Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế 2 phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may việt nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.43 KB, 22 trang )

CHƯƠNG 1

LÍ THUYẾT VỀ CHUỖI CUNG ỨNG TOÀN CẦU
VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

1.1 Chuỗi cung ứng toàn cầu
1.1.1 Khái niệm chuỗi cung ứng toàn cầu
Chuỗi cung ứng được coi là đặc tính của thương mại quốc tế ngày nay. Hiểu một
cách đơn giản, chuỗi cung ứng là chuỗi hoạt động mà một công ty hoạt động trong một
ngành cụ thể, hoạt động nhằm mục đích cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ. Chuỗi cung ứng
của ngành được thực hiện theo hệ thống mạng lưới các công ty, gồm các quá trình liên
quan tới hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
Chuỗi cung ứng toàn cầu được hiểu là trình tự của hoạt động sản xuất, tạo ra sản
phẩm cuối cùng cho người sử dụng cuối cùng, trong đó hoạt động sản xuất gắn chặt với
mối quan hệ giữa các công ty, quan hệ giữa nhà cung ứng trong nước- nước ngoài, công
ty mẹ- chi nhánh nước ngoài, hoạt động thuê ngoài (outsourcing), cũng có thể hiểu đây là
dòng hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, đào tạo và bí quyết (know- how) được chu chuyển giữa
1

các quốc gia, trong đó, lao động gắn liền với toàn cầu .
Như vậy, khác với các chuỗi cung ứng nội địa, các chuỗi cung ứng toàn cầu là
chuỗi cung ứng trải rộng trên phạm vi toàn cầu không phân biệt địa giới hành chính. Việc
các chuỗi cung ứng toàn cầu mở rộng phần lớn là theo chiều ngang, không phát sinh quy
trình mới trong chuỗi giá trị mà tập trung vào việc xâm nhập thị trường mới, sử dụng các
đơn vị sản xuất mới, tăng cường đơn vị cung ứng, bổ sung thêm các cơ sở sản xuất nhằm
tối đa hoá nguồn thu và lợi nhuận, trên nguyên tắc người nào có khả năng đáp ứng đầy đủ
và tốt các yêu cầu của chuỗi cung ứng thì người đó sẽ được tham gia vào chuỗi cung ứng.
Trong thời đại hiện nay, các quốc gia cạnh tranh với nhau thông qua việc cạnh tranh
giữa các chuỗi cung ứng. Chính vì vậy, việc thay đổi tư duy từ việc tự sản xuất sản phẩm
hoàn chỉnh sang hướng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, bắt đầu từ những công


1 Theo Baldwin and Lopez- Gonzalez, 2013.

4


đoạn, chi tiết giản đơn nhưng đảm bảo chất lượng với giá cả hợp lý và càng về sau càng
nâng cao dần về sự phức tạp.
1.1.2 Các bộ phận của chuỗi cung ứng toàn cầu
Theo Hakanson và Snehota (1989), có thể xem chuỗi cung ứng bao gồm các thành
phần tham gia như sau: Nhà cung cấp, Nhà sản xuất, Nhà phân phối, Nhà bán lẻ, Khách
hàng/người tiêu dùng và Nhà cung cấp dịch vụ. Cụ thể:
Nhà cung cấp: Nhà cung cấp được xem như là một thành viên bên ngoài chuỗi cung
ứng, có năng lực sản xuất không giới hạn. Nhà cung cấp có thể là doanh nghiệp nội địa hoặc
doanh nghiệp nước ngoài được nhà sản xuất lựa chọn để mua nguyên vật liệu phục vụ quá
trình sản xuất, việc lựa chọn tùy thuộc vào năng lực và kinh nghiệm cung ứng của họ.

Nhà sản xuất: Nhà sản xuất là các tổ chức sản xuất ra sản phẩm. Bao gồm các nhà
chế biếnn nguyên liệu ra thành phẩm, sử dụng nguyên liệu và các sản phẩm gia công của
các nhà sản xuất khác để tạo ra thành phẩm. Trong luận án nghiên cứu này, nhà sản xuất
chính là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và các doanh nghiệp là khách hàng của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa này.
Nhà phân phối: Nhà phân phối là những công ty tồn trữ hàng với số lượng lớn từ
nhà sản xuất và phân phối sản phẩm đến khách hàng. Nhà phân phối cũng được xem là
nhà bán sỉ. Nhà phân phối bán sản phẩm cho những nhà kinh doanh khác với số lượng lớn
hơn so với khách hàng mua lẻ.
Nhà bán lẻ: Nhà bán lẻ là những người chuyên trữ hàng và bán với số lượng
nhỏhơn đến khách hàng. Họ luôn theo dõi nhu cầu và ý kiến của khách hàng. Do nỗ lực
chính là thu hút khách hàng đối với những sản phẩm mà mình bán nên nhà bán lẻ thường
quảng cáo, sử dụng một số kỹ thuật kết hợp về giá cả, sự lựa chọn và sự tiện dụng của sản
phẩm. Trong nghiên cứu này, họ là các cửa hàng bán lẻ, hệ thống siêu thị, các cửa hàng

giới thiệu sản phẩm...
Khách hàng/người tiêu dùng: Khách hàng/người tiêu dùng là bất kỳ cá nhân, tổ chức
nào mua và sử dụng sản phẩm. Khách hàng là tổ chức có thể mua một sản phẩm để kết hợp

