Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

FDI và vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.39 KB, 36 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn kiện đại hội đảng IX của Đảng đã coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
một thành phần kinh tế, là bộ phận cấu thành của nền kinh tế nhiều thành phần ở VIệt
Nam, được khuyến khích phát triển, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm và đề ra
nhiệm vụ cải thiện nhanh môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư
nước ngoài.
Đây là bước phát triển mới về quan điểm, nhận thức của Đảng ta so với các
đại hội trước về vai trò vị trí của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đối với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng ta là
phát huy nội lực động thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh
tế thế giới để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, kết hợp chặt chẽ giữa nội
lực và ngoại lực để tạo thành nguồn lực tổng hợp cho công cuộc đổi mới và phát triển
của đất nước.
Và thực tế ngày nay đã chứng minh rằng FDI trở thành một tất yếu kinh tế
trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào dù lớn
hay nhỏ dù phát triển theo con đường TBCN hay XHCN lại không cần đến nguồn
vốn FDI và tất cả đều coi là một nguồn lực quan trọng cần khai thác để từng bước
hòa nhập với cộng đồng quốc tế. ngay cả quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh như Mỹ,
Nhật Bản dưới tác động của cuộc cách mạng XHCN hiện nay cũng không tự mình
giải quyết các vấn đè kinh tế xã hội đã, đang và tiếp tục đặt ra. Đặc biệt là Việt Nam,
Việt nam đi lên từ đống tro tàn của chiến tranh, nền kinh tế thấp kém lạc hậu. đến nay
ta từng bước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa đẩy nhanh công cuộc công nghiệp
hóa và hiện đại hóa. Việt Nam cần phải có một nguồn vốn lớn và FDI là một lựa
chọn hợp lý hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết giúp kinh tế ViệtNam nhanh chóng
thoát khỏi lạc hậu tiến lên vững mạnh.
Chính vì lý do đó việc tìm hiểu FDI trở nên rất quan trọng đặc biệt là đối với
sinh viên kinh tế những người đang và sẽ trực tiếp gánh vác trọng trách xây dựng
kinh tế nước nhà trở nên một nền kinh tế giàu mạnh. Nội dung trong bài tiểu luận sẽ
làm rõ những vấn đề cơ bản nhất về FDI và vai trò của nó trong việc phát triển kinh


tế nước nhà.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
B- NỘI DUNG.

I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
1.Khái quát về FDI:
a).Các khái niệm:
-Đầu tư: Là tập hợp các hoạt động bỏ vốn và sử dụng vốn theo một chương
trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian tương đối dài nhằm thu dược
lợi ích lớn hơn cho các nhà đầu tư và cho xã hội cho cộng đồng.
-Đầu tư nước ngoài: Là việc các nhà đầu tư ở quốc gia này bỏ vốn vào các quốc
gia khác theo một chương trình đã được hoạch định ttrong một khoảng thời gian dài
nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và mang lại lợi ích lớn hơn cho nhà đầu tư và
xã hội.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài:(Foregin Direct Inventment-FDI) Là hoạt động
đầu tư do tổ chức kinh tế hay cá nhân nước ngoài tự mình hay tham gia bỏ vốn với
các tổ chức kinh tế hay cá nhân của nước đầu tư trực tiếp quản lý và điềiu hành đối
tượng bỏ vốn để thu lợi nhuận cho nhà đầu tư và cho xã hội.
b).Các hình thức huy động vốn:
- Khái niệm huy động vốn nước ngoài nằm trong một khái niệm rộng lớn là
các dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capitalflas).
Khái niệm sau về thực chất biểu thị quá trình, chuyển giao tài chính (financial
ansction) trên thế giới.
- Có hai dòng lưu chuyển vốn chủ yếu: dòng từ các nước phát triển đổ vào các
nước chậm phát triển và dòng nội bộ các nước phát triển. Trong những giai đoạn
khác nhau hai dòng vốn này có những hướng vận động khác nhau. Dòng vốn đổ vào
các nước đang phát triển diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm,
mục tiêu và định hướng thực hiện riêng, nhưng hoàn toàn giống nhau. Để tiện phân
tích có thể sử dụng cách phân loại thông thường và tương đối đơn giản theo đối

