Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tiểu luận kinh tế phát triển thúc đẩy thành phần kinh tế tư nhân tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.73 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong mọi nền kinh tế, không phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của quốc gia,
kinh tế tư nhân luôn tồn tại. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vị
trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Nhờ
vậy, kinh tế tư nhân không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong những nhân tố chính tạo nên
sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Trải qua hơn 30 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã không chỉ dần
được phục hồi mà còn có những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Trong một vài năm gần đây, Việt Nam đã có sự nỗ lực đáng kể nhằm hoàn thiện môi
trường pháp lý và kinh doanh cho khu vực kinh tế tư nhân, do đó đã góp phần thúc đẩy phát
triển khu vực tư nhân trong nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy khu vực kinh tế tư nhân của Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Trước đây đã có một số nghiên cứu về khu vực kinh tế
tư nhân. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sâu và cập nhật về thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở
Việt Nam cũng như đưa ra các giải pháp vẫn luôn luôn cần thiết và mang tính thời sự đối với
phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, nhóm đã chọn đề tài “Thúc đẩy thành phần
kinh tế tư nhân tại Việt Nam” để nghiên cứu đưa ra môt số giải pháp cụ thể. Vì thời gian
nghiên cứu có hạn, vốn hiểu biết còn ít ỏi và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, bài làm của
nhóm chúng em sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định, rất mong được sự giúp đỡ của
thầy và các bạn để bài viết của chúng em được hoàn thiện hơn.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
1. Nghiên cứu của PGS.TS Hồ Trọng Viện: Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – Nghiên cứu Kinh tế số 318, tháng 11 – 2004
1.1 Kết quả bài nghiên cứu đạt được
Bài nghiên cứu của tác giả Hồ Trọng Viện với đề tài “Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” có kết câu 2 chương như sau: chương I.
Tính tất yếu khách quan và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thời kỳ quá độ và
chương II. Một số kiến nghị về tổ chức quản lý nhằm phát huy vai trò của nền kinh tế tư nhân


trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bài viết đã chỉ ra được lý do, tính tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư
nhân trong thời kỳ quá độ thông qua việc nêu ra yêu cầu của quy luật sản xuất, nói về đặc
trưng của thời kỳ quá độ, về những sai lầm trong việc nhận thức mô hình XHCN dẫn đến chủ
trương “công hữu hóa, xóa tư hữu” coi kinh tế tư nhân là phi chủ nghĩa xã hội nhưng từ Đại
hội VI của Đảng năm 1986 đã đổi mới tư duy với chủ trương: xây dựng nền kinh tế hàng hóa
định hướng XHCN với cơ cấu nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Quan điểm đó vẫn nhất quán cho đến nay và vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng
định biểu hiện qua việc các văn bản pháp lý như Luật doanh nghiệp đã ra đời (tháng 1 năm
2000). Tác giả cũng đã nói qua về tác động tiêu cực của kinh tế tư nhân như: chạy theo lợi
nhuận bất chấp thủ đoạn, phương tiện, trốn thuế, kinh daonh hàng giả,… Tại mục 2 trong
chương I, đề cập đến 6 vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân: Huy động nguồn vốn trong xã
hội cho đầu tư phát triển, thúc đẩy sản xuất, đóng góp vào ngân sách nhà nước và địa phương,
tạo nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, thực hiện dân chủ hóa kinh
tế, kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển, kinh tế tư nhân phát triển góp phần tích cực vào
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiệu quả, hiện đại, giải quyết việc làm,
chuyển dịch cơ cấu lao động và phát triển nguồn nhân lực và góp phần mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại, hiển đại hóa sản xuất. Tác giả đã đưa ra những bảng số liệu, dữ liệu và lý luận
thực tiễn để dẫn chứng cho từng vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của kinh tế tư nhân và bối cảnh trong thời kỳ
quá độ tác giả rút ra được 5 giải pháp kiến nghị về tổ chức quản lý nhằm phát huy vai trò của
2


nền kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một là đổi mới
cách tiếp cận về tổ chức quản lý đối với kinh tế tư nhân bằng cách tiếp cận “khu vực kinh tế”
chứ không phải “thành phần kinh tế”. Hai là không nên phân chia thành phần kinh tế cá thể,
tiểu chủ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân mà nên gọi chung là khu vực kinh tế đầu tư nước
ngoài. Ba là Đảng và nhà nước tạo điều kiện, động viên, khuyến khích mọi công dân tham gia

