽ nhận được.Qua việc phân tích một ví dụ cụ thể trong cuộc sống giúp chúng ta
phần nào nhận thức được rõ hơn tại sao trong phép biện chứng duy vật cần phải có cặp
phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Việc phân tích này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý
thuyết thuần túy, mà qua đây sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về những sự
vật ,hiện tượng diễn ra trong cuộc sống, và khi nhận thức được vấn đề thì chúng ta sẽ
thực hiện nó theo chiều hướng tích cực, đi lên.

Như đã phân tích đường lối phát triển, lý luận đúng của Đảng và nhà nước góp phần
xây dựng đất nước phát triển theo hướng tích cực là điều tất nhiên. Nhưng bên cạnh
21


×