5


với sản phẩm khác rồi bán chúng cho khách hàng là người sử dụng sản phẩm sau/mua sản
phẩm về tiêu dùng.
Nhà cung cấp dịch vụ: Nhà cung cấp dịch vụ là những tổ chức cung cấp dịch vụ cho
nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ có những
chuyên môn và kỹ năng đặc biệt ở một hoạt động riêng biệt trong chuỗi cung ứng. Chính vì
thế, họ có thể thực hiện những dịch vụ này hiệu quả hơn và với mức giá tốt hơn so với chính
các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay người tiêu dùng làm điều này. Để làm rõ vấn
đề này, nhóm xin minh họa 2 mô hình chuỗi cung ứng cơ bản hiện nay.



Chuỗi cung ứng đơn giản:
Nhà cung cấp

Doanh nghiệp

Khách hàng

Đây là mô hình cơ bản nhất, với ba nhân tố cấu thành bao gồm: nhà cung cấp đầu
vào, doanh nghiệp và khách hàng. Sự liên kết trong chuỗi cung ứng ở mô hình này chỉ
dừng lại ở mức độ hai bên. Mô hình quản lý chuỗi cung ứng này thường được sử dụng
cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ



Chuỗi cung ứng mở rộng:

Nhà cung

Nhà cung

Doanh

Khách

Khách hàng

cấp cuối

cấp

nghiệp

hàng

cuối cùng

cùng

Nhà cung cấp
dịch vụ: hậu cần,
Bên cạnh ba nhân tố của chuỗi cung ứng đơn giản nhất, đối với mô hình chuỗi
cung ứng mở rộng sẽ bổ sung thêm các thành phần như nhà cung cấp của nhà cung cấp,
khách hàng của khách hàng, doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ như hậu cần, dịch vụ tài

chính, tiếp thị và công nghệ thông tin,…

6


1.1.3 Đặc điểm của chuỗi cung ứng toàn cầu
Chuỗi cung ứng toàn cầu đã có tác động mạnh mẽ tới phân công lao động quốc tế,
giúp thay đổi cấu trúc kinh tế ở cả nhóm nước đang phát triển và nhóm nước có nền kinh
tế mới nổi cả về tốc độ và quy mô hợp tác kinh tế. Quá trình phân tán sản xuất diễn ra trên
hai phương diện:
(i) Phân tán sản xuất theo vị trí địa lý, cụ thể là theo quy mô từng vùng,
miền trên thế giới.
(ii) việc phân tán gắn với hình thành các trung tâm công nghiệp
(agglomerate).
Đối với nhóm nước đang phát triển, đang ở giai đoạn đầu thực hiện công nghiệp
hóa, chuỗi cung ứng toàn cầu giúp tận dụng được lợi thế thương mại, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, làm thay đổi chiến lược phát triển kinh tế và thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các nước.
Đối với nhóm nước phát triển trung bình có nền kinh tế mới nổi: Chuỗi giá trị toàn
cầu đòi hỏi phát triển các giao dịch trong và ngoài ngành, là bước tích lũy ban đầu cho sự
ra đời của các trung tâm công nghiệp ở các nước có trình độ phát triển cao hơn.
1.2 Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh quốc gia : Theo cách tiếp cận của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) thì “Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc gia nhằm đạt
được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương
đối và đặc trưng kinh tế khác”
Năng lực cạnh tranh ngành : Theo Michael E. Porter thì một ngành (sản phẩm hay
dịch vụ) là một nhóm doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm hay dịch vụ mà những sản
phẩm dịch vụ này cạnh tranh trực tiếp với nhau [117].
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm : Ở cấp độ sản phẩm, năng lực cạnh tranh chỉ

khả năng của một sản phẩm có thể bán được nhanh chóng với giá tốt so với các sản phẩm
cùng loại trên thị trường.

7


CHƯƠNG 2

PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM

2.1 Tổng quan ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt nam trong những năm vừa qua luôn là một trong những ngành
xấu khẩu chủ lực của Việt Nam. Với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật, đội ngũ tay
nghề ngày càng có tỷ lệ tăng cao, và những sự ưu đãi lớn từ chính phủ, ngành dệt may đã
thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, vừa tạo ra giá trị hàng hóa xuất khẩu, vừa đảm bảo
nhu cầu tiêu dùng trong nước, ngành dệt may.
2.1.1 Về cơ cấu xuất khẩu
Trong giai đoạn 2007-2016, ngành dệt may luôn khẳng định được vị thế, là một
trong những ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của đất nước song song với các
ngành công nghiệp khác như: điện tử, máy móc, và nông thủy sản,… Cụ thể, cho đến năm
2012 hàng dệt may là mặt hàng xuất khẩu số 1 của Việt Nam, từ năm 2013 đứng thứ hai
(sau mặt hàng điện tử).
Hình 2-1 Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2016