đầu tư phát triển kinh tế tư nhân (dưới các hình thức thích hợp) theo quy định của pháp luật để
tạo ra nhiều của cải cho xã hội vì còn tồn tại quy định là đảng viên không được kinh doanh tư
nhân. Bốn là không nên phân chia thành phần kinh thế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài mà nên gọi chung là khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài. Và năm là
thay cách diễn đạt “thành phần kinh tế tập thể” (mà nòng cốt là các hợp tác xã). Và tác giả đã
đưa ra lý do chứng minh cho giải pháp đó bằng những lập luận sắc bén từ thực tế và những
câu hỏi mở khiến người đọc phải suy nghĩ.
Bài viết chỉ có 2 chương chính nên kiến thức không bị lan man, các luận điểm, luận cứ
và dẫn chứng ngắn gọn, cô đọng, dung ngôn từ dễ hiểu.
1.2 Hạn chế của bài nghiên cứu
Theo nhóm 14, bài nghiên cứu cón tồn tại một số hạn chế như sau:
Một là trong phần giải pháp về việc khuyến khích mọi công dân tham gia kinh doanh
tư nhân thì tác giả mới đề cập đến những đảng viên đang không là cán bộ, công chức nhà nước
thì nên được phép kinh doanh tư nhân. Vậy tác giả đã bỏ qua thành phần đảng viên đang là
cán bộ, công chức nhà nước. theo nhóm 14 thì thành phần này cũng nên được phép kinh doanh
tư nhân nếu họ có khả năng về nguồn lực và có khả năng cân bằng công việc nhà nước và
công việc tư của họ
Hai là nhóm 14 cũng cho rằng giải pháp gọi thành phần kinh tế tư bản nhà nước và
thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chung là khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài là
chưa hợp lý. Vì đâu phải thành phần kinh tế tư bản nhà nước cũng có vốn nước ngoài và việc
gọi chung như vậy, khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ rất khó xác định luật
giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể kinh doanh mà thỏa mãn các điều ước quốc tế.
2. Nghiên cứu của Ths. Trần Thị Bình, Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Thực
trạng và giải pháp – Tạp chí Triết học, số 2 (285), tháng 2 – 2015
2.1 Kết quả bài nghiên cứu đạt được

3


Trong bài nghiên cứu, trên cơ sở phân tích những yếu kém cơ bản của kinh tế tư nhân

cũng như nguyên nhân dẫn đến những yếu kém đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm
góp phần khắc phục hạn chế và phát huy hơn nữa những tiềm năng vốn có của kinh tế tư nhân.
Không thể phủ nhận thành tựu mà kinh tế tư nhân đã đạt được trong những năm đổi
mới là rất to lớn. Kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ là một bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân đã tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động.
cung cấp được nhiều hàng hóa phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, góp phần
tăng trưởng sản phẩm quốc nội. Mặc dù có nhiều khó khăn trong nước cũng như bối cảnh thế
giới tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp song nhiều doanh nghiệp tư nhân vẫn phát triển
mạnh mẽ, hình thành tập đoàn kinh tế tư nhân có thương hiệu, uy tín trong nước và quốc tế
như Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, Vin group, FPT,… đóng góp không nhỏ vào kinh tế quốc
gia.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều yếu
kém. Tính chung 6 tháng đầu năm 2014, số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể
hoặc tạm ngừng hoạt động có đăng ký tăng 16,3% so với cùng kì năm trước và chủ yếu là
doanh nghiệp tư nhân, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng rất chậm (tăng 0,1% so 6 tháng đầu
năm 2013). Trong bảng xếp hạng doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt
Nam 2013, doanh nghiệp tư nhân đang mất dần vị thế trên bảng xếp hạng. Tổng số thuế của
nhóm doanh nghiệp tư nhân thấp hơn cả nhóm doanh nghiệp nước ngoài cho thấy rằng các
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đang có dấu hiệu chững lại bời vì trong rất nhiều
chỉ số thể hiện khả năng của doanh nghiệp thì việc đóng thuế thu nhập dooanh nghiệp là tiêu
chí lớn nhất.
Tác giả đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của sự yếu kém. Thứ nhất, do khó khăn chung
của nền kinh tế thế giới 2018. Thứ hai, một số chính sách của nhà nước về phát triển kinh tế tư
nhân chưa hoàn thiện; các doanh nghiệp gặp nhiều khó khan về chí phí sản xuất tăng cao, thị
trường tiêu thụ nhỏ, khó tiếp cận nguồn vốn ưu đãi,...Thứ ba, ý thức chấp hành pháp luật yếu
kém của một số doanh nghiệp tư nhân.
Từ thực trang và nguyên nhân đó, bài nghiên cứu đưa ra một số giải pháp như: Tạo
điều kiện thuận lợi về cơ chế cho kinh tế tư nhân được dễ dàng tiếp cận vốn, mặt bằng sản
xuất,…; cần có sự quyết tâm cao hơn nữa từ mọi cấp, ngành trong việc nỗ lực cải thiện môi
trường thu hút đầu tư, cải cách hành chính và giải quyết nhanh chóng các khó khan cho doanh