tượng cho vay như sau:
+ Tài trợ phát triển chính thức (Offocial Development Finance ODF). Nguồn
vốn này bao gồm: viện trợ phát triển chính thức (Official Dvelopment Assostonce-
ODA) và các hình thức ODP khác. Trong loại này có viện trợ song và đa phương.
ODA chiếm tử trọng chủ yếu trong ODF.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
+ Đầu tư nước ngoài trực tiếp ( Foregin Direct Invertment FDI ), viện trợ cho
không của các tổ chức phi chính phủ (NGOS) và một số nguồn tài trợ tư nhân khác.
c).Tìm hiểu sâu hơn về lịch sử của FDI:
Các nghiên cứu về FDI đã được tiến hành sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
vào thập kỷ 60, 70 của thế kỷ XX. Từ thập kỉ 1980 trở đi do thế giới đã diễn ra những
làn sóng FDI, nên có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này với những lý
thuyết và quan điểm khác nhau. ở đây chúng tôi trình bày quan điểm chính thống của
hai tổ chức quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với FDI là tổ chức hợp tác kinh tế và
phát triển – OECD và Tổ chức Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển –
UNCTAD.
Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 1999 của UNCTAD thì “ FDI là hoạt động
đầu tư bao gồm mối quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của
một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ
nước ngoài) đối với một doanh nhiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh
tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi
nhánh nước ngoài)”.
Định nghĩa này có hai đặc trưng là quyền kiểm soát và lợi ích khống chế. Về
quyền kiểm soát, hầu như đã đạt được sự nhất trí của các nhà nghiên cứu về FDI; về
lợi ích khống chế còn đang có những ý kiến khác nhau, nhưng hiện nay nhiều người
đã thừa nhận rằng một công ty nước ngoài có tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu 10% thì
có ảnh hưởng nhất định đến quyền kiểm soát doanh nghiệp, tác động đến chiến lược
kinh doanh và quản trị doanh nghiệp.

Quyền kiểm soát là đặc trưng tiêu biểu cua FDI so với các phương thức đầu tư
quốc tế khác. Razin và cộng sự (1999) cho rằng, quyền kiểm soát làm cho các nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài có được một lợi thế về thông tin so với các nhà đầu tư
gián tiếp nước ngoài và những người gửi tiền tiết kiệm ở trong nước. Vì vậy, nhiều
TNC lớn trên thế giới chủ yếu thực hiện FDI ở các nước khác hơn là tham gia FDI;
nhiều công ty thực hiện các dự án FDI với điều kiện giành được quyền kiểm soát ít
nhất là 51% cổ phần của doanh nghiệp; có công ty chỉ thực hiện hình thức 100% sở
hữu vốn và quyền kiểm soát.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
OCED đã xuất bản tài liệu Định nghĩa chuẩn của OECD về FDI, trong đó có
phân biệt ba khaí niệm: FDI,nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
FDI phản ánh mục đích thu được lợi nhuận lâu dài của một thực thể thường
trú ở một thực thể thường trú ỏ một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) tại một thực thể
thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu
tư trực tiếp). FDI bao gồm mọi giao dịch ban đầu và các giao dịch vốn về sau giữa
hai thực thể đó; cũng như giữa các doanh nghiệp liên doanh, kể cả hợp nhất và không
hợp nhất.
Nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài là một cá nhân, một doanh nghiệp nhà nước
hay doanh nghiệp tư nhân, một chính phủ, một nhóm các cá nhân có quan hệ với
nhau, một nhóm các doanh nghiệp hợp nhất và hoặc không phù hợp nhất có quan hệ
với nhau, có một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp – một công ty con, một công ty liên
kết hoặc một chi nhánh hoạt động ở một nước không phải là nước hoặc các nước
thường trú của nhà đầu tư.
Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài là một doanh nghiệp hợp nhất hoặc
không, ở đó một nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 10% trở lên cổ phần thông thường
của một doanh nghiệp; hoặc quyền biểu quyết của một doanh nghiệp hợp nhất, hoặc
mức tương đương của một doanh nghiệp không hợp nhất. Điều đó không đòi hỏi nhất
thiết phải có sự kiểm soát tuyệt đối kinh doanh và quản trị doanh nghiệp của nhà đầu