(Nguồn: Trademap)

Những năm tiếp theo, từ 2013 đến nay, tuy không còn là ngành công nghiệp xuất khẩu
giữ tỷ trọng lớn nhất, nhưng ngành dệt may luôn cho thấy sự ổn định, với tỷ lệ tăng trưởng
luôn dương. Cụ thể tổng xuất khẩu Việt Nam năm 2014, là 14,522,840 nghìn USD; năm


8


2015 là 15,447,215 nghìn USD, và 2016 là 16,066,192 nghìn USD, chiếm lần lượt 25,22%,

24,81%, và 24,25%.
Hình 2-2 Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2016

(Nguồn: Trademap)

2.1.2 Về kim ngạch xuất nhập khẩu ngành dệt may.
Nhìn chung trong giai đoạn từ 2007 đến 2016, cả kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu
của Việt Nam luôn tăng đều qua các năm. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu luôn lớn hơn
kim ngạch nhập khẩu.
Tuy cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 - 2009 xảy ra trên diện rộng, nhưng ngành
dệt may vẫn giữ tốc độ ổn định, giảm không đáng kể; với kim ngạch xuất khẩu năm 2008
và 2009 là 10,416,645 và 13,303,733 nghìn USD. Kim ngạch nhập khẩu đạt lần lượt qua
2 năm 2008 và 2009 là 6,673,034 và 6,393,103 nghìn USD. Những năm tiếp theo, xuất
khẩu luôn lớn hơn nhập khẩu một lượng đáng kể. Nhập khẩu năm 2016 là 16,066,192
nghìn USD, trong khi xuất khẩu năm 2016 đạt 28,704,705 nghìn USD.

9


Biểu đồ 2-1 Xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam 2007 – 2016
35000000
30000000
25000000
Thousand

USD

20000000
Nhập khẩu
15000000

Xuất khẩu

10000000
5000000
0
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016

(Nguồn: Worldbank)

2.1.3 Về tỷ lệ tăng trưởng xuất nhập khẩu.
Tỷ lệ tăng trưởng ngành dệt may của Việt Nam luôn giữ ở mức dương, ngoại trừ
năm 2009, tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu chỉ đạt mức -4,19%. Tuy nhiên từ 2009 đến nay, tỉ
lệ tăng trưởng nhập khẩu luôn ở mức dương. Trong đó, năm 2010, 2011 đạt cao nhất giai
đoạn, lên đến 32,47% và 26,74%. Cũng vào thời điểm đó, tỷ lệ xuất khẩu cũng đạt cao
nhất, năm 2010 là 27,72%, và 2011 đạt 25,98%.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây nhất trong giai đoạn, là 2015 và 2016, thì tỉ lệ
tăng trưởng có xu hướng giảm khá mạnh, ở cả nhập khẩu và xuất khẩu. Cụ thể, tỷ lệ nhập
khẩu năm 2015 và 2016 lần lượt là 6.36% và 4.01%; tỷ lệ xuất khẩu năm 2015 đạt 8.04%
và giảm còn 5.26% vào năm 2016.

10


Biểu đồ 2-2 Tỷ lệ tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam giai đoạn

2007 - 2016
35,00%
30,00%
25,00%
20,00%
15,00%
10,00%
5,00%
0,00%
-5,00%
-10,00%

2007

% tăng trưởng Nhập Khẩu
% tăng trưởng Xuất khẩu

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014


2015 2016

14,42% -4,19% 32,47% 26,74% 1,99% 17,35% 13,05% 6,36% 4,01%
17,98% 2,63% 27,72% 25,98% 8,30% 18,65% 17,21% 8,04% 5,26%

(Nguồn: Worldbank)

2.2 Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam
2.2.1 Môi trường cạnh tranh
2.2.1.1 Quy mô ngành so với thế giới
Biểu đồ 2-3 Tăng trưởng xuất khủa hàng dệt may giai đoạn 1986 - 2017

Kể từ khi mở cửa hội nhập, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
luôn đạt tăng trưởng 2 con số, vượt qua tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng bình quân
11


của xuất khẩu dệt may giai đoạn 1998 – 2016 đạt 17,7%/năm (tăng trưởng GDP cùng giai
đoạn là 6,05%/năm).
Việt Nam là nước xuất khẩu dệt may lớn thứ 4 thế giới, chiếm 4,92% giá trị xuất
khẩu dệt may toàn cầu năm 2014, sau Trung Quốc, Bangladesh, Italia. Tới năm 2018 giá
trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam ước đạt 36,2 tỷ USD chiếm 14.8% tổng kim ngạch
xuất khẩu trong nước, tăng 16,4% so với năm 2017, nằm trong top 3 nước xuất khẩu dệt
may cao nhất thế giới, đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ.
Như vậy, xét theo tốc độ tăng trưởng, ngành dệt may Việt Nam đang ở giai đoạn
tăng trưởng. Sự tăng trưởng xuất khẩu thông qua hoạt động sản xuất ở cấp thấp (hàng
may mặc) phản ánh một con đường phát triển cho ngành công nghiệp dệt may của Việt
Nam rất giống với những gì đã xảy ra ở các nước khác như Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc và
Trung Quốc. Hiểu được các giai đoạn mà ngành công nghiệp dệt may đã trải qua ở những