4


nghiệp; cần sớm hoàn thiện cơ chế, chính sách cho khu vực kinh tế tư nhân; bản thân các
doanh nghiệp cần nỗ lực tối đa để vượt qua sự trì trệ hiện có, không nên quá trông chờ và dựa
dẫm vào những thuận lợi từ cơ chế, chính sách Nhà nước.
2.2 Hạn chế của bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu đã cơ bản đưa ra được thực trạng và giải pháp liên quan đến phát triển
kinh tế tư nhân tuy nhiên công trình nghiên cứu chưa đề cập đến những đặc điểm phát triển
của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam để đưa ra các giải pháp cụ thể hơn cho khu vực này.
Với vai trò ngày càng quan trọng của kinh tế tư nhân, nhằm khắc phục những tồn tại, yếu kém
của kinh tế tư nhân ở Việt Nam thì việc tham khảo bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tê tư
nhân của một số quốc gia là việc làm cần thiết song bài nghiên cứu cũng chưa đề cập tới vấn
đề này.
3. Nghiên cứu của Nguyễn Đình Luận, Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam, Tạp chí phát triển và hội nhập – số 25(35) – tháng 11-12/2015
3.1 Kết quả bài nghiên cứu đạt được
Bài viết này tác giả chủ yếu phân tích vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế
của VN trong thời gian vừa qua. Với một nền kinh tế đa thành phần cùng tồn tại và phát triển,
không còn dừng lại ở khía cạnh xem xét để xóa bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế nào mà cần
nhận thấy mỗi thành phần kinh tế có bản chất riêng, có quy luật kinh tế riêng, dựa trên một
hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Vì vậy, tác giả nhân định điều quan trọng là
phải nắm vững bản chất của từng thành phần kinh tế và sử dụng chúng một cách có hiệu quả
nhất để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, chủ động mở cửa hội nhập sâu
hơn nữa vào kinh tế quốc tế giúp cho nền kinh tế nước nhà ngày càng vững mạnh.
Để làm rõ bài nghiên cứu tác giả đưa ra khái niệm tăng trưởng kinh tế, kinh tế tư nhân.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là
thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia. Tăng trưởng kinh tế làm
cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng
được cải thiện; tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp; tạo tiền đề vật chất

để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà
nước đối với xã hội. Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là
điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang phát triển
và phát triển. Về kinh tế tư nhân, đó là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân,
5


