Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế TRI THỨC NHỮNG THÁCH THỨC và vấn đề đặt RA đối với VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.21 KB, 19 trang )

Khi xã hội phát triển, CNTT đóng vai trò cực kỳ quan trọng và nó đưa
chúng ta vào vòng cuốn của nó. Một trong những khái niệm mà người ta đang
bàn luận là kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là một khái niệm mà nó không có trong chủ nghĩa Mác Lê
nin cũng như trong các tài liệu triết học trước đó. Nó ra đời trong bối cảnh nền
CNTT toàn cầu phát triển mạnh mẽ với tốc độ chưa từng có. Những đặc trưng
chủ yếu của nền kinh tế tri thức, dưới góc độ nào, công nghệ thông tin vẫn có
vai trò rất quan trọng và là một trong những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế
tri

thức.

Nền kinh tế tri thức có 5 đặc trưng nổi bật: Vai trò quan trọng của công nghệ
cao, đặc biệt là công nghệ thông tin; khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp; thời gian để tiến hành công nghiệp hóa được rút ngắn; nguồn nhân lực
trong xã hội nhanh chóng được tri thức hóa; cơ cấu kinh tế, hình thức tổ chức xã
hội thay đổi cơ bản. Tri thức, thông tin, công nghệ luôn có vai trò thúc đẩy phát
triển sản xuất và vai trò ấy tăng dần cùng với quá trình phát triển. Nền kinh tế tri
thức có 10 đặc trưng chủ yếu:
Thứ nhất là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Trong 30 năm qua, các nền kinh tế
phát triển trên thế giới đã có những chuyển đổi to lớn, sâu sắc về cơ cấu kinh tế,
về cách thức hoạt động và các qui tắc hoạt động; đang phát triển nhanh các
ngành kinh tế dựa vào tri thức; các ý tưởng đổi mới và công nghệ là chìa khoá
cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Thứ hai là sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên
tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế tri thức
đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển. Các doanh nghiệp
đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất
công nghệ, có thể gọi là doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học và sản xuất



được nhất thể hoá, không còn phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng,
những người làm việc trong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản
xuất.
Thứ ba là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và
thiết lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ
chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất. Mọi người
đều có nhu cầu thông tin và được truy nhập vào các kho thông tin cần thiết cho
mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của công nghệ thông
tin để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, cũng chính vì vậy nhiều người
gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng.
Thứ tư là các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển.
Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công hơn, lớn mạnh hơn, thì
công ty khác tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng khác ngay, nếu không
muốn bị phá sản.
Thứ năm là xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá. Mọi người đều dễ
dàng truy cập đến các thông tin cần thiết. Dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức
điều hành trong xã hội được mở rộng. Người dân nào cũng có thể được thông
tin kịp thời về các quyết định của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức có liên quan
đến họ và họ có thể có ý kiến ngay nếu thấy không phù hợp.
Thứ sáu, xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển.
Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập bất cứ lúc nào, ở
bất cứ đâu. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời.
Thứ bảy, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là
nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Không phải như các nguồn lực khác bị
mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được chia sẻ và trên thực tế lại
tăng lên khi sử dụng. Nền kinh tế tri thức do đó là một nền kinh tế dư dật chứ
không phải khan hiếm.


Thứ tám, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất

thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút
ngắn; quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất,
hay một công nghệ chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn
trụ được và phát triển thì phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là
linh hồn của sự đổi mới.
Thứ chín, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và
sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi nào cũng có
thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới. Quá trình toàn cầu hoá cũng là
quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá và kinh tế tri thức thúc
đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại.
Thứ mười là sự thách thức đối với văn hoá. Trong nền kinh tế tri thức xã hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ văn
hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn hoá phong phú, đa dạng.
Nhu cầu thưởng thức văn hoá của người dân cũng tăng cao. Nhờ các phương
tiện truyền thông tức thời, nhất là Internet, một sáng tác ra đời tức thời lan
truyền đến mọi nơi trên thế giới. Giao lưu văn hoá hết sức thuận lợi, tạo điều
kiện cho các nền văn hoá có thể tiếp thu các tinh hoa của nhân loại để phát triển
nền văn hoá của mình. Nhưng mặt khác các nền văn hoá đứng trước những rủi
ro rất lớn: bị pha tạp, dễ mất bản sắc, dễ bị các sản phẩm văn hoá độc hại tấn
công phá hoại, mà rất khó ngăn chặn. Nền văn hoá bị pha tạp lai căng không
còn là chính mình nữa thì sẽ suy thoái, tiêu tan. Nhiệm vụ gìn giữ, phát huy bản
sắc văn hoá mỗi dân tộc trở nên rất nặng nề. Cái chính là phải giáo dục truyền
thống, phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có đủ sức mạnh nội sinh.


Chính vì vậy dự án "Chính phủ điện tử" hướng cho chúng ta đi tắt đón
đầu và là một mục tiêu quan trọng, động lực thúc đẩy cho quá trình phát triển, là
mắt xích không thể thiếu trong nền Kinh tế tri thức.