tư nước ngoài.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam xác định: đầu tư trực tiếp nước ngoài là
việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào
để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Các tài sản này có thể là thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng
hoặc giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kĩ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ
kỹ thuật. Khái niệm nêu trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu đề cập
đến xuất xứ của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, không đề cập trực tiếp hai
vấn đề cốt lõi của FDI là quyền kiểm soát và lợi ích khống chế.
Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa Kỳ xác định: đầu tư nước ngoài là mọi
hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một bên do các công dân hoặc công ty của bên kia
sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, thực hiện dưới các hình thức như một
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công ty hay một doanh nghiệp; cổ phần cổ phiếu và hình thức góp vốn khác, trái
phiếu, giấy ghi nợ, các quyền theo hợp đồng, tài sản hữu tình và tài sản vô tình,
quyền sở hữu trí tuệ…Khái niệm này gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, mà
không phân biệt sự khác nhau giữa hai loại đó.
2.Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn:
a).Đặc trưng của FDI:
- Thứ nhất, FDI gắn liền với việc di chuyển tiền và tài sản giữa các quốc gia.
FDI làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước nhận đầu tư, làm giảm
lượng tiền và tài sản của nước đi đầu tư. Tài sản ở đây bao gồm tài sản hữu hình
(máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu…), tài sản vô hình (sáng chế, nhãn
hiêụ, bí quyết kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý). FDI không chỉ di chuyển
vốn thuần túy, mà còn bao gồm chuyển giao công nghệ, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu
của nhà đầu tư về các đối tượng sở hữu.
- Thứ hai, FDI được tiến hành thông qua thành lập các doanh nghiệp mới,
mua lại các chi nhánh, doanh nghiệp hiện có, hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất
và chuyển nhượng doanh nghiệp.

Điều đó cho thấy hoạt động FDI có thể diễn ra theo nhiều hình thức và
phương thức đa dạng. Một nước có thể khai thác tính đa dạng của các hình thức và
phương thức đầu tư để tăng cường thu hút vốn FDI từ nước ngoài. Việc thành lập và
phát triển các thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán là điều kiện
thúc đẩy sự gia tăng nhanh chóng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Thứ ba, FDI là người chủ sở hữu hoàn toàn ( sở hữu 100% vốn đầu tư) hoặc
đồng chủ sở hữu vốn với một tỷ lệ nhất định đủ mức khống chế và trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động của doanh nghiệp.
Tỷ lệ sở hữu vốn khống chế này từ 10% trở lên trong tổng số vốn của doanh
nghiệp do luật pháp từng nước quy định. Đây là yếu tố quyết định đến tính chất trực
tiếp của nhà đầu tư nước ngoài trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quản trị
doanh nghiệp. Chính vì có sự thay đổi cơ bản về hình thức sở hữu trong FDI nên cần
có thể chỉ bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài rõ ràng và chặt chẽ thì mới
tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn. Việc bảo đảm tỷ lệ sở hữu ở mức khống chế còn là
cơ sở để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở thành những chi nhánh của
các công ty của nước đầu tư. Đây là yếu tố làm tăng tính chất toàn cầu của mạng lưới
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các công ty đi đầu tư và tạo cơ sở để các công ty đó thực hiện hoạt động chu chuyển
vốn, hàng hóa trong nội bộ công ty, tránh được hàng rào thuế quan, tiết kiệm chi phí
giao dịch. Đặc trưng này là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa FDI với hoạt động
thương mại, gia công quốc tế.
Đặc trưng này làm cho các khoản lợi nhuận thu được từ FDI lớn hơn nhiều so
với thương mại quốc tế.
- Thứ tư, FDI chủ yếu là hoạt động đầu tư của tư nhân với mục tiêu cơ bản
thu lợi nhuận ( trừ một số doanh nghiệp nhà nước và một ít đầu tư của chính phủ).
Hoạt động FDI diễn ra khi có thị trường đầu tư có khả năng tạo lợi nhuận cao,
nghĩa là có chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận cao, nghĩa là có chênh lệch về tỷ suất lợi
nhuận đầu tư do tính quy luật cân bằng giữa cung và cầu về vốn đầu tư và chi phí.
Điều này phân biệt FDI và ODA. Các khoản ODA của các chính phủ gắn với những

