Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế II cường độ thương mại và lợi thế so sánh của việt nam và các nước RCEP giai đoạn 2010 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.79 KB, 27 trang )

CHƯƠNG 1: CÁC CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VÀ
TỔNG QUAN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

1.1. Các chỉ số đo lường quan hệ thương mại
1.1.1. Chỉ số cường độ thương mại (TII)
Để phân tích tầm quan trọng của các nhóm đối tác thương mại, chỉ số cường
độ thương mại được 3oil à công cụ hữu hiệu nhất. Chỉ số cường độ thương mại –
Trade Intensity Index (TII) nhằm xác định giá trị thương mại giữa hai quốc gia lớn
hơn/nhỏ hơn giá trị được kỳ vọng trên cơ sở tầm quan trọng của hai quốc gia này
trong thương mại quốc tế. Chỉ số này được xác định bằng tỷ trọng xuất khẩu của
một quốc gia sang nước đối tác, chia cho tỷ trọng xuất khẩu của thế giới sang nước
đối tác đó. Chỉ số này được tính theo công thức như sau:
(

)
TII

=

ij

(

)

(Nguồn: Ngân hàng Thế giới World Bank)
Trong đó:

Xij là giá trị xuất khẩu của quốc gia isang quốc gia j
Xwj là giá trị xuất khẩu của thế giới sang quốc gia j
Xitlà tổng xuất khẩu của quốc gia i


Xwtlà tổng xuất khẩu thế giới tương ứng.

Chỉ số lớn hơn (nhỏ hơn) 1 chỉ ra một luồng thương mại song phương lớn
hơn (nhỏ hơn) so với dự kiến, đã tính đến tầm quan trọng của quốc gia đối tác trong
thương mại thế giới. Chỉ số cường độ thương mại đối với một quốc gia càng lớn cho
thấy các quốc gia đó là những khách hàng quan trọng đối với xuất khẩu hàng hóa
Việt Nam.

3


1.1.2. Chỉ số cường độ xuất khẩu (EII) và Chỉ số cường độ nhập khẩu (III)
Chỉ số cường độ thương mại được chia thành Chỉ số cường độ xuất khẩu
(EII) và Chỉ số cường độ nhập khẩu (III) để xem xét mô hình xuất khẩu và nhập
khẩu. Theo hàng Thế giới World Bank Chỉ số cường độ xuất khẩu (EII) và Chỉ số
cường độ nhập khẩu(III) được tính như sau:
/

EIIij =

/(



)

/

IIIij =


/(



)

Trong đó: Xij; Mij là giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia i sang quốc
gia j (cụ thể là Việt Nam sang các nước RCEP)
Xi; Milà giá trị xuất khẩu; nhập khẩu của nước i (Việt Nam)
Mj; Xjlà tổng giá trị nhập khẩu; xuất khẩu của nước j (các nước
RCEP)
Mw; Xw là tổng giá trị nhập khẩu; xuất khẩu của thế giới
1.1.3. Chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ (RCA)
Chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ (RCA)cho thấy mức độ cạnh tranh của một sản
phẩm ở các nước xuất khẩu so với thị phần sản phẩm trong thương mại thế giới.
Một sản phẩm có RCA cao thì có khả năng cạnh tranh và có thể được xuất khẩu
sang các quốc gia có RCA thấp. Các quốc gia có RCA tương tự trong cùng nhóm
sản phẩm thì khó có thể có cường độ thương mại song phương cao trừ khi có liên
quan đến thương mại nội ngành. Việc tính toán RCA, nếu ước tính ở mức cao của
sản phẩm phân tổ, có thể tập trung chú ý vào các sản phẩm phi truyền thống khác có
thể được xuất khẩu thành công. Chỉ số RCA của quốc gia i cho sản phẩm j thường
được đo bằng thị phần của sản phẩm trong xuất khẩu của quốc gia liên quan đến thị
phần của nó trong thương mại thế giới:

4


RCAki =
Trong đó:


/

/

RCAki là lợi thế so sánh của nước i về mặt hàng k
Xki là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm k của nước i
Xi là tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia i
Xkw là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm k của thế giới
Xw là tổng giá trị xuất khẩu của thế giới

Giá trị RCA nhỏ hơn1 ngụ ý rằng đất nước có một bất lợi so sánh bộc lộ
trong sản phẩm. Tương tự, nếu chỉ số này lớn hơn 1, quốc gia được cho là có lợi thế
so sánh bộc lộ trong sản phẩm.
Trong nghiên cứu hiện tại, RCA được tính cho các thành viên trong RCEP
trên 10 nhóm hàng hóa chính trong giai đoạn 2010-2017 để xác định lợi thế so sánh
của mỗi nước trong thương mại. Nhóm sẽ tiến hành tính toán chỉ số RCA cho 10
nhóm hàng chính theo phân loại của UN Comtrade, bao gồm:


Đồ uống và thuốc lá



Vật liệu thô, không chế biến được, trừ nhiên liệu



Nhiên liệu khoáng, dầu nhờn và các vật liệu liên quan




Dầu và mỡ động vật



Hóa chất



Hàng sản xuất được phân loại chủ yếu theo nguyên liệu



Máy móc thiết bị vận tải



Các mặt hàng khác



Hàng hóa. & giao dịch



Thực phẩm và động vật sống

(Theo Cơ sở Dữ liệu Thống kê Thương mại Quốc tế UN Comtrade)