trong đó các chủ thể của nó được tiến hành sản xuất, kinh doanh một cách tự chủ vì lợi ích của
bản thân cá nhân, và thông qua đó thực hiện lợi ích xã hội. Qua đó tác giả đưa ra vai trò của
kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Thứ nhất, kinh tế tư nhân góp phần
khơi dậy một bộ phận quan trọng tiềm năng của đất nước, tăng nguồn nội lực, tham gia phát
triển nền kinh tế quốc dân: thúc đẩy lực lượng sản xuất; góp phần quan trọng thu hút vốn nhàn
rỗi của xã hội và sử dụng tối ưu các nguồn lực của địa phương; đóng góp đáng kể vào nguồn
thu ngân sách nhà nước. Thứ hai, kinh tế tư nhân đã có những đóng góp quan trọng vào việc
thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Thứ ba, kinh tế tư nhân phát
triển góp phần thu hút một bộ phận lớn lực lượng lao động và đào tạo nguồn nhân lực cho thị
trường lao động. Thứ tư, kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2 Hạn chế của bài nghiên cứu
Trên thực tế, kinh tế tư nhân và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Khu vực kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế ngược lại tăng trưởng
kinh tế là động lực to lớn cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên bài nghiên cứu
mới chỉ dừng lại ở việc phân tích vai trò của kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế mà
chưa đề cập đến chiều ngược lại: tăng trưởng kinh tế có vai trò như thế nào đối với kinh tế tư
nhân đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế những năm gần đây.
4. Nghiên cứu: Lê Duy Bình, Kinh tế tư nhân Việt Nam: năng suất và thịnh vượng, 2018
4.1 Kết quả của bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu đã giới thiệu chung về quá trình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
tại Việt Nam qua các thời kì cho đến nay. Trong giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước
đây tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân đã không được chính thức công nhận cho tới năm
1986, với chính sách Đổi Mới, khu vực tư nhân mới chính thức được công nhận là một bộ

phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và của nền kinh tế
nhiều thành phần. Thông qua Luật Doanh nghiệp (1999) và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban
chấp hành TW Đảng khóa XII (2007), khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được chú trọng và
phát triển. Từ đó đến này, môi trường chính sách và pháp lý cho khu vực kinh tế tư nhân đã
liên tục được cải thiện.

6


Nội dung chính của bài nghiên cứu là làm rõ vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trong
quá trình phát triển kinh tế và những thách thức đặt ra trong quá trình phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân.
Vai trò của kinh tế tư nhân được thể hiện qua: Số lượng doanh nghiệp tham gia vào kinh
tế tư nhân gia tăng mạnh mẽ, dẫn đến sự tăng trưởng mạnh về tổng vốn của các doanh nghiệp
tư nhân; Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp lớn vào việc hình thành tài sản cố định và đầu
tư dài hạn của khu vực doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung, là nhân
tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây
(chiếm 38,6% GDP năm 2016); tạo việc làm, giảm nghèo, cải thiện điều kiện sống, tăng
trưởng bền vững và toàn diện ở Việt Nam. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần
đáng kể vào việc trao quyền kinh tế cho phụ nữ, đặc biệt là thông qua cơ hội việc làm và
nguồn thu nhập.
Những khó khăn mà kinh tế tư nhân gặp được nêu ra gồm: Khoảng cách đang ngày càng
lớn dần giữa số lượng doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh và số lượng doanh nghiệp đang
thực sự hoạt động; Năng suất và tốc độ tăng năng suất của khu vực kinh tế tư nhân còn thấp và
có nhiều hạn chế, chủ yếu do phần lớn các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ và nhỏ. Quá trình
tích tụ vốn bằng nguồn nội lực trong các doanh nghiệp tư nhân trong nước diễn ra với tốc độ
chậm chạp. Mỗi liên kết giữa các cấu phần của khu vực kinh tế tư nhân, giữa các doanh
nghiệp tư nhân trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất yếu và có nhiều
hạn chế; Sự suy giảm của những nguồn lực đầu vào, chi phí nhân công ngày càng tăng cao
trong những năm gần đây; chi phí cho môi trường kinh doanh cao, đắt đỏ; Vẫn còn tồn tại sự

phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp tư nhân và DNNN, giữa doanh nghiệp tư nhân trong
nước và doanh nghiệp FDI; khó khăn trong tiếp cận nguồn tài chính và các công nghệ tiên tiến
;Cơ sở hạ tầng cho nghiên cứu và phát triển. Luật và các quy định về sở hữu trí tuệ chưa được
thực hiện hiệu quả, dẫn đến tình trạng vi phạm phổ biến về quyền sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu và
bản quyền.
Bài nghiên cứu cũng đưa ra một số giải pháp như sau: Chính phủ cần tập trung mạnh mẽ
hơn vào chất lượng tăng trưởng của các doanh nghiệp tư nhân; Trong nội bộ khu vực doanh
nghiệp, cần có các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy quá trình tái phân bổ nguồn lực giữa
những khu vực doanh nghiệp có khả năng sử dụng nguồn lực (vốn, lao động, đất đai) hiệu quả
hơn. Các biện pháp chính sách nhằm tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong
7