I. Kinh tế tri thức là gì?
Có người dẫn lời Các Mác nói rằng, khi hàm lượng cơ bắp trong sản
phẩm do con người làm ra giảm đến mức cực nhỏ thì lúc đó sẽ xuất hiện giai
cấp công nhân khoa học. Và cho rằng điều đó đang được chứng minh trong nền
Kinh tế Tri thức (KTTT). Thực ra, không cần phải đến KTTT mới xuất hiện giai
cấp công nhân khoa học của Mác. Trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại
được tự động hóa hoàn toàn như sản xuất xe ô tô, sản xuất linh kiện điện tử, sản
xuất hóa chất... hàm lượng cơ bắp đã được giảm đến mức thấp nhất ngay từ khi
chưa xuất hiện khái niệm KTTT. Cũng có những ý kiến đánh đồng KTTT với
một số ngành kinh tế thường được gọi là ngành kinh tế mới như Kinh tế
Internet, hay Công nghệ tin học và truyền thông, để từ đó cho rằng KTTT là nền
kinh tế dựa vào tri thức, trong đó kinh tế Internet trở thành nội dung chủ yếu
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng rõ ràng là, bất kỳ ngành sản xuất
kinh doanh nào cũng phải dựa vào tri thức và nền kinh tế Internet cũng chỉ là
một trong những ngành kinh doanh, tuy đóng một vai trò ngày càng quan trọng,
nhưng không thể trở thành một ngành kinh doanh độc lập mang tính quyết định
cho một nền kinh tế được. Sự sụp đổ của hàng loạt công ty kinh doanh Internet
(cả của các công ty kinh doanh Tin học và Truyền thông) hiện nay có thể sẽ
giúp chúng ta thận trọng hơn, phân biệt rõ hơn khái niệm và vai trò của các
ngành kinh doanh với một nền kinh tế.
Mới chỉ trong vài năm gần đây, qua việc theo dõi sáu ngành công nghiệp
then chốt của tương lai là: công nghệ kỹ thuật tin học và truyền thông, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ
kỹ thuật hàng không-vũ trụ mới, và công nghệ kỹ thuật bảo vệ môi trường,
người ta đã ghi nhận sự xuất hiện của một nền kinh tế hoạt động theo một công
thức khác hẳn về bản chất so với công thức của nền kinh tế hàng hóa mà loài


người từng biết. Hoạt động của nền kinh tế hàng hóa- dù đó là kinh tế thị trường
hay kinh tế kế hoạch- đều tuân theo công thức nổi tiếng: Tiền - Hàng - Tiền.

Trong khi đó, nền kinh tế mới xuất hiện lại hoạt động theo công thức: Tiền- Tri
thức- Tiền.
Theo đánh giá chung của những học giả hàng đầu ở phương Tây thì ngày
nay KTTT mới chỉ đang định hình ở 03 nước công nghiệp phát triển nhất là Mỹ,
Đức và Nhật bản. Vì vậy chưa thể đưa ra được một định nghĩa hay một công
thức xác định thế nào là KTTT. Thông qua việc nghiên cứu sáu ngành công
nghiệp then chốt đã nói ở trên, người ta chỉ có thể ghi nhận được một số đặc
trưng cơ bản nhất- cần chứ chưa phải đã đủ- của nền kinh tế mới này như sau:
* Sự xuất hiện các xí nghiệp sản xuất được tự động hóa cao độ và rất linh
hoạt, do tác động đồng bộ của tiến bộ khoa học trong hàng loạt lĩnh vực, mà đặc
biệt là trong Công nghệ kỹ thuật tin học và truyền thông. Sản phẩm của những
xí nghiệp này là những sản phẩm "thông minh". Đó là những sản phẩm không
chỉ chứa một hàm lượng thông tin cao, mà còn cả một hàm lượng tri thức cao
hơn hẳn sản phẩm công nghiệp cổ điển, khiến cho nó có khả năng sử dụng, chế
biến thông tin, đáp ứng nhu cầu riêng của khách hàng. Trong năm 2000, những
sản phẩm thông minh (ví dụ: hệ thống dẫn đường cá nhân) đã tạo ra tới 30% giá
trị của một chiếc xe ô tô loại sang trọng và ngày càng trở thành yếu tố cạnh
tranh quyết định trong ngành sản xuất xe ô tô
* Các công nghệ mới đang làm thay đổi triệt để qúa trình sản xuất và cơ
cấu sản phẩm. Chẳng hạn, kỹ thuật Gen bắt đầu thay đổi một cách căn bản qúa
trình sản xuất, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm trong công nghiệp dược phẩm,
công nghiệp hóa chất. Tương tự như vậy, công nghệ sản xuất vật liệu mới cũng
thay đổi một cách sâu sắc sản phẩm của công nghiệp sản xuất vật liệu cổ điển.
Ví dụ: Sứ có tính năng đặc biệt đã được dùng trong công nghiệp sản xuất ô tô.
Trong tương lai không xa sẽ xuất hiện động cơ bằng sứ chịu được nhiệt độ cao
hơn hẳn thế hệ động cơ hiện tại và vì vậy sẽ tiết kiệm nhiều nhiên liệu hơn. Hay


những vật liệu siêu tinh khiết mới cho công nghiệp sản xuất vi mạch điện tử,
v.v...

* Lý thuyết của Ricardo về lợi thế đối chiếu (so sánh) vùng không còn giá
trị nữa đối với sáu ngành công nghiệp then chốt. Theo Ricardo (đầu thế kỷ 19),
mỗi nước do diều kiện tự nhiên đều có sẵn những thuận lợi đặc biệt cho việc sản
xuất những hàng hóa nhất định so với nước khác. Chẳng hạn nước Bồ đào nha
đầy ánh nắng mặt trời sẽ có lợi thế vùng lớn hơn Anh quốc trong việc sản xuất
rượu vang; ngược lại, Anh quốc được lợi thế hơn trong sản xuất vật liệu. Lợi thế
vùng theo thuyết Ricardo hiện đại được đánh giá qua ba yếu tố sản xuất quen
thuộc là: đất, vốn tư bản, sức lao động. Rõ ràng các yếu tố này có trở thành lợi
thế cho sản xuất hay không là rất khác nhau đối với mỗi quốc gia. Trong nền
KTTT, lợi thế vùng này không tồn tại vì phần đóng góp của giá đất, sức lao
động là hết sức nhỏ bé khi so với phần của tri thức trong qúa trình sản xuất. Với
thị trường tài chính có tính chất tòan cầu, việc gọi vốn không còn phụ thuộc vào
biên giới quốc gia nữa và do số vốn đầu tư trong KTTT rất lớn, lại phải huy
động trong khoảng thời gian ngắn nên- nói chung- nó cũng nằm ngoài khả năng
một quốc gia. Vì vậy, những lợi thế sản xuất trong KTTT chỉ có thể do chính
các doanh nghiệp tạo ra. Để so sánh, nên lưu ý là thuyết Ricardo hiện vẫn còn
nguyên giá trị trong qúa trình toàn cầu hóa nền kinh tế hàng hóa hiện đại. Nhiều
nước đang phát triển thậm chí coi việc phát huy lợi thế về sức lao động, giá đất
là chiến lược hấp dẫn đầu tư.
* Vốn đầu tư cho nghiên cứu, phát triển sản phẩm cũng như xây dựng nhà
máy sản xuất trong nền KTTT là hết sức lớn. Để có thể hoàn vốn đầu tư, sản
phẩm phải được sản xuất với số lượng lớn tối đa. Không những thế, doanh
nghiệp trong KTTT phải bằng mọi cách hoàn vốn trong thời gian ngắn nhất
trước khi sản phẩm thế hệ mới của công ty khác được tung ra thị trường, đây là
điều xẩy ra rất nhanh trong KTTT. Thị trường của các doanh nghiệp trong nền
KTTT vì vậy phải là thị trường toàn cầu. Rõ ràng là chỉ có không nhiều doanh
nghiệp đáp ứng được những điều kiện cạnh tranh gay gắt này. Và cũng sẽ chỉ có