5



1.2. Tổng quan thương mại Việt Nam giai đoạn 2010-2017
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007, thương mại hàng hóa của
Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực, rõ nét. Cán cân thương mại hàng hóa đã
chuyển từ mức thâm hụt cao trong những năm từ 2006-2011 sang mức thặng dư
hoặc chỉ thâm hụt nhẹ trong những năm vừa qua (Việt Nam từ thâm hụt 4.759 tỷ
USD năm 2015, đã thặng dư 0.602 tỷ đồng năm 2016). Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu cũng có những thay đổi theo hướng tích cực. Tỷ trọng nông sản, thủy
sản, nhiên liệu và khoáng sản đã giảm mạnh, đặc biệt là từ năm 2011 trở lại đây. Cụ
thể, tỷ trọng nhóm hàng này đã giảm từ 32% trong năm 2011 xuống chỉ còn 14,5%
trong năm 2016. Đối với nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu các nguyên liệu thô phục vụ
sản xuất, xuất khẩu; máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng cũng có xu hướng tăng
trong khi giảm nhập khẩu ở nhóm hàng tiêu dùng. Sự phát triển về ngoại thương
hàng hóa của Việt Nam còn được khẳng định qua bảng xếp hạng về giao dịch
thương mại hàng hóa của Việt Nam qua các năm. Nếu như năm 2006, xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam lần lượt ở vị trí 50 và 44 trên toàn thế giới, thì
đến năm 2015, xuất khẩu đã tăng tới 23 bậc, xếp ở vị trí thứ 27; trong khi nhập khẩu
cũng tăng 16 bậc, xếp ở vị trí thứ 28 trong tổng số các nước, vùng lãnh thổ trên toàn
thế giới (Tổng cục hải quan).
1.2.1 Tình hình xuất khẩu
- Về quy mô tăng trưởng xuất khẩu: Năm 2010, tình hình kinh tế hồi phục
sau cuộc khủng hoảng thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
đạt 72,24 tỷ USD (theo Worldbank), tăng 26.5% so với cùng kỳ năm 2009 và chiếm
69,72% tổng GDP của cả nước.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa được xếp vào mức cao nhất
khu vực Đông Nam Á, chỉ đứng sau Trung Quốc.

6



Xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010-2016
200000000
180000000
160000000
140000000
120000000
100000000
80000000
60000000
40000000
20000000
0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

Export (US$ Thousand) 72236665 96905674 114529171 132032854 150217138 162016742 176580786


(Theo: Worldbank)
Hình 1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ 2010 - 2016
Nhìn chung kể từ năm 2010 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt
tốc độ tăng trưởng ổn định. Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam đạt 176.58 tỷ
USD, tăng trưởng 8.9% so với năm 2015. So với 2010, kim ngạch xuất khẩu Việt
Nam đã tăng 2.44 lần.
Trong thời gian tới, qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam
được sự báo là sẽ tiếp tục duy trì mức tăng trưởng ổn định do có những yếu tố hỗ trợ
như tiếp tục hưởng ưu đãi thuế quan với tổng số trên 99% dòng thuế của ASEAN +
6 là 0% theo ATIGA; tự do hóa thuế quan; xóa bỏ hàng rào phi thuế; cải thiện yêu
cầu về quy tắc xuất xứ; thuận lợi hóa thương mại; đơn giản, hiện đại hóa thủ tục hải
quan; hài hòa tiêu chuẩn và chứng nhận sự phù hợp; áp dụng các biện pháp kiểm
dịch vệ sinh động thực vật phù hợp.
Ngoài ra, Việt Nam tiếp tục có ưu thế khi xuất khẩu sang thị trường Lào và
Cam-pu-chia thông qua: Bản thỏa thuận ưu đãi thuế suất thuế nhập khẩu với Lào và
Bản thỏa thuận thúc đẩy thương mại song phương với Cam-pu-chia. Ngoài ra, nền
kinh tế thế giới được dự báo là tiếp tục phục hồi với tốc độ tăng trưởng GDP cao
.Trong nước, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát sẽ tạo môi
trường thuận lợi cho phát triển kinh tế. Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
7


trong năm 2017 sẽ được triển khai mạnh mẽ hơn, sâu rộng và toàn diện cũng làm
tăng thêm các động lực phát triển kinh tế đất nước và góp phần gia tăng kim ngạch
xuất khẩu.
- Về hàng hóa xuất khẩu: Trước năm 2010, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam chủ yếu là gạo và dầu thô. Kể từ năm 2010 đến nay, mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam rất đa dạng phong phú. Ngoài 2 nhóm hàng xuất khẩu truyền thống là
dầu thô và gạo thì các doanh nghiệp ở Việt Nam còn xuất khẩu nhiều nhóm hàng
như điện thoại các loại & linh kiện sản phẩm điện tử & linh kiện; sắt thép các loại,

máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng.
Ngoài ra, một số sản phẩm xuất khẩu là thế mạnh của doanh nghiệp Việt
Nam như hàng dệt may, giày dép, thủy sản, cà phê, cao su cũng đã được đẩy mạnh
xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng chủ yếu trong năm 2017 đạt hơn
152 tỷ USD, tăng 16,92% so với năm 2016. Trong đó, lớn nhất là nhóm hàng điện
thoại các loại và linh kiện, kim ngạch xuất khẩu đạt 37.4 tỷ USD, tăng 19,8% so với
năm 2016 và chiếm 24,58% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam. Tiếp theo là hàng dệt may, da giày có kim ngạch xuất khẩu đạt 17,6 tỷ USD,
tăng 8,64% so với năm 2016.

(Theo: The Atlas of Complexity, Harvard University)
8


Hình 2: Tỷ trọng các mặt hàng chủ lực của Việt Nam năm 2017
- Về thị trường xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam hiện
rất đa dạng, bao gồm tất cả các châu lục. Nếu như trước đây thị trường xuất khẩu
chủ yếu của Việt Nam là Liên Xô thì hiện nay Việt Nam đã tham gia hoạt động xuất
khẩu với 220 quốc gia trên thế giới. Trong năm 2017 thị trường xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam là Hoa Kỳ, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 37.387 tỷ USD, chiếm
tỷ trọng 34,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Việt Nam xuất khẩu
sang Hoa Kỳ chủ yếu các mặt hàng hàng dệt may, giày dép các loại, máy vi tính, sản
phẩm điện tử, điện thoại các loại và linh kiện, gỗ và sản phẩm từ gỗ; máy móc thiết
bị và dụng cụ và thủy sản. Thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam là Trung
Quốc, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 25,7 tỷ USD, chiếm 23,57%. Các mặt hàng
Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc bao gồm hàng dệt may, máy vi tính,
sản phẩm điện tử và linh kiện; giày dép các loại; gỗ và sản phẩm gỗ; dầu thô; máy
móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu
đứng vị trí thứ ba của Việt Nam, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 13,1 tỷ USD,
chiếm 12,01%. Tiếp theo là các thị trường như Hàn Quốc, Hồng Kông, Đức,

Singapre, Thái Lan, Đài Loan.