nước, các doanh nghiệp FDI và DNNN cần được ban hành và thực thi. Các biện pháp nhằm xử
lý thiếu vắng các doanh nghiệp quy mô vừa (the missing middle) cần được hỗ trợ bởi các biện
pháp và chính sách nhằm thúc đẩy tích tụ vốn, khuyến khích sự tăng trưởng về quy mô của các
doanh nghiệp tư nhân. Chính sách phát triển doanh nghiệp cần ưu tiên vào việc nâng cao năng
lực của doanh nghiệp tư nhân trong việc ứng dụng và nâng cao trình độ công nghệ. Giáo trình
giảng dạy và đào tạo về nội dung Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán (STEM) cần được
cập nhật và cải tiến liên tục. Cùng với xu hướng của Công nghiệp 4.0, sự tăng trưởng của khu
vực tư nhân cần phải được dẫn dắt bởi các hoạt động sáng tạo, phải được hướng tới mục tiêu
năng suất cao hơn nhằm đảm bảo năng lực cạnh tranh vững chắc trong những thập niên sắp
tới. Khu vực kinh tế tư nhân cần chuẩn bị tốt hơn cho thực trạng già hóa dân số, về việc thời
kỳ “dân số vàng” sẽ sớm trôi qua và chi phí lao động ngày một tăng; đồng thời cải thiện năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp và khu vực tư nhân để tăng cường năng lực quốc gia của Việt
Nam.
4.2 Hạn chế của bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu khá tổng quan về vai trò, hạn chế và các cách giải quyết, do đó chưa đi
sâu phân tích các vấn đề một cách triệt để, đồng thời chưa làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự phát
triển cũng như sự kém thích nghi của các doanh nghiệp tư nhân trong bối cảnh kinh tế - xã hội

hiện nay.
5. Nghiên cứu của TS. Phạm Thị Lương Diệu, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam dưới tác động của việc
cải thiện môi trường pháp lý, 2018
5.1 Kết quả bài nghiên cứu đạt được
Bài viết gồm có 3 phần: tích cực tạo lập hành lang pháp lý cho kinh tế tư nhân;
kinh tế tư nhân phát triển mạnh, nhưng còn nhiều bất cập; một số khuyến nghị, giải pháp để
kinh tế tư nhân phát triển bền vững. Bài viết đã trình bày được khái quát về bức tranh nền kinh
tế tư nhân của nước ta trong quá trình cải thiện môi trường pháp lí. Cụ thể, đầu tiên tác giả đã
nêu ra khái niệm kinh tế tư nhân, rồi sau đó chỉ ra những thay đổi trong nhận thức của Đảng
Cộng sản Việt Nam theo từng giai đoạn về hành lang pháp lí cho nền kinh tế tư nhân trong
nước.
Từ năm 1951, Đảng ta coi kinh tế tư nhân như một bộ phận của nền kinh tế, là lực lượng
cần thiết cho xây dựng kinh tế nước nhà. Bước vào giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa (từ năm
8


1958), Đảng, Nhà nước Việt Nam lại nỗ lực biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn 1960 - 1975, kinh tế tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu
vực hộ kinh doanh, thường không có tư cách pháp nhân và hoạt động chủ yếu ở “thị trường
ngầm”. Đến Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam mới chính thức thừa
nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân, các thành phần kinh tế “phi xã hội chủ nghĩa” được tồn tại
và hoạt động dưới sự dẫn dắt của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1986 đến năm
1998, tư duy, nhận thức của Đảng về kinh tế tư nhân có bước phát triển đáng kể, song chính
sách và luật pháp liên quan đến khu vực kinh tế này vẫn còn nhiều bất cập. Đáp ứng yêu cầu
đó, Luật Doanh nghiệp ra đời năm 1999 xóa bỏ sự phân biệt đối xử về mặt luật pháp đối với
doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam. Đại hội IX (năm 2001) của Đảng tiếp tục có những nhận
thức mới, đầy đủ hơn. Năm 2005, Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua, có những
bước tiến đáng kể so với Luật Doanh nghiệp năm 1999. Đại hội X của Đảng (năm 2006) có
bước đột phá mới trong nhận thức về kinh tế tư nhân: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng,