nền kinh tế phát triển này sẽ giúp chúng ta dự đoán quy mô và tính chất của ngành công
nghiệp dệt may ở Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển trong những năm tới.
2.2.1.2 Mức độ tập trung của các khâu trong chuỗi cung ứng trên thế giới theo địa lý
Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu bao gồm 5 khâu cơ bản:


nguyên liệu đầu vào (bao gồm sợi tự nhiên và sợi nhân tạo);



các yếu tố sản xuất (bao gồm vải từ sợi tự nhiên và vải từ sợi tổng hợp) được cung
cấp bởi các công ty sợi;



hệ thống sản xuất bao gồm các công ty sản xuất hàng may mặc;



hệ thống xuất khẩu bao gồm các trung gian thương mại, các công ty may với
thương hiệu riêng;



hệ thống Marketing bao gồm các nhà bán lẻ, cửa hàng phân phối sản phẩm tới
người tiêu dùng.

12



Hình 2-3 Sơ đồ các khâu trong chuỗi cung ứng

Nguồn: Appelbaum & Gereffi (1994), Cammett (2006)

Về nguyên liệu đầu vào:
Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Uzbekistan, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ là các quốc gia
đứng đầu về sản xuất sợi tự nhiên do có trự lưỡng về bông lớn.
Sợi nhân tạo có nguồn gốc từ dầu mỏ, khí đốt, qua quá trình trùng hợp tạo ra PTA,
MEG. Các vùng sản xuất lớn tập trung ở các nơi như: ASEAN (sản xuất từ dầu thô), Mỹ,
Canada và Trung Đông (sản xuất từ khí thiên nhiên) và Trung Quốc (sản xuất từ than đá).
Các nước sản xuất sợi tổng hợp lớn bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ,
Indonexia...
Về các yếu tố sản xuất:
Trung Quốc và Ấn Độ là là hai cường quốc tiêu thụ và xuất khẩu các sản phẩm
nhuộm vải (Trung Quốc: 40 - 45% nhu cầu tiêu thụ, Ấn Độ: 10%).
Về hệ thống sản xuất:
Các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc theo 4 phương thức chính: CMT, FOB,
ODM và OBM.

13




CMT (Cut – Make – Trim)

Đây là phương thức sản xuất đơn giản nhất với giá trị gia tăng thấp nhất. Khi sản
xuất theo phương thức này, người mua hàng sẽ cung cấp cho doanh nghiệp nguyên vật
liệu, mẫu thiết kế và các yêu cầu cụ thể, doanh nghiệp sản xuất chỉ cắt, may và hoàn thiện
sản phẩm. Sản phẩm sản xuất xong sẽ được người mua hàng đến thu gom và phân phối.



OEM/FOB (Original Equipment Manufacturing/ Free on Board)

Đây là phương thức sản xuất bậc cao hơn so với CMT hay còn gọi là “mua nguyên
liệu, bán thành phẩm”. Khi sản xuất theo phương thức này, doanh nghiệp sẽ chủ động
thêm nguyên vật liệu đầu vào để sản xuất sản phẩm. Theo đó, có 2 hình thức FOB là FOB
cấp 1 (mua nguyên vật liệu từ nhà cung cấp do bên đặt hàng chỉ định) và FOB cấp 2
(doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm tìm nguồn nguyên liệu).


ODM (Original Design Manufacturing)

Đây là phương thức sản xuất mà các doanh nghiệp chịu trách nhiệm tự thiết kế sản
phẩm, nhập khẩu nguyên vật liệu, cắt may, và vận chuyển.


OBM (Original Brand Manufacturing)

Đây là phương thức sản xuất mà các doanh nghiệp chịu trách nhiệm tự thiết kế sản
phẩm mang thương hiệu của chính mình, nhập khẩu nguyên vật liệu, cắt may, và vận
chuyển.