cam kết và rằng buộc chặt chẽ giữa các nước viện trợ và nước nhận viện trợ, chịu sự
chi phối đáng kể bởi quan hệ chính trị giữa hai nước.
Khi đó, FDI ít có khả năng xảy ra tình trạng này vì chủ yếu là đầu tư do doanh
nghiệp tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư và kinh doanh, được tính
toán kỹ trước khi quyết định đầu tư. Đồng thời, hoạt động FDI khác với vay tín dụng
thương mại theo lãi suất thị trường với những cam kết và thế chấp hết sức nghiêm
ngặt.
- Thứ năm, FDI bảo đảm cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia kiểm
soát, điều hành quá trình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc điều hành và trực tiếp ra quyết định đầu tư là điều kiện để nhà đầu tư
thực hiện được chiến lựơc kinh doanh của họ một cách chủ động và tối ưu. Tuy
nhiên, trên thực tế thường nảy sinh khoảng lệch giữa mục tiêu thu hút vốn đầu tư của
chính phủ với chiến lược kinh doanh của nhà đầu tư, vì trong một số trường hợp, mục
tiêu của chính phủ không phù hợp với chiến lược kinh doanh của nhà đầu tư.
Đặc trưng này đòi hỏi chính phủ tiếp nhận đầu tư chủ động quy hoạch phát
triển các ngành, các vùng và có các chính sách hấp dẫn phù hợp với từng ngành, lĩnh
vực để thu hút FDI.
- Thứ sáu, đầu tư nước ngoài chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia thực
hiện.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây là những tập đoàn có hệ thống các chi nhánh sản xuất ở nước ngoài, có
tiềm lực lớn về vốn, công nghệ các nhãn hiệu sản phẩm có uy tín có danh tiếng lớn
trên toàn cầu, tính năng động cao, đội ngũ các nhà quản lý có trình độ cao, có khả
năng điều hành các hoạt động sản xuất phân phối trên toàn cầu, có năng lực cạnh
tranh cao. Các nước đang phát triển và các doanh nghiệp của họ có thể tiếp cận từ các
công ty xuyên quốc gia thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thu hút nguồn vốn
lớn, công nghệ nguồn, đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao, cải thiện
năng lực cạnh tranh và năng động hóa các quan hệ giao dịch. Bên nước tiếp nhận
ngoài mục tiêu thu hút vốn đầu tư từ nhà đầu tư nước ngoài còn có mục tiêu tiếp nhận

kiến thức và kỹ năng quản lý. Kỹ năng quản lý là loại tài sản vô hình cực kỳ quan
trọng đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường; khía
cạnh này tăng thêm tính chất đa phương diện của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Các công ty đa quốc gia thường thuộc các nước công nghiệp phát triển, do đó
dòng vốn đầu tư trực tiếp ban đầu xuất phát từ các nước công nghiệp và tạo nên
những xu hướng chính trong hoạt động FDI. Các nước đang phát triển khi đã đạt đến
trình độ phát triển nhất định, tích lũy được vốn, ngoại hối có thể và cần phải khuyến
khích doanh nghiệp của nước đó đầu tư ra nước ngoài để tham gia ngày càng nhiều
vào thị trường đầu tư thế giới.
Về mặt lịch sử FDI ban đầu do các Công ty xuyên quốc gia của các nước
chính quốc để khai thác nguyên liệu, thị trường tiêu thụ và nguồn lao động rẻ …của
các nước thuộc địa. Do đó, khái niệm FDI chủ yếu được sử dụng để chỉ sự vận động
của vốn từ các nước chính quốc sang các nước thuộc địa; từ các nước công nghiệp
phát triển sang các nước đang phát triển. Sau đó, xuất hiện các hoạt động đầu tư lẫn
nhau giữa các nước đang phát triển với nhau và tiếp đó là dòng vốn di chuyển từ
nước đang phát triển ra nước ngoài, kể cả sang các nước công nghiệp phát triển để
khai thác tính không hoàn hảo của thị trường. Hai dòng di chuyển vốn vào và ra này
khác nhau về chiều hướng vận động và tác động của chúng đến nền kinh tế của các
nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Do đó, đòi hỏi phải có cách ứng xử về mặt
chính sách để điều chỉnh và quản lý dòng vận động của vốn đầu tư.
b). Lợi ích của vốn nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế của các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam:
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ nhất: là tạo công ăn việc làm. Đây là tác động kép song song với tạo công
ăn việc làm là tăng thêm thu nhập cho người lao động, và cho đất nước, làm tăng
GNP của các quốc gia giải quyết nạn thất nghiệp và kéo theo hậu quả của nó.
Thứ hai: Tác dụng chuyển giao khoa học kĩ thuật, lợi ích quan trọng thứ hai
mà đầu tư nước ngoài có thể mang lại là kĩ thuật công nghệ hiện đại, kĩ xảo chuyên
môn, bí quyết và trình độ quản lý tiên tiến cũng như năng lực thị trường của các nước