một vài quốc gia đủ khả năng hỗ trợ tài chính cho các tập đoàn kinh doanh tòan

cầu, cũng như giữ ổn định môi trường luật pháp-xã hội-chính trị để các công ty
này không chuyển trụ sở sang nước khác.
* Như vậy, ta có thể đưa ra nhận xét sơ bộ nhất để trả lời câu hỏi "KTTT
là gì?" như sau: KTTT là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế
hàng hóa tư bản, trong đó công thức hoạt động cơ bản Tiền-Hàng-Tiền được
thay thế bằng Tiền- Tri Thức- Tiền và vai trò quyết định của Tri thức được thể
hiện qua các mặt sau đây:
Hàm lượng Tri thức trong qúa trình sản xuất phải chiếm phần quyết định.
Theo nhiều học giả thì hàm lượng này phải chiếm ít nhất là từ 60 đến 65% giá
thành sản xuất và ít nhất là 35% giá trị sản phẩm. (Các con số này trong một số
ngành công nghiệp then chốt ở Đức hiện nay trung bình là 60 và 30%, ở Hoa
Kỳ là 62 và 35%). Hàng hóa trong KTTT là Tri thức.
* Trong KTTT, Tri thức vừa được sử dụng để quản lý, điều khiển, tham
gia vào qúa trình sản xuất như công cụ sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong
sản phẩm như nguyên liệu sản xuất. Vì vậy, ngoài vai trò là hàng hóa trong
KTTT, Tri thức- khác với hàng hóa trong kinh tế hàng hóa- cũng là tư liệu sản
xuất. Trí thức để xử lý tri thức, để làm ra tri thức, tri thức quản lý điều hành...
cũng trở thành hàng hóa và đó là những thứ hàng hóa được sản xuất không theo
qúa trình sản xuất quen thuộc trong nền Kinh tế Hàng hóa. Chưa bao giờ Hàng
hóa của một nền Kinh tế lại đồng thời giữ nhiều vai trò quyết định khác nhau
đến vậy trong cả phương thức sản xuất lẫn quan hệ sản xuất như Hàng hóa Tri
thức trong nền Kinh tế Tri thức. Còn qúa sớm để dự báo những thay đổi quan hệ
xã hội trong tương lai. Nhưng chắc chắn KTTT sẽ dẫn đến những thay đổi triệt
để và hết sức sâu rộng trong xã hội hơn tất cả những thay đổi do các cuộc cách
mạng công nghiệp, khoa học kỹ thuật và xã hội mà loài người từng trải qua.
Người ta đã bắt đầu nói đến Xã hội Tri thức.
* Sự phát triển như vũ bão của công nghệ tin học và truyền thông rút
ngắn càng ngày càng nhanh thời gian chọn lọc, đánh giá, sử dụng và sáng tạo



thông tin, khiến cho giá trị sử dụng tri thức cũng bị rút ngắn lại nhanh chóng.
Một tri thức hôm nay có giá trị hàng tỷ Dollars, ngày mai đã có thể vô giá trị. Vì
vậy, việc tiếp cận và trao đổi Tri thức ở phạm vi toàn cầu trong KTTT có ý
nghĩa sống còn. Cạnh tranh trong KTTT trước hết là cạnh tranh với thời gian.
Để bảo đảm sự phát triển bình thường của mình, KTTT sẽ dẫn đến việc xóa bỏ
biên giới quốc gia, ít nhất và trước mắt là trong lĩnh vực thông tin.
* Do tích chất đặc biệt của hàng hóa Tri thức, không những các ngành
công nghiệp sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học mà cả các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, chính trị cũng phụ thuộc và đan quyện vào nhau một cách chặt chẽ
hơn bao giờ hết trong KTTT. KTTT- với sản phẩm là Tri thức- sẽ dẫn đến tái
cấu trúc kinh tế-xã hội và chính trị trên phạm vi toàn cầu. Trước mắt, cuộc cạnh
tranh giữa các nhà nước (các nước công nghiệp phát triển) trong tư cách các hệ
thống kinh tế- xã hội- chính trị với những lợi thế khác nhau về luật lệ, về thuế,
về tiêu chuẩn an sinh xã hội... đã bắt đầu trở nên gay gắt để thu hút đầu tư. Ai
tái cấu trúc nhanh, người đó sẽ thắng.
II. Điều kiện hình thành KTTT:
Trước hết, cần khẳng định rằng, KTTT không phải là một bước nhảy đột
biến, hay một sáng tạo của một lý thuyết nào đó, mà là hình thái phát triển cao
hơn nữa- có tính tiến hóa- của nền kinh tế hàng hóa tư bản với sự kế thừa các
qui luật của nền kinh tế thị trường. Chính sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị
đến mức cao độ ở các nước công nghiệp phát triển nhất đã tạo tiền đề cho sự ra
đời KTTT.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên vào cuối thế kỷ 18 tại Anh quốc đã
đưa nước này lên vị trí lãnh đạo thế giới. Đồng thời nhận chìm Trung Quốc và
Ấn Độ- là hai nước vào thế kỷ 17 còn giàu hơn cả Châu Âu- xuống hàng các
nước thuộc địa và ngày nay vẫn còn là những nước đang phát triển. 100 năm
sau, với ba ngành công nghiệp mới là Điện, Hóa chất và Chế tạo động cơ đốt
trong, Đức và Mỹ đã trở thành hai cường quốc hàng đầu của thế giới trong giai
đoạn hai của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Cũng đúng 100 năm sau