14


Hình 2-4 Sơ đồ phương thức OBM

CMT


Đứng đầu là Ý, Pháp, Anh, Mỹ; tiếp đến là Đức, Nhật, Hàn Quốc

OEM/FOB

Đứng đầu là Hongkong, Hàn Quốc; tiếp đến là Đài Loan, Thái Lan

ODM

Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Indonesia

OBM

Bangladesh, Việt Nam, Campuchia, Myanmar
Về hệ thống xuất khẩu:
Các nước xuất khẩu hàng dệt may hàng đầu: Trung quốc, Ấn độ, Việt Nam, Thổ

Nhĩ Kỳ, Bangladesh, Indonesia, Mexico…
2.2.2 Sản phẩm và thị trường
2.2.2.1 Sản phẩm chính
Sản phẩm may mặc xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm từ bông và sợi tổng hợp.
Hơn 60% giá trị xuất khẩu của ngành may mặc là từ áo sơ mi, áo thun, áo khoac, quần
phục vụ cho phân khúc thị trường cấp trung và cấp thấp. Các sản phẩm cao cấp như đồ
vest hay váy được xuất khẩu với số lượng rất hạn chế.
2.2.2.2 Cầu và các yếu tố quyết định đến cầu
Giá bán
Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quyết định của
khách hàng về lựa chọn sản phẩm. Trong khi đó, phần lớn sản phẩm dệt may được xuất
15



khẩu từ Việt Nam là những sản phẩm cấp thấp và trung bình, do đó không thể cạnh tranh
với những sản phẩm cùng loại từ Trung Quốc do giá thành cao hơn và thời gian sản xuất
cũng dài hơn. Chi phí cho nguyên phụ liệu, vận chuyển, lương tối thiểu tăng cao dẫn đến
giá thành sản phẩm tăng lên là nguyên nhân chủ yếu khiến giá bán sản phẩm dệt may Việt
Nam cao hơn so với các cường quốc dệt may khác như Trung Quốc, Ấn Độ hay
Bangladesh. Đối với thị trường trong nước: Mức thu nhập bình quân đầu người tại Việt
Nam chưa cao. Người tiêu dùng nội địa chi khoảng 20% thu nhập cho việc mua sắm sản
phẩm may mặc. Vì vậy, giá cả là yếu tố quyết định hàng đầu. Theo VINATEX, doanh thu
tại thị trường trong nước vẫn tăng trưởng nhưng do mức giá còn khá cao nên độ phủ sản
phẩm dệt may trong nước chưa rộng, đặc biệt là khu vực nông thôn với nhu cầu rất lớn
nhưng thu nhập còn thấp.
Kiểu dáng, thiết kế hàng may mặc
Trong 3 yếu tố tạo nên sự khác biệt cho sản phẩm may mặc là loại vải, kiểu mẫu,
kỹ thuật may và tính thời trang, thì kiểu dáng, mẫu mã là một nhân tố quan trọng, quyết
định khoảng 50% đến việc lựa chọn mua của khách hàng. Kiểu dáng của sản phẩm may
mặc Việt Nam thường ít phong phú, đơn điệu, chậm thay đổi, dẫn đến ít sự lựa chọn cho
khách hàng. Bên cạnh đó, màu sắc cũng dập khuôn, đơn điệu, ít chủng loại, chưa gây
được ấn tượng tâm lý tiêu dùng của khách hàng. Trong khi đó, không chỉ có giá cả cạnh
tranh, hàng may măc Trung Quốc mẫu mã đa dạng, phong phú màu sắc bắt mắt nên được
người tiêu dùng lựa chọn.
2.2.2.3 Thị trường chính
Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản là 3 thị trường xuất khẩu hàng đầu của ngành dệt may
Việt Nam. Trong đó, thị trường Mỹ chiếm tỷ trọng cao nhất (47%). Hiện tại Việt Nam đã
và đang tham gia và các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với các
đối tác này và được hưởng các ưu đãi thuế quan nhất định trong các thị trường này.
Tại thị trường Hoa Kỳ: Doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng gặp phải khó khăn khi
Việt Nam chỉ được hưởng thuế theo Hiệp định thương mại Việt Mỹ (2001). Theo đó, thuế
nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam từ thị trường này là 10% đối với sản phẩm sợi và 17,5%

16



đối với sản phẩm may mặc. Mức thuế này tương đương với mức thuế nhập khẩu hàng dệt
may Trung Quốc. Tuy vậy Mỹ vẫn giữ vị trí đứng đầu là thị trường nhập khẩu sản phẩm
dệt may từ Việt Nam do quy mô thị trường Mỹ lớn và tác động của cuộc chiến thương
mại Mỹ - Trung.
Tại thị trường EU: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) sẽ là cơ hội
lớn cho hàng dệt may Việt Nam tại thị trường EU, theo đó, mặt hàng dệt may sẽ có tốc độ xóa
bỏ thuế dần đều trong vòng 7 năm về 0%. Việc giảm thuế này sẽ mang đến chất xúc tác lớn
cho các DN dệt may xuất khẩu sang thị trường EU. Bên cạnh đó, Quy tắc xuất xứ của
EVFTA đối với mặt hàng dệt may sẽ đơn giản hơn so với CPTPP. Đối với CPTPP có yêu cầu
phải đáp ứng Quy tắc xuất xứ từ sợi trở đi, có nghĩa là các công đoạn từ sợi – vải