(Theo: The Atlas of Complexity, Harvard University)

Hình 3: Thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2017
9


1.2.2 Tình hình nhập khẩu
- Về quy mô nhập khẩu: Đến năm 2010, tình hình kinh tế thế giới hồi phục
nên nhờ đó kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 84,84 tỷ USD, tăng
21,28% so với cùng kỳ năm 2009 và chiếm 81,89% tổng GDP của cả nước.
Nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010-2017
200000000
180000000
160000000
140000000
120000000
100000000
80000000
60000000
40000000
20000000
0

2010

2011

2012


2013

2014

2015

2016

Import (US$ Thousand) 84838552 106749853113780430132032531147839047165775857174978350

(Theo: Worldbank)
Hình 4: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ 2010-2016
Năm 2016, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam đạt 174,978 tỷ USD, tăng
4.9% so với năm 2015. So với năm 2010, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam đã
tăng hơn 2.06 lần. Năm 2016 cũng là năm thương mại Việt Nam có sự chuyển biến
từ nhập siêu sang xuất siêu.
Ngoài ra, nền kinh tế thế giới được dự báo là tiếp tục phục hồi với tốc độ
tăng trưởng GDP cao (IMF dự báo tăng trưởng kinh tế của thế giới năm 2017 ở
mức 3,4%, WB: 2,8%).
- Về mặt hàng nhập khẩu: Trong nhiều năm qua, chiếm tỷ trọng trên 60%
kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là những mặt hàng nhập khẩu thiết
yếu, nguyên phụ liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước như: xăng dầu các loại;
máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện; chất dẻo nguyên liệu; giấy; gỗ và sản phẩm gỗ; hàng điện gia dụng và linh
kiện; linh kiện và phụ tùng ô tô; hóa chất và sản phẩm hóa chất.
10


(Nguồn: The Atlas of Complexity, Harvard University)

Hình 5: Tỷ trọng các mặt hàng nhập khẩu chủ lực năm 2017
Theo số liệu thống kê, Năm 2017, kim ngạch nhập khẩu

của Việt Nam đạt

139 tỷ USD, tăng 10,3% so với năm 2016; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện đạt giá trị nhập khẩu 16,34 tỷ USD, tăng gần 80%so với năm 2016; Các loại
thép và linh kiện nhập khẩu đạt 4.32 tỷ USD, tăng 28,58% và nhiều các sản phẩm
khác như vài, gỗ, chất dẻo, hóa chất, xăng dầu, nguyên phụ liệu dệt may, da giầy.
Trong đó, nhập khẩu tăng mạnh nhất là các mặt hàng máy móc thiết bị, dụng cụ và
phụ tùng, máy vi tính và linh kiện điện tử, xăng dầu các loại, máy móc thiết bị, gỗ
và các sản phẩm gỗ, linh kiện phụ tùng ô tô, kim loại.
- Về thị trường nhập khẩu: Trong những năm vừa qua Trung Quốc luôn ở vị
trí số 1 về thị trường nhập khẩu của Việt Nam. Đây là đối tác lớn nhất cung cấp
hàng hoá cho Việt Nam với tỷ trọng chiếm 28,54% tổng kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam năm 2016. Tuy nhiên, đến năm 2017, Hàn Quốc đã vươn lên dẫn đầu với
34,86% tổng nhập khẩu của nước ta, với mặt hàng điện tử và các loại linh kiện và

11


thiết bị tương tự. Tiếp theo là các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Thái Lan, và
Đài Loan.

(Nguồn: The Atlas of Complexity, Harvard University)
Hình 6: Thị trường nhập khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2017
Như vậy, kể từ năm 2010 - 2017 hoạt động thương mại của Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó thì hoạt
động thương mại của Việt Nam cũng đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó đáng chú ý
là Việt Nam luôn trong tình trạng nhập siêu và mới chỉ chuyển hướng sang xuất

siêu mới đây. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại của Việt Nam,
nhà nước cũng như các tổ chức tư nhân, cá nhân cần có những phương pháp đúng
đắn và hiệu quả để có thể phát huy cũng như ngày càng phát triển hoạt động thương
mại nói riêng, cũng như nền kinh tế nói chung.

12


CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

2.1. Đánh giá các chỉ số TII, EII, III của Việt Nam với các nước trong RCEP
2.1.1. Chỉ số cường độ thương mại TII
Chỉ số cường độ thương mại của Việt Nam với các nước RCEP đước tính
toán dựa vào số liệu thống kê thương mại của UN Comtrade và được thể hiện trong
bảng dưới đây:
Bảng 1: Chỉ số cường độ thương mại, cường độ xuất khẩu và cường độ nhập
khẩu của Việt Nam với RCEP giai đoạn 2010-2017
Năm

2010

2011

2012

2013

2014

2015


2016

2017

Cường độ nhập khẩu (III)

2.68

2.76

2.81

3.08

3.18

2.83

2.77

2.66

Cường độ xuất khẩu (EII)

1.58

1.80

1.94


1.53

1.53

1.40

1.85

1.52

Cường độ thương mại (TII) 1.72

1.73

1.66

1.59

1.51

1.47

1.54

1.56

Nguồn: Tính toán từ UN Comtrade
Tất cả các chỉ số TII, EII và III giữa Việt Nam và RCEP từ năm 2010 đến
năm 2017 luôn lớn hơn 1 phản ánh RCEP là đối tác thương mại rất quan trọng của