đi trước xét về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản đối với các nước tiếp cận vốn
trong đó có Việt Nam.
Thứ ba: Lợi ích về vốn và ngoại tệ. Lợi ích này dưới dạng tổng quát hơn,
chính là lợi ích tăng trưởng của đất nước. Xét riêng về vốn, ngoại tệ, nguồn lực huy
động từ bên ngoài có những tác dụng căn bản sau:
- Rút ngắn thời gian tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước.
- Tạo ra những cơ sở xuất khẩu cho đất nước trong tương lai.
- Thu một phần lợi nhuận của các công ty nước ngoài.
- Thu ngoại tệ từ các hoạt động du lịch, dịch vụ,…
c).Vai trò của FDI đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Vai trò của FDI đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta có thể xem xét dưới những góc độ sau:
-Thứ nhất,FDI tạo ra cơ hội cũng như thách thức với sự phát triển bền vững.
Ngày nay, phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của các quốc gia
trên toàn thế giới. Phát triển bền vững được hiểu là sự tăng trưởng kinh tế đi liền với
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiên tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường”.
Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên và có lực lượng lao
động đồi dào, song các yếu tố về vốn, trình độ cũng như tay nghề của lực lượng lao
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động còn rất nhiều hạn chế, khoa học - công nghệ đã tụt hậu khá xa so với các nước
phát triển. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò quan trọng của việc

thu hút FDI và đề ra nhiều giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện
thuân lợi để thu hút FDI, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh
tế-xã hội. Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam về bản chất, là một kiểu tổ chức và phát triển nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên
nguyên tắc, quy luật của nền kinh tế thị trường và nguyên tắc, mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội. Định hướng này không chỉ đòi hỏi nền kinh tế tăng trưởng ở mức độ cao, mà
còn đòi hỏi phải xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và công minh; trong đó
phát triển nguồn nhân lực và phát triển xã hội bền vững được coi là trọng tâm.
Ngày 29/12/1987, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 2 đã thông qua Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Đây là đạo luật đầu tiên được xây dựng theo cơ chế của
nền kinh tế thị trường và cũng là đạo luật đầu tiên thể hiện đường lối mở cửa, hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Kể từ năm 1988 đến nay FDI đã tác động đến cả
chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của Việt Nam. Do đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đầu tư
nước ngoài đã góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ trong tổng
sản phẩm xã hội. Mặt khác, nhiều ngành sản xuất quan trọng đối với sự phát triển của
đất nước đã ra đời như sản xuất xi măng; lắp ráp, sản xuất xe máy, ôtô, viễn thống
quốc tế, thăm dò và khai thác dầu khí …
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng thu hút và giải quyết việc làm
cho một lực lượng lớn lao động, đến năm 2004 ước tính khoảng gần 850 ngàn lao
động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp FDI. Lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được làm quen với phong cách và kỷ luật lao động
mới, trình độ tay nghề từng bước được nâng cao phù hợp với yêu cầu của từng doanh
nghiệp. Cũng cần lưu ý rằng, đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, khi đã đạt được trình độ kỹ thuật và năng lực quản lý sẽ trở thành nguồn
lực chủ yếu phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Có thể nói hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong những năm qua đã
có những đóng góp quan trọng, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tố độ cao, làm
9