vào cuối thế kỷ 20, chúng ta đang đứng ở trung tâm cuộc cách mạng thứ hai:
cuộc cách mạng kinh tế-xã hội-công nghệ, nẩy sinh từ cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất. Chính cuộc cách mạng công nghệ đã đưa các quốc gia công
nghiệp phát triển đến xã hội tin học bằng cuộc cách mạng công nghệ tin học.
Qúa trình phát triển kinh tế- xã hội này tại Mỹ, Đức và Nhật bản đã tạo được
những tiền đề sau đây cho sự hình thành KTTT:
* Tự động hóa cao độ: Tự động hóa cao độ quá trình sản xuất không
những giảm đến mức thấp nhất chi phí cho những yếu tố phi tri thức, mà còn rút
ngắn một cách căn bản thời gian từ khi nghiên cứu phát triển đến sản xuất hàng
loạt. Và như vậy mới gia tăng một cách đáng kể hàm lượng tri thức trong sản
phẩm. Ngoài ra, chỉ có sự tự động hóa cao độ mới đáp ứng được nhu cầu sản
xuất sản phẩm vừa với số lượng lớn, vừa rất linh hoạt đáp ứng nhu cầu chuyên
biệt của khách hàng ở những thị trường khác nhau trên thế giới.
* Công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ. Đây là một trong
những điều kiện căn bản nhất bảo đảm sự phát triển của KTTT. Nó không
những là một ngành kinh tế then chốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tri thức, mà
còn là điều kiện bảo đảm hiệu qủa việc tiếp cận, trao đổi, xử lý thông tin, sáng
tạo tri thức của các ngành kinh tế-xã hội khác. Trong sản xuất-kinh doanh, sự
phát triển công nghệ này đã dẫn đến cái mà chúng ta thường nghe nói: cuộc
cách mạng giảm chi phí quản lý-điều hành. Chi phí liên lạc rất thấp cũng góp
phần không nhỏ giúp doanh nghiệp có những phản ứng kịp thời cho mọi biến
động trên phạm vi tòan cầu, thúc đẩy toàn cầu hóa doanh nghiệp. Ngoài ra, công
nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ có những đóng góp tích cực vào việc
nâng cao tri thức cho người tiêu thụ bình thường, giúp họ nâng cao khả năng sử
dụng sản phẩm tri thức.
* Bảo vệ có hiệu qủa một môi trường an toàn và ổn định cho việc hình
thành, sản xuất và tiêu thụ Tri thức. Đó là một môi trường pháp lý bảo đảm tự
do hoàn toàn cho việc tiếp cận, trao đổi và xử lý thông tin, trong đó gía trị Tri



thức được bảo vệ bằng luật sở hữu Trí tuệ; sở hữu tư nhân phải được tôn trọng
và bảo vệ.
* Một nền kinh tế thị trường phát triển cao với các thị trường tài chính
quốc tế hoạt động hữu hiệu. Như đã nói ở trên, doanh nghiệp trong KTTT vừa
cần vốn đầu tư khổng lồ, vừa phải chạy đua với thời gian và đương đầu với
những rủi ro lớn, nên hơn bao giờ hết, hoạt động của họ trong KTTT phụ thuộc
rất lớn vào nguồn cung cấp vốn từ các thị trường tài chính. Ngược lại, sự ổn
định của thị trường tài chính cũng gắn bó mật thiết với công cuộc kinh doanh
của doanh nghiệp. Bảo đảm sự hoạt động của một nền kinh tế với những quan
hệ đan quyện phức tạp và nhậy cảm như vậy chỉ có thể thành công tại những
quốc gia đã có nền kinh tế thị trường vững mạnh.
* Sau cùng, nhưng quan trọng hơn cả, đó là KTTT chỉ có thể hình thành ở
những nhà nước pháp quyền dân chủ, nơi mà doanh nghiệp có thể lường trước
được mọi rủi ro trong kinh doanh trên cơ sở những qui luật thị trường trong một
khung pháp lý rõ ràng, ổn định không bị thay đổi một cách tùy tiện.
* Một số học giả cho rằng trình độ đào tạo dân trí cũng có thể được xem
như điều kiện tiên quyết hình thành KTTT. Tuy nhiên có những ý kiến khác
nhau về vần đề này. Theo tôi, trình độ đào tạo dân trí đóng một vai trò không
thể thiếu để hình thành nguồn cung cấp tri thức, và giúp người dân với tư cách
người tiêu thụ xử dụng sản phẩm tri thức. Chứ không phải là một điều kiện tiên
quyết. Một trong những khác nhau căn bản của KTTT với các hình thái Kinh tế
sử dụng tri thức khác là sự gia tăng- có tính chất đột biến- giá trị Tri thức
"nguồn" (cũng có tác giả gọi là Tri thức đầu vào) thông qua qúa trình sản xuất
KTTT với sự tham gia của các nguồn Tri thức khác. Không có qúa trình sản
xuất rất đặc thù này, Tri thức nguồn vẫn chỉ là những thông tin với vai trò quen
thuộc trong Kinh tế Hàng hóa.
III. Việt Nam có thể đi tắt đón đầu KTTT được không?
Như tôi đã trình bày ở trên, KTTT là hình thức phát triển mới, cao hơn
của Kinh tế hàng hóa tư bản. Nó là sản phẩm tiến hóa. Thành qủa của các cuộc