là một trong những động lực của nền kinh tế”. Đại hội XI (năm 2011) của Đảng tiếp tục xác
định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân. Đặc biệt, Đại hội
XII (năm 2016) của Đảng khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát hơn khi coi kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế; nhấn mạnh yêu cầu cấp bách “hoàn thiện chính sách
hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình
thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà
nước”
Ngoài ra để thể chế hóa các quan điểm, chủ trương nói trên, Nhà nước đã ban hành các
bộ luật và văn bản hướng dẫn như: Luật Thuế tài nguyên năm 2009, Luật Sở hữu trí tuệ sửa
đổi 2009, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Luật
Trọng tài thương mại 2010, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014,… Nhờ
những cải tiến trong hành lang pháp lý của Đảng và Nhà nước mà Kinh tế tư nhân đã phát
triển mạnh hơn biểu hiện ở: Số lượng doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký có xu
hướng tăng trong giai đoạn 2011 – 2017; Cho đến cuối năm 2017, kinh tế tư nhân liên tục duy
trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 39% - 40% GDP; Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng
góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước, vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế quốc dân, tuy nhiên tác giả chỉ ra còn nhiều bất cập, điển hình là: quy mô của doanh

9


nghiệp tư nhân còn nhỏ; sự tăng trưởng thiếu bền vững của các doanh nghiệp tư nhân và đầu
tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp tư nhân còn manh mún, không đồng đều.
Để giải quyết những bất cập đó, tác giả đã nêu ra bốn khuyến nghị, giải pháp để kinh tế
tư nhân phát triển bền vững. Một là, về xây dựng chiến lược, quy hoạch hợp lý trên cơ sở hoàn
thiện bộ máy tổ chức quản lý, đẩy mạnh hoạt động marketing, thực hành các biện pháp giảm
thiểu rủi ro trong kinh doanh cùng nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khác. Hai là,
Các doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, sắp xếp, sử dụng các
nguồn lực một cách hợp lý; hoàn thiện phương thức quản lý và cơ cấu tổ chức; nâng cao trình
độ cán bộ, công nhân viên, phát triển văn hóa doanh nghiệp lành mạnh. Ba là, về chủ động

phòng ngừa, hạn chế rủi ro và cuối cùng là về đổi mới công nghệ, hiện đại hóa trang thiết bị
được coi là chìa khoá của thành công. Bên cạnh đó, tiết kiệm, giảm giá thành, giảm tỷ lệ hàng
kém chất lượng, chống hàng giả cũng góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bài nghiên cứu khá xúc tích, logic khi hướng đến thực trạng, khó khăn và đề xuất giải
quyết vấn đề, cụ thể là bức tranh hành lang pháp lý cho nền kinh tế tư nhân.
5.2 Hạn chế của bài nghiên cứu
Ở phần Một số khuyến nghị, giải pháp để kinh tế tư nhân phát triển bền vững, tác giả đã
đưa ra những khuyến nghị, giải pháp phù hợp từ nội tại tư nhân, tuy nhiên cũng cần có sự hỗ
trợ, tạo điều kiện từ Đảng và Nhà nước, cụ thể cần tiếp tục thay đổi nhận thức về kinh tế tư
nhân, cần có sự thống nhất nhận thức trong xã hội về khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế tư nhân, từ đó tạo lập môi trường đầu tư , kinh doanh thuận lợi cho phát triển
tư nhân. Ở đây vai trò quản lý của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
khung pháp lý hiệu quả, bình đẳng, thuận tiện cho kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển. Để kinh
tế tư nhân phát triển bền vững cần có sự nỗ lực thay đổi từ cả hai phía.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.
Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam
Theo số liệu thống kê từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Các doanh
nghiệp mới thành lập tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực như: bán buôn, bán lẻ, chế biến chế
tạo, kinh doanh bất động sản, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ lưu trú và ăn uống,.. tại các khu
vực đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung,…

10


Tuy nhiên, Kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ kinh doanh; trình
độ công nghệ, trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh
thấp... Nhiều doanh nghiệp tư nhân ngừng hoạt động, giải thể và phá sản.
Bên cạnh đó, tình trạng vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong kinh tế

tư nhân còn khá phổ biến. Tình trạng sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, không bảo
đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; gian lận thương mại… diễn ra nghiêm trọng, phức tạp. Nhiều
doanh nghiệp của tư nhân không bảo đảm lợi ích của người lao động, nợ bảo hiểm xã hội, báo
cáo tài chính không trung thực, nợ quá hạn ngân hàng, trốn thuế và nợ thuế kéo dài.
2.2.