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thay đổi cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tích cực và nâng cao trình độ công nghệ
chung của các ngành kinh tế.
-Thứ hai, đầu tư nước ngoài tạo cho Việt Nam chủ động hội nhập với các nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Khu vực hóa và toàn cầu hóa là những xu hướng tất yếu mà mọi nền kinh tế
đều bị cuốn hút vào. Tuy nhiên, tùy thuộc và trình độ phát triển kinh tế và các nhân tố
khác mà mỗi nước có chủ trương riêng trong hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời tác
động đến tiến trình đó. Với chủ trương Việt Nam là bạn đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực,
Việt Nam đã tạo ra thế và lực mới trên trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với khu
vực thông qua việc gia nhập ASEAN, thực hiện AFTA và hướng tới xây dựng cộng
động ASEAN-AC; đồng thời mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các tổ
chức quốc tế, tổ chức hợp tác khu vực, các quốc gia, chủ yếu và thương mại và đầu
tư. Đặc biệt Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO vào tháng 01/2007. Việc phát triển khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài đảm bảo cho hội nhập kinh tế đạt hiệu quả cao. Thông qua
FDI, các Công ty nước ngoài, nhất là các chi nhánh của Công ty xuyên quốc gia có
mặt tại Việt Nam đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế, mở rộng xuất khẩu, nâng cao
năng lực tiếp cận thị trường và năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường thế giới.
-Thứ ba, đầu tư nước ngoài tạo ra những điều kiện thuận lợi và thách thức
đối với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Nền kinh tế độc lập tự chủ được hiểu là nền kinh tế có trình độ phát triển đủ
điều kiện không bị lệ thuộc vào nước khác. Thực tiễn cho thấy, muốn giữ được độc
lập tự chủ nhất thiết phải có hai điều kiện: Có đường lối, chính sách phù hợp với điều
kiện cụ thể của đất nước trong xu thế toàn cầu hóa và có thực lực kinh tế đủ mạnh.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không có nghĩa là đối lập với vấn đề hội
nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là tạo thêm nguồn lực,

tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, việc xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không đối lập với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngoại mà lại là điều kiện quan trọng để nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
tạo khả năng đón bắt thời cơ do toàn cầu hóa và khu vực hóa đem lại, kết hợp ngoại
lực với nội lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển nhanh đất nước.
Trong thế giới hiện tại, FDI là một trong những công cụ quan trọng thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các quốc gia tiếp nhận FDI có điều kiện tăng vốn đầu tư, tăng năng lực sản
xuất, giải quyết việc làm, đẩy nhanh quá trình đổi mới thiết bị, tiếp thu công nghệ
hiện đại và nâng cao trình độ quản lý, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng
quan hệ giao lưu, hợp tác kinh tế quốc tế. Thông qua đó, kết hợp với phát huy nội
lực, các quốc gia tiếp nhận đầu tư nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế vững mạnh,
tạo thế và lực cho việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
d).Sự phát triển nhận thức và quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Một khó khăn lớn của hầu hết các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu
phát triển là thiếu vốn đầu tư. Đây là yếu tố quyết định để các nước có thể đầy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất của nhân dân. ở các nước đang
phát triển thường có nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên chưa sử dụng hết hoặc
không được sử dụng vì thiếu các điều kiện vật chất của quá trình lao động sản xuất.
Bản thân các nước đang phát triển lại ít có khả năng tự tích lũy vì năng xuất lao động
thấp, sản xuất hầu như không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong hoàn
cảnh như vậy, nguồn vốn từ bên ngoài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với bước phát
triển ban đầu của các nước này. Đặc biệt là trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế
thế giới hiện nay, các nước đang phát bị đặt trong tình huống phải tạo được tốc độ
phát triển nhanh để đuổi kịp và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, nguy cơ
tụt hậu không cho phép các nước đang phát triển được chậm chễ hay có cách lựa
chọn nào khác. Trong điều kiện trên thế giới có nhiều quốc gia có nhu cầu đầu tư ra