Việt Nam cả về xuất khẩu lẫn nhập khẩu và lớn hơn so với mức trung bình của thế
giới tới Việt Nam. Một lý do giải thích cho điều này là khoảng cách giữa Việt Nam
và các nước RCEP. Theo mô hình lực hấp dẫn, khoảng cách giữa các quốc gia càng
nhỏ thì quan hệ thương mại quốc tế giữa chúng càng lớn, trong khi đó RCEP bao
gồm các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New
Zealand đều có khoảng cách địa lí rất gần với Việt Nam. Điều này góp phần làm
tăng cường độ thương mại giữa các nước cũng như làm tăng giá trị của các chỉ số.
Tuy nhiên, chỉ số cường độ thương mại TII dù duy trì ở mức lớn hơn 1 nhưng lại có
xu hướng giảm dần từ 1.72 năm 2010 xuống còn 1.56 năm 2017. Bên cạnh đó, chỉ
số cường độ nhập khẩu của Việt Nam luôn cao hơn chỉ số cường độ xuất khẩu cho
thấy đối với các đối tác trong RCEP, Việt Nam phần nhiều ở vị thế nhập siêu.

13


2.1.2. Chỉ số cường độ xuất khẩu EII
Chỉ số cường độ xuất khẩu của Việt Nam với các nước RCEP giai đoạn
2010-2017 được tính toán dựa trên số liệu thứ cấp tổng hợp từ UN Comtrade và
được thể hiện như bảng dưới đây.
Bảng 2: Chỉ số cường độ xuất khẩu EII của Việt Nam với các nước thành viên
RCEP giai đoạn 2010-2017
Năm

2010

2011

2012

2013


2014

2015

2016

2017

Trung Quốc

1.16

1.23

1.11

0.94

0.93

0.98

1.22

1.51

Nhật Bản

2.32


2.40

2.32

2.27

2.21

2.25

2.12

1.97

Hàn Quốc

1.52

1.72

1.60

1.81

1.67

2.02

2.47


2.43

Ấn Độ

0.59

0.62

0.57

0.70

0.67

0.63

0.66

0.67

Úc

2.80

2.07

2.01

2.09


2.14

1.45

1.33

1.13

New Zealand

0.85

7.76

0.76

0.96

0.91

0.89

0.87

0.90

Brunei

1.17


0.79

0.74

0.68

1.69

0.79

0.66

0.55

Campuchia

66.58

75.93

61.70

49.72

33.87

22.39

15.65


-

Indonesia

2.21

2.46

1.93

1.87

2.96

1.99

1.70

1.43

Lào

22.73

20.55

26.18

16.62


13.30

13.81

10.24

-

Myanmar

2.48

1.78

2.36

2.67

2.60

2.22

2.59

2.87

Singapore

1.42


1.09

0.98

1.01

0.88

1.09

0.74

0.72

Philipines

6.09

4.46

4.50

3.68

4.17

2.87

2.27


2.19

Malaysia

2.65

2.74

3.61

2.26

2.30

2.02

1.75

1.71

Thái Lan

1.35

1.57

1.80

1.71


1.86

1.57

1.66

-

Nguồn: Tính toán từ UN Comtrade
Chỉ số cường độ xuất khẩu EII của Việt Nam với Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc,
Campuchia, Indonesia, Myanmar, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Lào đều lớn
hơn 1 qua các năm cho thấy đây là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt
Nam. Trong đó Camphuchia, Lào và Philippines là 3 quốc gia mà Việt Nam có
14


cường độ xuất khẩu cao nhất (năm 2010, EII với Campuchia là 66.58, với Lào là
22.73 và với Philippines là 6.09) nhưng lại có xu hướng giảm mạnh nhất (năm 2016
EII với Campuchia là 15.65, với Lào là 10.24 và với Philippines là 2.27). Có xu
hướng này là bởi trong những năm gần đây, Việt Nam tham gia hầu hết với các tổ
chức kinh tế thế giới và khu vực; ký kết nhiều hợp tác thương mại song phương và
đa phương với tổ chức và quốc gia trên thế giới và khu vực; tham gia tích cực vào
các khu mậu dịch dự do, nhờ vậy thị trường xuất khẩu của Việt Nam liên tục được
mở rộng, tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam ra thị trường thế giới luôn cao và tăng
nhanh hơn so với xuất khẩu vào Lào, Campuchia và Philippines. Các nước còn lại
gồm Trung Quốc, New Zealand, Singapore và Brunei thì chỉ số EII dao động trên
dưới 1 qua các năm. Với Ấn Độ, EII chỉ dao động từ 0.57 đến 0.70, thấp nhất trong
nhóm nước RCEP cho thấy giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang quốc gia này còn
thấp, từ đó cần có các nghiên cứu và giải pháp kiến nghị để tăng giá trị xuất khẩu tới

thị trường tiêu thụ tiềm năng ở quốc gia đông dân thứ 2 thế giới này.
2.1.3. Chỉ số cường độ nhập khẩu III
Chỉ số cường độ nhập khẩu III của Việt Nam với các nước thành viên RCEP
trừ Brunei, Myanmar và Philippines thì đều lớn hơn 1 từ năm 2010 đến 2017 phản
ánh RCEP có vai trò đặc biệt trong hoạt động nhập khẩu của Việt Nam. Trong đó,
cường độ nhập khẩu với Lào đặc biệt cao (III đều trên 10, thấp nhất là 11.49 vào
năm 2010) do kinh ngạch xuất khẩu của nước này với thế giới rất thấp (tính toán từ
UN Comtrade) nên khi thay vào công thức tính đã làm cho III tăng cao hơn so với
các nước khác. Ngoài ra, các nước mà Việt Nam nhập khẩu nhiều từ RCEP là Trung
Quốc, Hàn Quốc, Singapore và Thái Lan. Đặc biệt là Hàn Quốc với chỉ số III cao và
có xu hướng tăng nhanh trong khi với các nước khác III lại có xu hướng giảm dần
(III tăng 76.34%, từ mức 3.65 vào năm 2010 lên đến 6.44 vào năm 2017) cho thấy
Việt Nam ngày càng nhập khẩu nhiều từ Hàn Quốc. Theo Tổng cục Hải quan, lịch
sử quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc ghi nhận thâm hụt thương mại của Việt
Nam với thị trường này đạt mức cao nhất từ trước tới nay vào năm 2017 với mức
nhập siêu của nước ta lên đến khoảng 32 tỷ USD, tăng 54.8% so với năm trước và
xấp xỉ với mức nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc của cả năm 2016. Hàn
15