Những rào cản của quá trình thúc đẩy kinh tế tư nhân hiện nay
Trong hơn ba thập kỷ qua, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đã có bước phát triển cả về

lượng và chất, góp tích cực vào giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản của đất nước. Tuy
nhiên, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều
rào cản. Cụ thể:
-

Các rào cản có liên quan đến tư duy lý luận và nhận thức đối với sự phát triển của khu
vực kinh tế tư nhân. Cụ thể là việc xác định rõ nội hàm xã hội chủ nghĩa của nền kinh

-

tế thị trường, vai trò của kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước…
Các rào cản liên quan đến khung khổ pháp luật cho sự phát triển khu vực kinh tế tư
nhân. Tuy nhiên đến nay, hệ thống thể chế và pháp luật của Việt Nam theo yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế vẫn còn chưa hoàn thiện và đầy đủ.,
dẫn tới tình trạng các cơ quan thừa hành và các DN lúng túng trong việc chấp hành

-

luật.
Các rào cản liên quan đến môi trường đầu tư và kinh doanh: rào cản về gia nhập thị


-

trường, tiếp cận nguồn vốn,…
Các rào cản có liên quan đến việc thực thi các quy định đối với hoạt động của khu vực

-

kinh tế tư nhân.
Các rào cản liên quan đến sự bất bình đẳng trong cơ chế chính sách đối với khu vực
kinh tế tư nhân trong tương quan so sánh với khu vực kinh tế nhà nước và khu vực đầu

-

tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Các rào cản liên quan đến hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước. Bộ máy quản lý
nhà nước đối với hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân còn nhiều bất cập, chưa thực
sự hiệu quả và nặng về cơ chế xin - cho.

11


CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT NAM
3.1.

Đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về kinh tế tư nhân
Nhà nước với các nguồn lực, công cụ, chính sách sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc định

hướng và điều tiết nền kinh tế, bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế, kiểm soát các nguồn
tài nguyên chiến lược, phát triển kết cấu hạ tầng và dịch vụ công có vốn đầu tư lớn, luân
chuyển chậm, lợi nhuận không cao, rất cần thiết cho nền kinh tế - xã hội mà khu vực tư nhân

không sẵn sàng đảm nhận. Các doanh nghiệp tư nhân phần lớn vẫn hoạt động ở thị trường
trong nước, chỉ rất ít doanh nghiệp lớn vươn được ra thị trường nước ngoài ở một mức độ
khiêm tốn. Ngay cả ở thị trường trong nước, dưới sức ép cạnh tranh gay gắt các doanh nghiệp
tư nhân lớn cũng bắt đầu có xu hướng rút khỏi các ngành sản xuất công nghiệp, nhường lại sân
chơi cho các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, cần có thêm nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến
khích và giúp đỡ cho các doanh nghiệp có thể vươn xa hơn, phát triển mạnh lực lượng doanh
nghiệp trong nông nghiệp và ở nông thôn. Cần giảm thiểu sự "lấn sân" của các doanh nghiệp
nhà nước đối với khu vực tư nhân đồng thời có chính sách tăng cường phát triển khối doanh
nghiệp tư nhân theo cả chiều dọc và chiều ngang để vừa giải quyết những cản trở chung đối
với nền kinh tế vừa tạo nên những đột phát trong phát triển năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
3.2.

Khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân
Cần tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành và lĩnh vực

mà pháp luật không cấm. Tập trung hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới, sáng tạo, hiện đại hóa công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực thông qua việc khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân đầu tư
vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ; kết nối doanh nghiệp, ý
tưởng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với các nhà đầu tư, quỹ đầu tư; thúc đẩy hình thành và
phát triển các khu công nghệ cao, các vườn ươm công nghệ cao và các doanh nghiệp khoa học
công nghệ. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trong đó, đội ngũ cán bộ, công
chức, cần có sự đột phá trong tư duy và hành động, kiên trì đổi mới, hoàn thiện và tổ chức
thực hiện thật tốt luật pháp, cơ chế, chính sách phù hợp với quy luật thị trường và thông lệ,
chuẩn mực quốc tế; xóa bỏ mọi định kiến, rào cản; cải cách mạnh các thủ tục hành chính rườm
rà, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển...
12


3.3.