– cắt may đều phải thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, còn EVFTA chỉ yêu cầu từ vải.
Đồng thời, EU đã đồng ý cho phép cộng gộp xuất xứ với những nước đã có FTA với EU
như Hàn Quốc, Nhật Bản… Do đó, chúng ta hoàn toàn có quyền nhập khẩu vải từ Hàn
Quốc sản xuất các mặt hàng may mặc để xuất khẩu sang thị trường EU nhằm hưởng ưu
đãi về thuế quan. Tất cả các quốc gia sẽ ký FTA với EU trong tương lai cũng sẽ được tính
cộng gộp theo phương thức này.
Tại thị trường Nhật Bản: Sản phẩm may mặc Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế
nhập khẩu 0% tại thị trường Nhật theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Nhật Bản
(VJEPA).
Tại thị trường Nhật, hàng may mặc Trung Quốc và Việt Nam chiếm tỷ trọng cao nhất
trong cơ cấu nhập khẩu hàng may mặc năm 2016 (Trung Quốc: 65%, Việt Nam: 6%). Việt
Nam là nước có tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc đứng thứ hai với tốc độ tăng
trưởng bình quân là 23%/năm, tuy nhiên tỷ trọng hàng may mặc Việt Nam thấp hơn hẳn so
với Trung Quốc. Điểm đáng lưu ý là tại thị trường này, kim ngạch xuất khẩu toàn thị trường
có xu hướng giảm dần, đặc biệt là hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc về lượng đang giảm
mạnh (từ 25 triệu USD năm 2012 xuống khoảng 17 triệu USD năm 2016), trong khi đó hàng
nhập khẩu từ Việt Nam đang tăng dần (từ 0,7 triệu USD năm 2012 lên 1,4 triệu USD năm

2016). Nguyên nhân một phần là do sản phẩm may mặc Việt Nam được hưởng ưu đãi

17


thuế nhập khẩu 0% tại thị trường Nhật theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Nhật
Bản (VJEPA) trong khi hàng may mặc từ Nhật chịu thuế nhập khẩu 8,4% - 10,9%.
Biểu đồ 2-4 Tỷ trọng nhập khẩu hàng may mặc ở Nhật Bản

2.3 Nhận xét.
Việt Nam lọt vào top 3 trên thế giới về xuất khẩu các sản phẩm dệt may trong đó có

3 thị trường xuất khẩu lớn là Mỹ, EU, Nhật Bản đã chiếm 73% tổng kim ngạch cho thấy
mức độ tham gia rất rộng của dệt may Việt Nam vào các chuỗi giá trị của dệt may thế
giới. Các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương trên trường quốc tế đã
mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam.
Tuy nhiên, khâu thiết kế kiểu dáng sản phẩm được thực hiện ở các trung tâm thời
trang nổi tiếng thế giới như Paris, London, New York… Nguyên liệu chính là vải được sản
xuất tại Hàn Quốc, Trung Quốc hoặc các phụ liệu khác được sản xuất tại Ấn Độ. Ngành dệt
may Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên vật liệu (chiếm 38% giá trị XNK dệt
may). Mặc dù, khâu sản xuất, gia công sản phẩm cuối cùng được thực hiện ở các nước có chi
phí nhân công rẻ như Việt Nam, Trung Quốc nhưng các sản phẩm dệt may hoàn chỉnh sẽ
được đưa ra bán trên thị trường bởi các công ty thương mại danh tiếng. Trong chuỗi giá trị
toàn cầu hàng dệt may, khâu có lợi nhuận cao nhất là thiết kế mẫu, cung cấp nguyên phụ liệu
và thương mại.Nhưng dệt may Việt Nam chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng
với lượng giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Theo ước tính, khoảng 90% doanh
nghiệp may mặc của Việt Nam tham gia vào khâu này của chuỗi giá trị dưới hình thức gia
công. Vì vậy, tuy sản phẩm dệt may của Việt Nam được xuất đi nhiều

18



nơi, Việt Nam là quốc đứng thứ 3 về xuất khẩu các sản phẩm dệt may thế giới song giá trị
thu về không cao.

19


CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN
NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM

3.1 PHÍA NHÀ NƯỚC
Hiệp định TPP cam kết sẽ giúp giảm các loại thuế nhập khẩu một số mặt hàng dệt
may Việt Nam xuống bằng 0% hoặc gần bằng 0%, tùy thuộc vào mỗi mặt hàng. Theo đó,
hàng da giày của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ thời gian tới có thể sẽ tăng đột
biến. Trong khi xuất khẩu dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh sang thị trường
Mỹ tăng thấp, thậm chí giảm thì xuất khẩu dệt may của Việt Nam qua thị trường này lại
tăng cao với gần 13% đạt hơn 11,3 tỷ USD; xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng gần
6% (ước đạt 3,36 tỷ USD), sang Nhật Bản tăng gần 8% (ước đạt trên 2,95 tỷ USD) và
sang Hàn Quốc tăng 8,77% (ước đạt trên 2,58 tỷ USD)…
Để có thể đón nhận những cơ hội trên, cũng như hạn chế những thách thức từ các
Hiệp định FTA mang lại, vươn lên phát triển nhanh và bền vững, trở thành một trong
những trung tâm sản xuất dệt may của thế giới trong thời gian tới, Việt Nam cần phải định
hướng phát triển ngành Dệt may phù hợp đối với từng giai đoạn.
Theo kế hoạch, Bộ Công thương đã ban hành Quyết định 3218/QĐ-BCT ngày
11/4/2014 phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến 2030, trong đó mục tiêu xuất khẩu năm 2015 đã đặt ra ở mức khiêm
tốn là 23-24 tỷ USD, đến năm 2020 là 36-38 tỷ USD và đến năm 2030 là 64-67 tỷ USD.