Quốc là bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam và cũng là thị trường nhập khẩu lớn thứ
hai sau Trung Quốc, tuy nhiên, đây là đối tác Việt Nam đang chịu thâm hụt lớn nhất.
Bên cạnh đó, cường độ nhập khẩu với Brunei và Myanmar đạt mức thấp nhất
trong các nước thể hiện hoạt động nhập khẩu của Việt Nam từ 2 nước này là không
nhiều.
Bảng 3: Chỉ số cường độ nhập khẩu III của Việt Nam với các nước thành viên
RCEP giai đoạn 2010-2017
Năm

2010


2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

Trung Quốc

2.58

2.57

2.62

3.09

3.40

2.79

2.58


2.45

Nhật Bản

1.87

1.95

2.11

2.08

2.14

1.93

1.78

1.67

Hàn Quốc

3.65

4.06

4.57

5.30


4.87

5.07

5.83

6.44

Ấn Độ

1.98

1.93

1.98

2.50

2.57

1.95

2.03

2.13

Úc

1.16


1.31

1.13

1.13

1.43

1.34

1.30

1.18

New Zealand 1.70

1.50

1.54

1.41

1.37

1.02

0.94

1.04


Brunei

0.20

2.53

7.37

7.46

1.21

0.73

1.28

0.72

Campuchia

3.03

3.72

3.02

2.19

1.77


2.09

2.01

-

Indonesia

2.18

1.94

1.88

1.85

1.74

1.75

1.87

1.64

Lào

11.49

17.20


19.48

17.19

21.05

17.34

15.25

-

Myanmar

1.40

1.76

1.27

0.95

1.06

0.50

0.57

0.72


Singapore

3.71

4.18

3.98

3.73

3.93

3.37

2.97

2.55

Philippines

1.96

2.51

1.79

1.34

0.76


1.19

1.17

1.02

Malaysia

3.15

2.82

2.64

2.61

2.34

2.15

2.68

2.28

Thailand

5.28

5.17


4.57

4.42

4.33

4.00

3.87

-

Nguồn: Tính toán từ UN Comtrade
Như vậy, mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và khối RCEP luôn chặt
chẽ từ năm 2010 đến 2017 thể hiện bằng việc chỉ số TII luôn lớn hơn 1. RCEP là thị
trường xuất nhập khẩu quan trọng của Việt Nam nhờ nhu cầu thị trường lớn, vị trí
địa lí thuận lợi, hợp tác kinh tế chặt chẽ và lâu dài. Tuy nhiên quan hệ thương mại
16


giữa Việt Nam và từng nước thành viên lại không đồng đều, có sự phân hóa lớn và
vị thế của Việt Nam với nhóm RCEP còn nghiêng nhiều về phía nhập siêu. Đây là
một khó khăn thử thách của Việt Nam khi tham gia RCEP, đòi hỏi cần có hướng
nghiên cứu giải pháp cho tương lai.
2.2. Phân tích chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ (Revealed Comparative Advantage RCA) giữa Việt Nam và các nước trong khối RCEP
Bảng 4: Phân loại 10 nhóm hàng
Ký mã hiệu Description

Mô tả


0

Food and live animals

Thực phẩm và động vật sống

1

Beverages and tobacco

Các loại đồ uống và thuốc lá

2
3
4
5
6
7
8
9

Crude materials,

inedible, Các nguyên liệu thô, không ăn được,

except fuels

ngoại trừ nhiên liệu đốt


Mineral fuels,

lubricants Khoáng sản năng lượng, dầu bôi trơn

and related materials

công nghiệp và các vật liệu liên quan

Animal and vegetable oils

Dầu, mỡ động vật và thực vật

and fats
Chemicals
Manufact

Hóa chất
goods classified Hàng chế tạo, phân loại theo nguyên

chiefly by material
Machinery and

liệu
transport Máy móc và các thiết bị vận tải

equipment
Miscellaneous

Mặt hàng chế tạo khác


manufactured articles
Commod. & transacts. Not

Các hàng hóa và giao dịch khác chưa

class. Accord. To kind

được phân loại
Nguồn: UN Comtrade

Bảng dưới đây đưa ra kết quả tính toán chỉ số RCA trung bình của Việt Nam
và các nước khác trong RCEP trong giai đoạn từ 2010 đến 2017 cho 10 nhóm sản
phẩm theo phân loại rev.1 của UN Comtrade.
17


Bảng 5: Giá trị trung bình của chỉ số RCA của Việt Nam và các nước trong
RCEP đối với 10 nhóm hàng chính trong giai đoạn 2010-2017
Ký mã hiệu