cách mạng công nghiệp, cách mạng kinh tế-công nghệ và xã hội là điều kiện
cho việc hình thành KTTT. Muốn xây dựng KTTT thì phải tạo được các điều
kiện hình thành của nó. Vì vậy không thể đi tắt đón đầu.
Trên lý thuyết, mỗi quốc gia không có ý định đi tắt, đón đầu, đều có thể
xây dựng KTTT. Nhất là hiện nay các nước đang phát triển có thể sử dụng ngay
những thành tựu công nghệ mới và tận dụng sự ủng hộ về tài chính của cộng
đồng quốc tế, để đẩy nhanh tốc độ phát triển tuần tự cơ sở kinh tế-xã hội của
mình. Thế nhưng có 03 lý do khiến cho việc theo đuổi mục tiêu xây dựng KTTT
ở Việt Nam sẽ trở thành không tưởng và không mang lại một lợi ích thực tiễn
nào cả:
* Trước hết, Việt Nam phải tự hỏi sẽ cần bao nhiêu năm để xây dựng
thành công những cơ sở đã nói ở trên của KTTT? Để so sánh, cần lưu ý rằng,
muốn đạt trình độ phát triển kinh tế-xã hội trung bình như hiện nay của Liên
minh Châu Âu (EU), các nước Đông Âu sắp được kết nạp vào EU như Balan,
Hungari, Tiệp- là những nước đã xây dựng nhà nước Dân chủ Pháp quyền từ
hơn 10 năm nay- phải cần ít nhất là 20 năm nữa với sự giúp đỡ toàn diện của
EU. Trong khi đó, KTTT chỉ mới xuất hiện ở Đức- nước hùng mạnh nhất Châu
Âu. Khi Việt nam xây dựng được cơ sở KTTT, có lẽ trên thế giới đã xuất hiện
Kinh Tế Trí tuệ Nhân tạo. Điều nguy hiểm là ở chỗ: trong thời đại tòan cầu hóa
hiện nay, ai không được hội nhập hoặc không muốn hội nhập vào kinh tế quốc
tế, kẻ đó sẽ bị lãng quên, bị bỏ rơi và sẽ mãi mãi tụt hậu.
* Khi tạo được cơ sở cho KTTT rồi, Việt Nam sẽ phải đương đầu với một
vấn đề không thể giải quyết nổi: tập trung vốn khổng lồ cho việc phát triển
KTTT. Thị trường tài chính quốc tế lúc bấy giờ đã không còn biết gì đến KTTT,
mà có lẽ chỉ còn quan tâm đến nền KT Trí tuệ Nhân tạo mà thôi.
* Những đặc trưng đầu tiên của KTTT cũng đủ cho thấy rằng nó không là
một nền Kinh tế quốc dân, mà sẽ là một nền Kinh tế có tính chất toàn cầu dưới
sự dẫn dắt của một vài quốc gia hùng mạnh nhất và sẽ do một số tập đoàn kinh



doanh toàn cầu chi phối. Tìm cách xây dựng một nền KTTT quốc dân trong bối
cảnh như vậy là một hành động hoàn toàn thiếu suy nghĩ.
Ngược lại, cũng như bất kỳ nền kinh tế nào, KTTT cũng cần thị trường và
sự phân công lao động hợp lý. Làm sao để nước mình trở thành thị trường lao
động chuyên biệt đưọc tham gia vào qúa trình sản xuất quốc tế và trở thành thị
trường tiêu thụ không thể bỏ qua trong nền KTTT, mới chính là chiến lược phát
triển đúng đắn nhất của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Ấn Độ,
Đài Loan có thể là những tấm gương cho Việt Nam trong vấn đề này.
Việt Nam trong thời gian gần đây hô hào phát triển nhanh, mạnh Công
nghệ tin học và truyền thông, coi nó như một cây cầu, một lá bài mầu nhiệm dẫn
đến KTTT. Nhưng thực ra, nó không phải là một cây cầu mà chỉ là một trong
những trụ cầu. Và cũng như mọi trụ cầu khác, nó phải được xây dựng trên một
nền móng vững chắc. Vai trò then chốt của Công nghê Tin học và Truyền thông
là điều không cần bàn cãi. Gần đây người ta đã nói đến cuộc cách mạng sinh
học sử dụng công cụ là Công nghệ tin học. Thế nhưng nên lưu ý rằng, cũng như
các ngành công nghiệp then chốt khác, Công nghệ này thực chất là một phức
hợp của rất nhiều ngành nghiên cứu, sản xuất và kinh doanh khác nhau. Chúng
chỉ phối hợp với nhau một cách có hiệu qủa khi có cùng một trình độ phát triển
nhất định và với một cơ sở hạ tầng thích hợp. Vì vậy, việc chỉ chú trọng phát
triển công nghệ này như một ngành kinh tế độc lập, hay nhầm lẫn nó là KTTT,
sẽ dẫn đến sự phát triển mất cân đối nặng nề nền kinh tế quốc dân và hoang phí
sức người sức của.
Thay lời kết:
Trong cuộc hội thảo Những vấn đề trong tương lai của trật tự Kinh tế thế
giới" do trường Đại học tổng hợp Tự Do và trường Đại học tổng hợp Humboldt
tổ chức hồi tháng 5.2000 tại Berlin, sau khi kết thúc chương trình nghị sự chính
thức, đại biểu một nước Nam Âu đề nghị hội nghị bàn về những biện pháp giúp
đỡ các nước đang phát triển xây dựng KTTT. Đại diện Trung Quốc xin phát