nước ngoài thì các nước đang phát triển có cơ hội tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật
của nước ngoài để phát triển kinh tế. Thực tế cho thấy quốc gia nào biết thu hút và sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài sẽ tạo ra bộ mặt phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế.
Ngoài những đặc điểm chung của một quốc gia đang phát triển Việt Nam còn
có những nét đặc thù riêng của một đất nước đã phải trải qua nhiều năm chiến tranh
ác liệt. Nền kinh tế sau chiến tranh đã bị tàn phá nặng nề lại vấp phải những sai lầm
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệm trọng trong quản lý và điều hành cả trên tầm vĩ mô và vi mô, nên đã rơi vào
khủng hoảng nghiệm trọng. Một nền kinh tế què quặt, nghèo nàn, lạc hậu: Đời sống
của đại đa số nhân dân khó khăn thiếu thốn là gánh nặng không thể vượt qua được.
Sau khi vượt qua được khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam bước vào giai
đoạn ổn định và phát triển (từ năm 1991-2000).Cũng lại nhờ vào nguồn lực bên
ngoài, thông qua vay nợ, viện trợ và hợp tác đầu tư ( trong thời kỳ 1991-1995-vốn
FDI là 4,205 tỷ USD, so với 15,695 tỷ USD tổng vốn đầu tư toàn bộ nền kinh tế, vốn
FDI chiếm 26,8%), cùng với khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực
trong nước chúng ta đã tạo ra được một bước phát triển đầu tiên khá vững chắc.Tốc
độ tăng trưởng bình quân giai đoạn này là 8,2% và nhờ có sự tăng trưởng kinh tế mà
đã tăng được tỷ lệ tích lũy lên gần 20% GDP vào năm 1995. Thực tiễn trên đây là kết
quả của những thay đổi trong nhận thức và quan điểm của chúng ta về đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế đối ngoại, vì vậy nó bị chi phối
trước hết bởi đường lối phát triển kinh tế nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại
nói riêng.
Sự thay đổi tư duy kinh tế đối ngoại ở Việt Nam chủ yếu nảy sinh từ tình hình
thực tiễn mới diễn ra từ những năm 80 gắn liền với quá trình đổi mới tư duy kinh tế
nói chung. Điểm mốc thời gian đánh dấu sự thay đổi này là năm 1986, năm diễn ra
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6, Đại hội của đường lối đổi mới toàn diện
đời sống kinh tế xã hội.

Sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV, với chính sách đổi mới toàn
diện đất nước chúng ta đã đánh giá cao vai trò rất to lớn của các quan hệ kinh tế quốc
tế nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Đảng cộng sản Việt Nam và Chính phủ
cũng hiểu rằng, trong điều kiện nền kinh tế còn ở tình trạng lạc hậu, nếu muốn phát
triển nhanh thì phải biết lợi dụng vốn và kỹ thuật của các cường quốc công nghiệp và
nếu có phải trả (học phí) để có được trình độ kỹ thuật công nghệ cao, trình độ quản lý
tiên tiến thì cũng phải và nên làm.
Trên cơ sở những quan điểm đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đựơc soạn thảo và ban hành vào tháng
12/1987. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt ra đời phù hợp với xu hướng của sự hợp tác
nhiều mặt, nhiều chiều, tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng và
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cùng có lợi. Việt nam cũng như các quốc gia đang phát triển khác đang rất cần thu
hút vốn và kỹ thuật –công nghệ của các nước tiên tiến trên thế giới.Nhưng chúng ta
cũng hiểu rằng hoạt động này còn đang diễn ra một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các
nước và các khu vực trên thế giới, hơn nữa chúng ta lại là nước nhập cuộc sau và
môi trường đầu tư trong nước chưa được thuận lợi. Vì vậy Luật đầu tư nước ngòai
của chúng ta đã thể hiện tính cởi mở cao, hấp dẫn, tạo ra những lợi thế so sánh trong
cuộc cạnh tranh quyêt liệt này.
Lần thứ hai sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc
hội nước CHXHCNVN thông qua ngày 23/12/1992. Rõ ràng là qua quá trình thực
hiện, chúng ta mới hiểu biết nhiều hơn về đầu tư nước ngoài và cũng khẳng định
được nhận thức trước đây của chúng ta về vấn đề này. Vì vậy lần sửa đổi bổ sung này
chúng ta hoàn chỉnh thêm một bước bộ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng về hoạt động ĐTNN, chúng ta đã có
quan điểm rõ ràng về thu hút và sử dụng nguồn lực bên ngoài để phục vụ cho sự
nghiệp CNH-HĐH nền kinh tế. Chúng ta coi nguồn lực trong nước là quyết định,
nguồn lực bên ngoài là quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của nên kinh tế.
Chúng ta chủ trương, đồng thời với việc tận dụng triệt để mọi thế mạnh và nguồn lực