0

1

2

3

4


5

6

7

8

Việt Nam

2.356 0.454 0.716 0.482 0.310

0.248 0.927 0.852 2.697 0.104

Trung Quốc

0.412 0.168 0.177 0.118 0.055

0.554 1.338 1.365 2.249 0.034

Nhật Bản

0.090 0.123 0.408 0.141 0.042

0.914 0.994 1.720 0.750 1.581

Hàn Quốc

0.141 0.340 0.320 0.594 0.028


1.050 1.067 1.641 0.743 0.025

Ấn Độ

1.430 0.508 1.060 1.206 0.688

1.214 2.059 0.443 1.217 0.398

Úc

1.750 1.171 8.512 2.193 0.451

0.479 0.493 0.160 0.186 1.134

New Zealand 8.194 4.328 3.249 0.235 0.644

0.448 0.649 0.211 0.320 1.031

Brunei

0.018 0.039 0.048 7.426 0.001

0.230 0.043 0.066 0.080 0.044

Cambodia

0.562 0.491 0.828 0.000 0.399

0.046 0.169 0.174 7.307 0.025


Indonesia

1.077 0.740 2.608 2.096 22.383 0.550 1.060 0.347 0.998 0.005

Malaysia

0.538 0.657 0.758 1.378 14.536 0.638 0.743 1.199 0.848 0.123

Myanmar

4.441 0.189 2.906 2.664 0.042

0.016 1.000 0.043 1.017 0.841

Lao

2.311 5.440 7.461 0.033 0.004

0.336 2.418 0.076 0.904 0.003

Philippines

0.995 0.854 1.139 0.162 4.404

0.308 0.697 1.645 0.776 1.721

Singapore

0.240 1.155 0.191 1.185 0.144


1.165 0.307 1.409 0.738 2.040

Thailand

2.114 0.699 1.388 0.333 0.463

0.951 1.027 1.222 0.901 0.003

Nguồn: Tính toán từ số liệu từ UN Comtrade
Giá trị RCA trung bình cho Thực phẩm và động vật sống – nhóm 0 của Việt
Nam, Ấn Độ, Úc, New Zealand, Indonesia, Lào và Thái Lan đều lớn hơn 1. Điều
này chứng tỏ 7 quốc gia trên có lợi thế so sánh trong xuất khẩu các sản phẩm thuộc
nhóm Thực phẩm và động vật tươi sống. Xếp sau 7 quốc gia này là các nước như
Malaysia, Campuchia và Philippines với chỉ số RCA trung bình nhỏ hơn 1 và đáng
chú ý chỉ số này của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunei hay Singapore còn
thấp hơn 0.5, số liệu này cho thấy các quốc gia đã nêu không có lợi thế so sánh
trong xuất khẩu Thực phẩm và động vật tươi sống. Đây càng tạo cơ sở cho việc trao
đổi thương mại các mặt hàng thực phẩm giữa các nhóm quốc gia có lợi thế so sánh
và các nhóm không có lợi thế so sánh trong xuất khẩu thực phẩm. Cụ thể, Việt Nam
18

9


có thể thu được lợi ích lớn hơn nữa sau khi tham gia vào RCEP thông qua việc xuất
khẩu thực phẩm tới các quốc gia có chỉ số RCA thấp như Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Singapore và Brunei.
Đối với nhóm hàng 1 – Đồ uống và thuốc lá, chỉ số RCA của Úc, New
Zealand, Lào và Singapore cao, còn chỉ số RCA ở các nước còn lại như Việt Nam,
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc thấp hơn 1. Giá trị trung bình của RCA cho thấy,

Úc, New Zealand, Lào và Singapore có lợi thế so sánh trong các sản phẩm Đồ uống
và thuốc lá, và những nước này có thể xuất khẩu những mặt hàng này tới các quốc
gia không có lợi thế so sánh trong sản xuất mặt hàng này như Việt Nam, Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Điều này cho thấy có sự bổ sung thương mại trong mặt
hàng Đồ uống và thuốc lá giữa các quốc gia trong RCEP.
Các nguyên liệu thô, ngoại trừ nguyên liệu đốt – nhóm hàng 2 là nhóm sản
phẩm dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia xuất khẩu. Chỉ số RCA
đối với nhóm hàng này của Ấn Độ, Úc, New Zealand, Lào Indonesia, và Thái Lan
cao và lớn hơn 1, còn chỉ số này của Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore
thì thấp và nhỏ hơn 1. Giá trị này của RCA cho thấy, các nước mà có lợi thế trong
xuất khẩu nguyên liệu thô như Ấn Độ, Úc, New Zealand, Lào, Indonesia, và Thái
Lan có thể xuất khẩu những mặt hàng này đến các quốc gia có chỉ số RCA trong
mặt hàng này còn thấp như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Hàn
Quốc, Brunei, Campuchia. Từ đó, tạo cơ sở cho tính bổ sung thương mại giữa các
quốc gia trong RCEP.
Bên cạnh đó, Khoáng sản năng lượng, dầu bôi trơn công nghiệp và các vật
liệu liên quan – nhóm 3, cũng là những mặt hàng mà phụ thuộc nhiều vào nguồn tài
nguyên thiên nhiên của quốc gia xuất khẩu. Tuy nhiên, các quốc gia, kể cả không có
lợi thế về mặt tài nguyên thiên nhiên, vẫn có thể xây dựng các ngành chế biến, tinh
lọc các sản phẩm thô để tạo ra các thành phẩm như dầu thô, dầu nhớt này. Chỉ số
RCA trung bình của nhóm hàng này cao ở các nước Ấn Độ, Úc, Malaysia,
Indonesia, Brunei và Singapore, và thấp ở các quốc gia còn lại như Việt Nam, Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Philippines, Thái Lan, đặc biệt đối với
Campuchia, chỉ số RCA còn tiến gần đến 0. Điều này có nghĩa là các quốc gia có
19


lợi thế so sánh trong sản xuất các sản phẩm Khoáng sản năng lượng, dầu nhớt công
nghiệp và các sản phẩm liên quan, có thể xuất khẩu những mặt hàng này tới các
quốc gia không có lợi thế so sánh cho mặt hàng này.