biểu. Ông nói rất ngắn - đại ý: Chúng tôi sẽ không bao giờ quên bài học của


chiến lược Đại nhẩy vọt". Sau đó, hội nghị đã không bàn tiếp về đề nghị của
nước Nam Âu kia nữa.
1. Gần đây, kinh tế tri thức được bàn luận sôi nổi khắp nơi. Nhiều người
rất hăng hái xem đây là cơ hội nghìn vàng cho đất nước ta nhanh chóng bứt ra
khỏi nghèo nàn lạc hậu. Nhưng cũng có ý kiến cảnh báo rằng đặt cược quá cao
vào kinh tế tri thức có thể làm chúng ta xao lãng những vấn đề cấp bách nhất
của nền kinh tế đang còn quá thấp kém. Có lẽ mỗi ý kiến đều có phần đúng. Cái
khó đầu tiên trong chuyện này là nhận thức vấn đề sao cho khách quan, đúng
mức và thực tế.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa là bước tất yếu, có những mặt tiêu cực cần
đấu tranh chống lại, nhưng vẫn phải chấp nhận nó, chịu chơi với nó, hơn nữa
tuân thủ các luật chơi mới để tìm cách vươn lên. Mà luật chơi mới là: ganh đua,
cạnh tranh trí tuệ. Nói cách khác, sân chơi mới là kinh tế tri thức.
Vì vậy không thể phát triển kinh tế tri thức mà từ chối toàn cầu hóa, cũng
như không thể cạnh tranh nổi trong nền kinh tế toàn cầu hóa nếu không mở
được cánh cửa vào kinh tế tri thức. Những diễn biến gần đây cho thấy ta hội
nhập quốc tế mà không theo kịp họ trong kinh tế tri thức thì sẽ thua thiệt.
2. Khái niệm kinh tế tri thức xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ
20, nhưng chỉ gần đây mới rộ lên, nhất là từ khi phát triển máy tính cá nhân, rồi
Internet và xa lộ thông tin. Hiện nay chúng ta đang đứng giữa cơn lốc nên cũng
chưa xác định được gió sẽ ngả theo chiều nào. Cách đây khoảng một năm thị
trường chứng khoán ở Mỹ bốc lên đột ngột theo sự bùng nổ các công ty
dot.com, nhiều người tưởng thế giới này chỉ có đầu tư vào đó mới là khôn
ngoan nhất. Nhưng rồi cũng xẹp xuống như bong bóng. Thất bại dẫn đến thất
vọng. Sau một thời các ngành kinh doanh dựa vào công nghệ thông tin phát đạt
chưa từng thấy, nay bóng ma suy thoái lại rình rập. Thị trường vi tính chững lại,
hàng loạt công ty công nghệ cao, kinh doanh điện tử, ngay cả ở Silicon Valley,

bắt đầu những cuộc sa thải, co cụm lại để chống đỡ luồng khí lạnh có cơ lan tràn
(riêng cổ phiếu Microsoft đã sụt hàng chục tỷ USD). Tuy nhiên, nhiều người


đánh giá, đây chỉ là thời kỳ tạm lắng để chuẩn bị bùng lên theo một hướng mới.
Chính vì thế mà Chính phủ Nhật Bản, mặc dù kinh tế còn ảm đạm, vẫn dự định
đầu tư 30 tỷ USD vào công nghệ thông tin trong vài năm tới, coi đó là một trong
các hướng chính để thoát ra khỏi thế trì trệ kéo dài mấy năm nay. Nói cho đúng,
Nhật Bản đã gặp khó khăn vì đã ngủ quên trên những thành tựu công nghiệp
điện tử dân dụng trong thập kỷ 80, cho nên chậm bước trong cách mạng số hóa
qua Internet. Hiện nay, đến lượt Mỹ hình như cũng đã quá say sưa với những
thành công theo hướng số hóa nên có nguy cơ sắp tới sẽ bị các đối thủ qua mặt
khi tiến vào thời đại hậu vi tính.
Các bộ óc lớn đang chuẩn bị cho một bước ngoặt công nghệ mới: Sau
máy tính cá nhân là gì? Phải chăng là Truyền thông đa phương tiện không dây,
từ điện thoại di động 3G, 4G, phát triển lên truyền thông đa phương tiện gọn
nhẹ, nhanh chóng mà không cần dây nhợ lòng thòng, cho phép không chỉ điện
thoại, thư điện tử và fax, mà cả kết nối Internet, truy cập Web, thực hiện mọi
dịch vụ điện tử hai chiều, ở đâu cũng nhận được và gửi đi được mà không cần
đến máy tính cá nhân hay để bàn cố định như hiện nay. Có nghĩa là xã hội đa
phương tiện không dây đang tới gần. Các hãng Nokia (Phần Lan), Ericsson
(Thụy Điển), DoCoMo (NTT Nhật Bản) hiện đã đi trước Motorola của Mỹ
trong cuộc chạy đua về cái đích đó. Trong khi chờ đợi, mọi việc bớt ồn ào,
không khí trầm lắng hồi hộp trước những thay đổi lớn có phần dự đoán được
nhưng cũng nhiều phần chưa thể lường hết. Bên cạnh đó, nào là bản đồ gen
người, nhân bản người vô tính, thực phẩm biến đổi gen, rồi bệnh bò điên, dịch
súc vật lở mồm long móng, v.v..., biết bao nhiêu chuyện rắc rối nảy sinh từ cách
mạng công nghệ và toàn cầu hóa. Kinh tế tri thức không phải chỉ có mầu hồng.
Tình hình không phải chỉ sôi động một chiều có những cơ hội phất lên hiếm có,
mà cũng lắm bước thăng trầm ẩn chứa không ít rủi ro bất trắc. Đây không phải

là thứ trận địa cứ ào ào xông lên xung phong và chiếm lĩnh được, mà cần có
chiến

lược

thông

minh,

chuẩn

bị

kỹ



tổ

chức

tốt.


3. Vì là sự vật lộn trí tuệ nên cần có quyết tâm, dũng cảm, nhưng đầu óc
và tài năng mới thật sự quan trọng. Phải thực hiện cuộc cách mạng tư duy, thay
đổi hẳn cách nghĩ trong hàng loạt vấn đề đời sống kinh tế, xã hội cũng như khoa
học, công nghệ, văn hóa, giáo dục. Có người gọi kinh tế tri thức là kinh tế
mạng, để nhấn mạnh rằng chưa bao giờ thế giới tràn ngập những tổ chức mạng
như bây giờ, cho nên cách nghĩ, cách quản lý, cách làm việc theo một hệ thống