Giới chuyên gia dự tính, kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam đến năm
2020 sẽ đạt khoảng 45-50 tỷ USD và 80-90 tỷ USD vào năm 2030. Do đó, dưới tác động
của hội nhập ngày càng sâu rộng, khả năng những mục tiêu xuất khẩu đặt ra của các quyết
định trên sẽ sớm bị lạc hậu. Chính vì vậy, thời gian tới nhà nước cần sớm giải quyết
những vấn đề sau:
Đối với Chính phủ: Cần sớm điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành Dệt may Việt
Nam giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn 2035 sao cho phù hợp với tình hình và bối cảnh mới.
Cụ thể: Quy hoạch lại các khu vực sản xuất dệt may lớn tại 3 miền (Bắc, Trung, Nam) để
kêu gọi và thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực sợi, dệt, nhuộm và hoàn tất…;
20


Có chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để phát triển dệt may phù hợp với quy hoạch
phát triển mới của Ngành…
Đối với các địa phương: Cần nghiên cứu quy hoạch, bố trí các khu công nghiệp
dệt may tại địa phương phù hợp với chiến lược phát triển chung của cả nước, tránh chồng
chéo. Phối hợp quản lý tốt các cơ sở sản xuất dệt may tránh gây ô nhiễm môi trường. Hỗ
trợ các điều kiện liên quan đến cuộc sống của người lao động và gia đình họ như nhà ở,
trường học, nhà trẻ, mẫu giáo, y tế…
3.2 PHÍA TƯ NHÂN
3.2.1 Nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh sản phẩm
Doanh nghiệp cần chuyển dần từ sản xuất gia công CMT sang các hình thức sản
xuất có hàm lượng giá trị giá tăng cao hơn, Đạt mục tiêu từ nay đến 2030 tăng tỉ lệ FOB
từ 38% lên khoảng 50% và ODM từ 5% đến 10%.
Tái cơ cấu chất lượng và đẳng cấp sản phẩm, tăng tỉ lệ sản xuất hàng trung, cao
cấp từ 10% hiện nay lên 25%, giữ tỉ lệ hàng trung bình khá là 30% và giảm tỉ lệ hàng chất
lượng trung bình và thấp xuống dưới 30% vào năm 2030.
Phát triển sản phẩm khác biệt có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm chất lượng cao (về
vải, phụ kiện và hoàn tất) mới, chuẩn quốc tế về chứng chỉ ISO 9000, tiêu chuẩn bảo vệ
môi trường ISO 14000, Eco Friendly,… góp phần đảm bảo xuất khẩu bền vững.

3.2.2 Tăng cường xúc tiến thương mại,đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
Thay đổi lớn trong thương mại, chuỗi cung ứng, công cụ marketing đối với các sản
phẩm xuất khẩu may mặc thông qua các trang thương mại trực tuyến tại các thị xuất khẩu
dệt may như Amazon, Walmart, Alibaba,…
Các doanh nghiệp dệt may cần tích cực chủ động thông qua VITAS, Bộ Công
thương làm việc với các kênh tham tán thương mại tại những thị trường xuất khẩu là cầu
nối giúp các sản phẩm Dệt May thâm nhập và phát triển ở những thị trường tiềm năng
như các nước khối BRIC, CPTPP, các nước liên minh kinh tế Á Âu,…
Phối hợp với các DN kinh doanh logistics, DN kinh doanh cảng biển hình thành
các kho ngoại quan, các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại các thành phố lớn như
Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng
21


3.2.3 Đào tạo nhân lực dệt may chất lượng cao
Các doanh nghiệp may cần xác định cho mình một chiến lược đầu tư vào vốn nhân
lực sao cho tối ưu nhất, tức là đạt được chất lượng vốn nhân lực tốt nhất trong điều kiện
hạn chế về nguồn lực tài chính.
Xây dựng mô hình doanh nghiệp May loại vừa trong nhà trường, các cơ sở đào tạo
nhân lực dệt may. Đây là một mô hình đào tạo gắn với sản xuất có rất nhiều ưu điểm, nhất
là đối với những ngành nghề kỹ thuật mang tính thực hành cao như ngành công nghiệp
may.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành Dệt May thông qua Chương trình
hợp tác với chuyên gia, tổ chức quốc tế giữa Bộ Công Thương Việt Nam, Hiệp hội Dệt
May Việt Nam (VITAS) và các hiệp hội dệt may trên thế giới.
3.2.4 Sản xuất thông minh với công nghệ số 4.0
Công nghệ Sợi : Ứng dụng thiết bị tự động hóa, tự động đổ sợi, vận chuyển ống
sợi thô tự động sang máy sợi con, tự động đổ sợi con, tự động vận chuyển ống sợi con
sang máy đánh ống sợi, tự động đổ búp sợi đầy trên máy đánh ống sợi đã giảm được số
lượng công nhân đứng máy, nâng cao chất lượng sợi, bên cạnh đó còn làm giảm được yếu