trong nước, cũng cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để khai có hiệu quả nguồn lực bên
ngoài.
3.Đánh giá chung:
Từ sự phân tích trên, có thể kết luận rằng việc tiếp nhận vốn phát triển từ nước
ngoài là lợi thế hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước đi sau. Dù những gì có khả
năng gây ra bất lợi (xét thuần túy liên quan đến kinh tế) thì đây vẫn là một xu hướng
khách quan, một sự lựa chọn cho phép các nước nghèo thoát khỏi tình trạng lạc hậu,
để gia nhập nhanh hơn vào quỹ đạo phát triển hiện đại (Vốn nước ngoài và chiến
lược phát triển kinh tế ở Việt Nam- Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Lê Văn Châu).
II.THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA KHU VỰC KINH TẾ CÓ VỐN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ 1988 đến nay:
a)Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là một nguyên nhân quan trọng trong gia tăng và phân hóa thu
nhập của các nhóm dân cư ở các vùng. Khi phân tích khả năng đầu tư của từng vùng
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đối với sự phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, các nhà kinh tế đều thừa nhận những
vùng kinh tế phát triển mạnh là vùng thu hút đầu tư cao nhất. Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam là một minh chứng cho nhận định trên. Không ai có thể phủ nhận vai
trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là những nước tăng trưởng
kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn vốn như nước ta.
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
FDI/GDP 14% 15% 17.7% 24.3% 24.3% 27.1% 28.1% 28.3%
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
FDI/GDP 29% 27.6% 29.6% 31.1% 32.1% 33.7% 35.3% 35.5%
Bảng1:Tỉ lệ vốn FDI/GDP đơn vị phần trăm (nguồn tổng cục thống kê)
Theo cục đầu tư nước ngoài, dự kiến vốn FDI đăng kí ở Việt Nam giai đoạn
2006 đến 2010 khoảng 25 tỷ USD. Đây là một con số dự đoán theo hướng thận trọng.
Một số nhà nghiên cứu kinh tế ở Việt Nam và thế giới còn cho rằng con số này khả

năng sẽ tăng lên 46 tỷ USD đăng ký và 29 tỷ thực hiện. Việc gia tăng nguồn vốn FDI
vào Việt Nam sẽ hứa hẹn tạo ra nhiều chỗ việc làm mới nhưng đòi hỏi người lao
động phải có chuyên môn kinh tế. Như chúng ta đã biết, giai doạn 2000-2004 FDI
vào Việt Nam liên tục tăng kéo theo chỗ việc làm được tạo ra ngày càng nhiều. Nếu
như năm 2000 mới chỉ là 407565 việc làm thì đến năm 2004 dã là 1044851 việc làm
và do vậy suất đầu tư cho một chỗ cũng giảm mạnh do phần lớn các doanh nghiệp
FDI đã đi vào giai đoạn sản xuất. Trên cơ sở tính toán suất đầu tư cho một chỗ việc
làm của khu vục kinh tế này và dự báo nguồn vốn FDI thực hiện ta có thể dự báo chỗ
việc làm cho khu vực kinh tế này tạo ra từ nay đến năm 2010 như sau.
FDI thực hiện
(triệu đồng)
61.104.000 73.536.000 89.888.000 110.640.000 136.336.000
Số lao động
(người)
1.163.186 1.00.685 1.712.152 2.107.428 2.596.876
Năm 2006 2007 2007 2009 2010
Bảng 2:Dự đoán tỷ lệ vốn trên tỷ lệ lao động,vốn FDI tính theo triệu đồng
(nguồn tạp chí kinh tế)
14

×