có trên có dưới, tôn ti trật tự theo kiểu phong kiến hay tư bản thời công nghiệp
hiện đại cũng đã lỗi thời. Nói theo thuật ngữ khoa học, chưa bao giờ thế giới
bộc lộ tính hệ thống phức tạp cao như bây giờ. Không gian mở rộng, thời gian
rút ngắn, thông tin dồn dập, các loại hiệu ứng dây chuyền (kiểu như khủng
hoảng tài chính châu á vừa qua), hiệu ứng phụ (kiểu như các hiệu ứng môi
trường), hiệu ứng cộng năng (như Internet), ngày càng tác động mạnh. Sự vật
biến hóa theo những quy luật phi tuyến (cấp số nhân hay hàm mũ: chẳng hạn cứ
18 tháng, tính năng máy tính tăng gấp đôi nhưng giá thành còn bằng nửa), với
độ ngẫu nhiên và phức tạp không ngừng tăng lên. Nhiều vấn đề quản lý kinh tế
xã hội đều không thể nhìn nhận theo tầm mắt và quan niệm cũ. Hơn bao giờ hết,
thành công trên các lĩnh vực kinh doanh hay khoa học, công nghệ thường bắt
nguồn ở những ý tưởng mới, ngược lại thất bại thường do tư duy xơ cứng,
không chuyển kịp tình hình. Đã bước sang kỷ nguyên kinh tế tri thức với những
đột biến công nghệ liên tục thì trên mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, đối với
từng người hay từng cộng đồng sự thành bại được quyết định trước hết bởi khả
năng nhận thức được kịp thời những thay đổi và thích ứng mau lẹ với những
thay đổi đó, kể cả bằng cách tự thay đổi và hoàn thiện bản thân. Nhìn lại xã hội
Việt Nam ta cũng thấy rõ mọi thành công hay hư hỏng đều có nguồn gốc sâu xa
là tư duy có đổi mới kịp tình hình hay không.
Toàn cầu hóa chỉ mới biểu hiện tính hệ thống của thế giới trên phương
diện kinh tế, thương mại. Còn có những biểu hiện khác của tính hệ thống của
thế giới, nhất là trong quan hệ thiên nhiên - con người mà ta phải chú ý để đối
phó kịp thời trong thời đại kinh tế tri thức. Chẳng hạn, tin tức cho biết nếu các


nước giàu không thay đổi chính sách phát triển công nghiệp của họ thì tới giữa
thế kỷ 21, với mực nước biển dâng cao dần do nhiệt độ quả đất tăng lên bởi hiệu
ứng nhà kính, Ai Cập, Việt Nam và Ba Lan sẽ là ba nước bị thiên tai nặng nề
nhất. Trước viễn cảnh đó, các nước nghèo không thể khoanh tay ngồi đợi thảm
họa đến để rồi kêu gọi sự giúp đỡ nhân đạo của thế giới mà phải nhanh chóng

chủ động thu hẹp khoảng cách trí tuệ với các nước giàu. Chỉ có như thế mới
ngăn được xu thế các nước giàu độc quyền phát triển các ngành công nghiệp
cao, vừa sạch sẽ vừa thu lời nhiều, sử dụng toàn cầu hóa và khoảng cách số để
chuyển tất cả các ngành công nghiệp năng lượng và chế biến ô nhiễm sang cho
các nước nghèo hứng chịu hậu quả.
4. Trong bối cảnh vừa có sáng có tối, có thuận có nghịch đó ta cần làm gì,
cần có những cải cách gì, để mở đường cho xã hội Việt Nam gỡ lại sự chậm trễ
thời gian qua, nhanh chóng tiến kịp thế giới trong kỷ nguyên trí tuệ?
Trước hết và căn bản nhất là phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý (thể
chế, chính sách, luật pháp, bộ máy). Nói theo thuật ngữ thông tin, đây chính là
phần mềm hệ thống để vận hành xã hội. Người Việt Nam thường được coi là
thông minh, nhưng đó mới chỉ là thông minh cá nhân, chưa phải thông minh
cộng đồng. Ta cũng thường nói dân tộc ta có tiềm năng trí tuệ lớn, nhưng từ lâu
chúng ta cứ tự hào mãi về cái tiềm năng ấy mà đất nước vẫn cứ lạc hậu, Việt
Nam vẫn thuộc những nước nghèo nhất thế giới, GDP bình quân của Việt Nam
mới bằng 1/14 Malaysia, 1/30 Hàn Quốc, tại sao như vậy? Tại sao cái tiềm năng
ấy chưa được phát huy, điều gì ngăn trở giải phóng cái tiềm năng ấy? Giải đáp
nghịch lý này chỉ có một cách trả lời: vì cơ chế quản lý chưa thuận, vì trí tuệ
cộng đồng chưa cao, vì cái phần mềm hệ thống còn nhiều trục trặc, vì trí tuệ và
tài năng đang bị vướng mắc bởi một cơ chế tự thân mâu thuẫn, thiếu nhất quán.
Do đó vấn đề cốt tử là nên tập trung trí tuệ cải cách quản lý, xây dựng một môi
trường kinh tế xã hội lành mạnh và thoáng đãng, tự nó khuyến khích mọi sáng
kiến chủ động, tự nó phát huy mọi tài năng sáng tạo, đồng thời tự nó hạn chế,
loại trừ những yếu tố và xu hướng tiêu cực.


Nhiều thí dụ lịch sử đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này, tưởng
không cần nhắc lại vì ai cũng đã biết rõ:
- Khoảng cách công nghệ giữa Tây Âu và Mỹ những năm 60 không phải
do người Mỹ tài giỏi gì hơn mà chủ yếu do cách quản lý của Mỹ thuận lợi hơn