Đối với nhóm hàng 4 – Dầu, mỡ động và thực vật, Indonesia, Malaysia và
Philippines là 3 nước có chỉ số RCA trung bình cao và lớn hơn 1. Các quốc gia còn
lại trong RCEP đều có chỉ số RCA thấp hơn 1, và một số trong đó còn có chỉ số
RCA tiệm cận về 0 như Brunei, Lào, Myanmar. Điều này mở ra cơ hội cho các nước
có lợi thế so sánh trong nhóm hàng Dầu, mỡ động và thực vật, xuất khẩu sang các
quốc gia gặp bất lợi so sánh trong lĩnh vực này. Từ đó giúp thiết lập tính bổ sung
thương mại giữa các nước trong RCEP.
Hóa chất là ngành công nghiệp dựa trên nền tảng tri thức, việc một quốc gia
đạt được lợi thế so sánh trong lĩnh vực này thể hiện năng lực sản xuất của quốc gia
này. Chỉ số RCA trung bình trong nhóm hàng 5 – Hóa chất của Hàn Quốc, Ấn Độ,
Singapore cao, nghĩa là ba quốc gia trên có lợi thế so sánh trong nhóm sản phẩm
này. Điều này chỉ ra rằng, những nước có chỉ số RCA thấp trong nhóm hàng hóa
chất như Việt Nam, Úc, Myanmar, và Lào, có thể nhập khẩu mặt hàng này từ Hàn
Quốc, Ấn Độ, và Singapore. Trong các nước ASEAN, Thái Lan là quốc gia có chỉ
số RCA tăng dần qua các năm, và đạt trung bình 0.95 trong cả giai đoạn.
Nhóm hàng số 6 - Sản phẩm chế tạo, phân loại theo nguyên liệu, là những
sản phẩm mang giá trị gia tăng và việc xuất khẩu những sản phẩm này phụ thuộc
vào trình độ phát triển công nghiệp của quốc gia đó. Tính toán chỉ số RCA trung
bình cho thấy, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Lào và Thái Lan có lợi
thế so sánh trong xuất khẩu sản phẩm này. Ngược lại, các nước khác như Brunei,
Campuchia, Singapore có chỉ số RCA thấp nhất, đều nhỏ hơn 0.4, phản ánh bất lợi
so sánh của những quốc gia này trong xuất khẩu sản phẩm chế tạo phân loại theo
nguyên liệu. Trong khi đó, Việt Nam, Nhật Bản hay Myanmar là những quốc gia có
chỉ số RCA trung bình tiến gần đến 1, hay là bằng 1 trong trường hợp của Myanmar.

20


Đối với Máy móc và thiết bị vận tải – nhóm số 7, chỉ số RCA của Việt Nam
đã tăng dần qua các năm, từ mức 0.456 vào năm 2010, đến năm 2017, chỉ số này đã

tăng lên 1.07, điều này chứng tỏ, Việt Nam đã dần có lợi thế so sánh trong xuất khẩu
Máy móc và thiết bị vận tải. Xét trong khối RCEP, chỉ số RCA trung bình của Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan đều cao
và lớn 1. Điều này có nghĩa là Việt Nam và 7 quốc gia nêu tên trên có thể tiến hành
xuất khẩu Máy móc và thiết bị vận tải sang các quốc gia gặp bất lợi so sánh như Ấn
Độ, New Zealand, Brunei, Campuchia, Indonesia, Myanmar, và Lào. Việc này càng
tạo cơ sở cho trao đổi thương mại giữa các quốc gia RCEP.
Nhóm hàng 8 – Mặt hàng chế tạo khác, chỉ số RCA trung bình của Việt Nam,
Trung Quốc, Ấn Độ, Campuchia và Myanmar lần lượt là 2.679, 2.249, 1.217, 7.307
và 1.017. Các chỉ số này đều lớn hơn 1, chứng tỏ Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ,
Campuchia và Myanmar đều có lợi thế so sánh trong xuất khẩu mặt hàng này trên
thị trường thế giới. Đây là cơ sở để 5 quốc gia này xuất khẩu tới những quốc gia còn
lại trong RCEP – những nước gặp bất lợi so sánh trong mặt hàng này như Nhật Bản,
Hàn Quốc, New Zealand, Brunei.
Đối với nhóm 9 – các Hàng hóa và giao dịch khác chưa được phân loại, chỉ
số RCA của Nhật Bản, Úc, New Zealand, Phillipines và Singapore đều lớn hơn 1,
nghĩa là các quốc gia này có lợi thế so sánh trong xuất khẩu các mặt hàng này tới
những nước gặp bất lợi so sánh như Việt Nam (0.104), Trung Quốc(0.034), Hàn
Quốc (0.025), Ấn Độ (0.398), Lào (0.003), Thái Lan (0.003).
Tóm lại, việc tính toán chỉ số RCA các quốc gia thành viên của RCEP đã
giúp làm rõ hơn về cấu trúc thương mại giữa Việt Nam và các nước bạn hàng trong
RCEP. Cụ thể, ta thấy được có tính bổ sung thương mại giữa các quốc gia và đó là
nền tảng đều thúc đẩy kết hợp thương mại giữa các nước bạn hàng. Trong 10 nhóm
hàng theo phân loại một chữ số của UN Comtrade, tính đến năm 2017, Việt Nam có
lợi thế so sánh trong 3 nhóm hàng gồm nhóm 0 – Thực phẩm và động vật tươi sống,
nhóm 7 – Máy móc và thiết bị vận tải và nhóm 8 – Các mặt hàng chế tạo khác,
nghĩa là Việt Nam có thể xuất khẩu Thực phẩm và động vật tươi sống, Máy móc và
thiết bị vận tải và các Mặt hàng chế tạo khác tới các nước gặp bất lợi so sánh trong
21



3 nhóm hàng này. Đồng thời, Việt Nam có thể nhập khẩu những mặt hàng mà quốc
gia này không có lợi thế so sánh như nhóm 2 – Các loại nguyên liệu thô, nhóm 3 –
khoáng sản năng lượng, nhóm 5 – Hóa chất, hay nhóm 6 – Sản phẩm chế tạo từ các
quốc gia có lợi thế so sánh trong xuất khẩu những nhóm hàng này.