tố chủ quan do con người can thiệp vào máy móc thiết bị.
Công nghệ Dệt vải : Ứng dụng công nghệ sản xuất vải giảm trọng, vải có xử lý
chống nhàu chống co, vải yarndyed, vải từ sợi biến tính dễ thấm hút mồ hôi, thoáng khí,
chống khuẩn, chống tia UV,… tạo ra các sản phẩm có tính khác biệt, có giá trị cao phù
hợp với xu thế sản xuất thân thiện với môi trường, sản xuất xanh
Công nghệ May : Áp dụng phương thức sản xuất Lean, 5S, TQM,… trong may
mặc, hợp lý hóa, tiết kiệm diện tích mặt bằng, nguyên liệu, nhân công, tối ưu hóa các thao
tác vận hành, tạo ra môi trường làm việc thông thoáng khoa học. CAD/CAM là phần
mềm máy tính kiểm soát sản lượng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang được các DN
dệt may tại Châu Âu sử dụng.

22


3.2.5 Nâng tầm thương hiệu sản phẩm Dệt May Việt Nam
Tăng cường các nguồn lực về nhân lực và tài lực, công nghệ cho phát triển thương
hiệu, nguồn lực quảng bá xây dựng và phát triển thương hiệu phải chiếm ít nhất 10%
doanh thu
Đẩy mạnh phương thức khai thác quyền SHTT thông qua các hoạt động như chuyển
giao quyền sử dụng (li-xăng), chuyển nhượng quyền sở hữu, nhượng quyền thương mại
(franchising), góp vốn bằng quyền SHTT… đối với các doanh nghiệp Dệt May.

23


KẾT LUẬN
Tiểu luận “Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi
cung ứng toàn cầu” đã thực hiện được các mục tiêu đề ra là nghiên cứu, đánh giá vị trí, vai
trò và sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, đồng thời tiểu luận cũng đi sâu vào phân tích các lý thuyết về cạnh tranh, năng lực

cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế, chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Thông qua quá trình phân
tích thực trạng của ngành có thể hiểu hơn về các tiêu chí cơ bản và quan trọng trong chuỗi giá
trị sản phẩm dệt may từ khâu nguyên liệu đầu vào, đến quá trình sản xuất và phân phối sản
phẩm dệt may tới người tiêu dùng. Có thể nói ngành dệt may không những là ngành xuất
khẩu mũi nhọn của Việt Nam mà còn là nguồn cung ứng sản phẩm lớn trên thị trường thế
giới, đóng góp một phần không nhỏ trong giá trị của chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ngoài ra, những điểm mạnh, điềm yếu, cơ hội và thách thức bởi cuộc cánh mạng
công nghiệp 4.0 với các sản phẩm dệt may Việt Nam trong nước và thị trường quốc tế
cũng đã được khắc họa rõ nét. Các phân tích về yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của ngành dệt may Việt Nam bao gồm mức độ tập trung của các khâu trong chuỗi, phân
tích sản phẩm và cấu trúc thị trường, các ưu đãi về thuế quan và yêu cầu về quy tắc xuất
xứ đối với các sản phẩm dệt may sau khi ký kết các hiệp định thương mại đã mở ra định
hướng nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế. Đây là những xu thế mới mà ngành dệt may Việt Nam cần nắm bắt, tận dụng
tốt cơ hội để tăng trưởng mạnh và bền vững.
Để giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm Dệt May Việt Nam có thể
nhanh chóng được áp dụng và vận dụng hiệu quả, Đảng và Chính phủ cần xây dựng cơ
chế tạo động lực phù hợp và có những cải cách thực sự để cải thiện môi trường kinh
doanh (bao gồm cả quy trình, thủ tục hành chính) và việc tiếp cận các nguồn lực (lao
động có kỹ năng, vốn và mặt bằng kinh doanh) và thúc đẩy các hành lang pháp lý, cơ chế,
điều kiện để các doanh nghiệp dệt may tham gia hội nhập kinh tế thuận lợi nhất, góp phần
nâng cao chất lượng, đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ThS. Đinh Thị Thanh Long, (8/2015), Chuỗi giá trị toàn cầu, cơ hội và thách thức
cho sự phát triển.

2. Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng , 2018, Báo cáo ngành dệt may Việt Nam.
3. Lê Hồng Thuận, 2017, “Báo cáo ngành dệt may – Thay đổi để bứt phá”
4. Hiệp hội bông sợi Việt Nam Vcosa, 7/2019, Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn
cầu của ngành Dệt May Việt Nam.
5. Tạp chí tài chính, Triển vọng của dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu:
/>6. />
25



×