cho tài năng nảy nở và phát triển.
- Singapore, Hàn Quốc, Hồng Công lên nhanh đâu phải vì các dân tộc họ
thông minh hơn Việt Nam.
- Ngẫm lại bản thân ta cũng thấy quá rõ: nếu 15 năm trước, Việt Nam
không đổi mới thì bây giờ Việt Nam đang ở đâu trên thế giới này?
5. Trong cơ chế quản lý thì bộ phận lạc hậu cần cải cách nhất là quản lý
tài chính, tiền tệ và quản lý hành chính. Tài chính tiền tệ là lĩnh vực nhạy cảm
nhất trong kinh tế thời nay, còn hành chính là bộ máy trực tiếp hàng ngày với
người dân. Riêng đối với chúng ta, có hai căn bệnh kinh niên trầm trọng, mà
nếu không khắc phục được thì có bàn tới kinh tế tri thức cũng vô ích:
- Tham nhũng. Chuyện này quá cũ, quá nhàm, nếu cứ tiếp tục cách chống
tham nhũng như chúng ta đã làm từ hàng chục năm nay thì có lẽ mười năm nữa
tình hình cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Cần phải thay đổi cách nhìn, đi sâu vào
những nguyên nhân gì đưa đẩy cả một xã hội vốn rất tốt đến chỗ một bộ phận
tham nhũng, dối trá xuất hiện ở mọi ngành, mọi nơi. Trong y tế có thời chúng ta
đã đề ra một khẩu hiệu cực kỳ sáng suốt: Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Khẩu hiệu
ấy cũng đúng cho mọi lĩnh vực. Chống tham nhũng tất nhiên phải trừng trị và
trừng trị nghiêm, song điều quan trọng hơn là phải phòng tham nhũng, và muốn
vậy phải có phương thức quản lý tài chính và chế độ phân phối thu nhập hợp lý.
Trong khi tiền lương không đủ sống thì chống tham nhũng thế nào đây? Do đó,
nếu không khẩn trương cải cách quản lý tài chính tiền tệ như các nước văn minh
thì mọi cải cách khác đều khó.
- Quan liêu, lãng phí. Chuyện này cũng quá cũ và cũng như tham nhũng,
đây là hậu quả không thể tránh của cách quản lý tài chính tiền tệ luộm thuộm,
và chế độ lương phi lý, khiến cho các cơ quan hành chính, thay vì phục vụ dân,


đã vi phạm quyền làm chủ của dân. Do đó phải coi cải cách hành chính là việc
cấp bách để có thể thực hiện thuận lợi các cuộc cải cách khác. Vấn đề chỉ ở chỗ
cải cách như thế nào cho có hiệu quả vì sau mấy năm thực hiện, dư luận chung

cho rằng chính công tác này cũng chưa làm tốt: chưa ổn, tiêu tốn nhiều tiền của,
công sức, thì giờ, mà kết quả chẳng được mấy.
6. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa
và kinh tế tri thức phải bắt đầu từ việc nâng cao sức cạnh tranh ở các lĩnh vực
công nghiệp thấp và vừa của nông, công nghiệp truyền thống. Tình trạng hiện
nay là ngay trong các lĩnh vực này, năng suất lao động của ta quá thấp, không
đủ sức cạnh tranh với các nước vì làm ăn kém thông minh, thể hiện ở sự thiếu
tính toán hiệu quả, không có tư duy so sánh (mía đường, xi-măng là thí dụ). Ta
băn khoăn cân nhắc giữa tư nhân hay Nhà nước, tập thể hay cá nhân, mà không
thấy điều quan trọng hơn là phân phối của cải làm ra sao cho công bằng để kích
thích được kinh tế phát triển lành mạnh.
7. Phát triển kinh tế tri thức hiển nhiên đòi hỏi phải xây dựng kết cấu hạ
tầng thích hợp. Tuy nhiên, đi đôi với kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật sờ mó
được, và hơn nữa có tiền là xây dựng được, phải hết sức chú trọng kết cấu hạ
tầng tâm lý xã hội, trước hết là giáo dục và khoa học, là những thứ mà chỉ có
tiền thôi cũng chưa đủ để xây dựng tốt.
Chúng ta đã bàn nhiều về giáo dục, đã có Nghị quyết T.Ư, đã có luật
Giáo dục, chẳng còn thiếu thứ gì, mà vẫn ì ạch, tại sao? Tôi đã có nhiều dịp phát
biểu và kiến nghị cụ thể, ở đây chỉ xin nhấn mạnh thêm: muốn tiến nhanh và
vững trong thời đại kinh tế tri thức, ưu tiên hàng đầu phải đặt vào việc chấn
hưng, cải cách, hiện đại hóa giáo dục, và hơn nữa, phải nhanh chóng tiến tới
phổ cập đại học - chứ không chỉ dừng ở trung học cơ sở (THCS) hay trung học
phổ thông (THPT). Mới nghe tưởng chừng là một mục tiêu quá xa vời, nhưng
suy nghĩ kỹ hơn và nhìn xu thế ở các nước ngay trong khu vực, chứ chưa nói tới
các nước tiên tiến trên thế giới, tôi tin rằng đối với Việt Nam không có cách lựa
chọn nào khác nếu thật sự muốn vươn lên nhanh bằng con đường trí tuệ. Phổ


cập đại học sẽ giải quyết được nạn thất học, nhu cầu học tập chính đáng của
nhân dân, sẽ có điều kiện tốt hơn để phát hiện và bồi dưỡng tài năng trẻ, mở

rộng các cánh cửa vào kinh tế tri thức, đồng thời là biện pháp gián tiếp giải
quyết nhiều vấn đề bức xúc: phát triển dân chủ, hạn chế và chống tội phạm, tạo
công ăn việc làm ổn định.
Câu hỏi đặt ra là: giáo dục THCS và THPT còn chưa xong thì làm sao
phổ cập đại học? Để trả lời câu hỏi đó nên dựa vào kinh nghiệm chống mù chữ
và phát triển giáo dục phổ thông ngay trong kháng chiến trước đây. Sự thật là
nếu cải tổ giáo dục, sử dụng hợp lý hơn đội ngũ trí thức và thầy giáo các cấp,
sửa đổi cách thi cử, tránh được những lãng phí cực kỳ to lớn trong quản lý giáo
dục hiện nay, đồng thời tận dụng các thành tựu công nghệ thông tin thời đại
Internet thì sẽ đủ khả năng vật chất đi nhanh đến phổ cập đại học. Tất nhiên có
nhiều khó khăn, nhưng chắc không thể khó hơn phát triển giáo dục trong hai
cuộc kháng chiến. Mà cần nhớ rằng chính nhờ có người lính, người dân có trình
độ học vấn khá cao so với thời kỳ trước đó, mà ta đã đánh thắng được kẻ địch
mạnh hơn gấp nhiều lần về vũ khí tối tân.



×