22


CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Từ những nghiên cứu trên, nghiên cứu về mối quan hệ thương mại của Việt
Nam với các nước trong khối RCEP nhóm đi tới những kết luận như sau:
Thứ nhất, RCEP là đối tác xuất khẩu quan trọng của Việt Nam bởi chỉ số
cường độ xuất khẩu của Việt Nam với các nước trong khối đều ở mức cao và rất
cao. RCEP mang đến cho Việt Nam thêm cơ hội tiếp cận các thị trường lớn như
Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc. Nổi bật trong năm 2016, tổng kim ngạch xuất khẩu
sang ba thị trường này là 36 tỉ đô la Mỹ, tương đương tỷ trọng 20,4%.
Thứ hai, đối với các đối tác trong RCEP, Việt Nam phần nhiều ở vị thế nhập
siêu (chỉ số EII đều lớn hơn III), đặc biệt phải kể đến Trung Quốc, Hàn Quốc và
Thái Lan là ba nền kinh tế tác động lớn tới kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam
nhiều nhất trong khối. Vì vậy, có nhiều nguy cơ Việt Nam sẽ gia tăng nhập siêu nếu
hiệp định thương mại tự do với RCEP được thực hiện.
Thứ ba, thương mại giữa Việt Nam và khối RCEP có xu hướng liên ngành,
sự bổ sung sản phẩm cho nhau là xu hướng chủ đạo trong hoạt động giao thương
bởi hầu hết các nhóm hàng Việt Nam có lợi thế so sánh thì các nước trong khối lại
không và ngược lại nhóm hàng Việt Nam không có lợi thế thì nhiều nước trong khối
lại có lợi thế. Qua việc phân tích chỉ số RCA đã cho thấy Việt Nam có lợi thế so
sánh trong nhóm hàng số 0, 7 và 8 và đây sẽ là cơ hội, động cơ cho Việt Nam tập
trung chuyên môn hóa vào các mặt hàng này để thu được gia trị cao hơn nữa khi

xuất khẩu các mặt hàng này.
Thứ tư, nhờ tận dụng lợi thế dồi dào nguồn lực lao động với chi phí rẻ, tài
nguyên thiên nhiên, thời tiết và khí hậu thuận lợi, Việt Nam đã tích cực xuất khẩu
vào các nước trong khối các sản phẩm có lợi thế so sánh: thực phẩm và động vật
tươi sống, máy móc và thiết bị vận tải, các mặt hàng chế tạo khác.
Thứ năm, tuy nhiên những sản phẩm cần thiết đối với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và đáp ứng được yêu cầu chính sách công nghiệp hướng về xuất
23


khẩu như Máy móc thiết bị và vận tải, Khoáng sản năng lượng, Dầu bôi trơn công
nghiệp và các vật liệu liên quan ứng yêu cầu về đầu tư công nghiệp và nguyên liệu
phục vụ đầu vào cho hoạt động sản xuất thì Việt Nam không có lợi thế so sánh. Tuy
nhiên năm 2017, vị thế ngành Máy móc thiết bị và vận tải của Việt Nam đã được cải
thiện đánh kể.
Như vậy, quan hệ thương mại quốc tế giữa Việt Nam và khối RCEP rất bền
vững do sự hài hòa và bổ sung lẫn nhau giữa các mặt hàng. Để duy trì và phát triển
mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và RCEP và đem lại lợi ích thiết thực hơn
nữa đối với 2 nền kinh tế, một số kiến nghị chính sách như sau:
Thứ nhất, Việt Nam cần duy trì ổn định chính trị và giữ mối quan hệ tốt đẹp
với các nước trong khối nhằm tạo môi trường hợp tác thuận lợi. Đối với Việt Nam
cần khuyến khích các doanh nghiệp của các nước trong khối đầu tư vào Việt Nam
trong những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế, đặc biệt chú ý đến thu hút nguồn vốn
đầu tư sản xuất tại Việt Nam để đáp ứng nhu cầu của thị trường các nước.
Thứ hai, các doanh nghiệp của Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm mà
Việt Nam có lợi thế so sánh sang các quốc gia thuộc RCEP, tuy nhiên cần tăng dần
hàm lượng công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu. Cần chuyển dịch cơ cấu từ hàng
nguyên liệu thô hoặc sơ chế sang sản xuất và xuất khẩu sản phẩm chế tạo có giá trị
gia tăng cao.
Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa công tác xúc tiến thương mại, quảng bá và giới

thiệu rộng rãi hơn sản phẩm của Việt Nam đến các quốc gia thuộc RCEP.
Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác sản xuất với các quốc gia trong những mặt hàng
Việt Nam không có lợi thế nhằm học hỏi công nghệ cũng như kinh nghiệm để từ đó
đa dạng hóa mặt hàng sản xuất, hạn chế nguy cơ trở thành nước nhập siêu khi Hiệp
định thương mại tư do giữa Việt Nam và RCEP ký kết thành công.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. The Atlas of Economic Complexity, Harvard University.
2. The World Intergrated Trade Solution (WITS)
3. Tổng cục Hải quan
4. Quan hệ thương mại của Việt Nam với Nhật Bản: Thực trạng và xu hướng, 2017,
Lê Tuấn Lộc, Trường đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG HCM, tạp chí Phát triển
KH&CN, tập 20 số Q2-2017.
5. Thương mại Việt Nam và các nước RCEP, 2016, Nguyễn Tiến Dũng, Trường đại
học Kinh tế, ĐHQG HN, tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, tập
32 số 3(2016).
6. Trade Complementarity and Similarity between India and Asian countries in the
context of the RTA, 2010, B.P. Sarath Chandran, VVM’s Shree Damodar College of
Commerce and Economics, Goa.
7. World Bank (2019). truy cập lần cuối ngày
13/6/2019
8. UN Comtrade (2019). truy cập lần cuối ngày 13/6/2019
9. Trần Tuấn Anh, “Hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam: Những điểm nổi bật
trong năm 2017 và định hướng cho năm 2018”, 8/3/2018 20:59'
( />10. Trần Văn Hưng, Tạp chí công khoa học và công nghiệp số 6, 2017
( />11. Tổng cục Hải quan, Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam

tháng 11 và 11 tháng năm 2018
( />tegory=Th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA%20H%E1%BA%A3i%20quan)

25


12.

Báo mới />
khau/c/25564802.epi truy cập lần cuối ngày 14/6/2019
13. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online />14/6/2019

26

truy

cập

lần

cuối

ngày



×