Tăng cường liên kết doanh nghiệp tư nhân và các loại hình doanh nghiệp khác
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là yếu tố quan trọng đóng góp

vào việc tạo thêm việc làm, tăng sản lượng công nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam.
Để tăng cường kiên kết giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp
Việt Nam phải biết nắm bắt thời cơ, xây dựng chí hướng lớn với tinh thần dám nghĩ, dám làm
và khát vọng bay cao, bay xa thì mới có thể lớn mạnh, tham gia vào sân chơi chung với các
tập đoàn trong khu vực và trên thế giới. Thay vì tạo ra những gói hỗ trợ cho từng nhóm đối
tượng doanh nghiệp, Chính phủ cần tập trung vào việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi,
đẩy mạnh kết nối một cách công bằng để các doanh nghiệp được cạnh tranh bình đẳng. Hình
thành các khu công nghiệp, khu chế xuất riêng biệt, tách biệt các doanh nghiệp FDI có thể
giúp nâng cao hiệu quả hoạt động và xuất khẩu.
3.4.

Nâng cao năng lực quản lý và hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
Yếu tố con người là rất quan trọng, các doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức về tuân

thủ đối với đội ngũ nhân sự. Quan trọng là cần phải phát hiện kịp thời nhằm giảm thiểu tổn
thất, thắt chặt việc quản lý nhân sự, tăng cường giám sát việc tuân thủ và ứng xử phù hợp,
trong đó luôn đặt quyền lợi của khách hàng lên hàng đầu. Hoàn thiện các quy định để quản lý,
kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp. Rà soát việc tổ chức, triển khai thực hiện các văn
bản pháp luật của Trung ương và địa phương nhằm phục vụ tốt hơn yêu cầu quản lý, đồng thời
không gây khó khăn, phiên hà cho người dân, doanh nghiệp.
3.5.

Xoá sự phân biệt giữa doanh nghiệp tư nhân và các loại hình doanh nghiệp khác
Để bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực của doanh nghiệp

trong thời gian tới, Chính phủ Việt Nam nên tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn

về thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ các quy định về cấp phép
kinh doanh, xuất nhập khẩu, quản lý thị trường. Quản lý thực hiện kế hoạch phát triển.
Tạo mọi khả năng để các doanh nghiệp tư nhân dễ dàng tiếp cận với các nguồn lực phát triển
như: Tài chính, đất đai, công nghệ, nhân lực. Thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động trong
triển khai các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân.
13


Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân ở tất cả các
ngành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để các hộ và cá
nhân tự nguyện liên kết hình thành doanh nghiệp hoặc các hình thức tổ chức hợp tác khác. Về
phía Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, cần có sự đột phá trong tư duy và hành động,
kiên trì đổi mới, hoàn thiện và tổ chức thực hiện thật tốt luật pháp, cơ chế, chính sách phù hợp
với quy luật thị trường và thông lệ, chuẩn mực quốc tế; xóa bỏ mọi định kiến, rào cản; cải
cách mạnh các thủ tục hành chính rườm rà, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát
triển.
3.6.

Nâng cao chất lương nguồn nhân lực của doanh nghiệp tư nhân
Chất lượng giáo dục luôn là vấn đề cốt lõi, là yếu tố sống còn của từng cơ sở giáo dục,

cũng như cả hệ thống giáo dục đại học. Xây dựng tiêu chuẩn đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, có năng lực hành nghề chuyên môn, kỹ năng mềm, đặc biệt kỹ năng giao tiếp và
làm việc nhóm, kỷ luật đạo đức làm việc, trách nhiệm nghề nghiệp và trách nhiệm lao động.
Tập trung vào việc xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách phát triển giáo dục nghề nghiệp phù
hợp với xu thế hội nhập; hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp; nâng
cao chất lượng dạy nghề, tiếp cận các chuẩn khu vực và thế giới.

14



KẾT LUẬN
Nhận thức được việc thúc đẩy thành phần kinh tế tư nhân là nhiệm vụ tất yếu trong quá
trình phát triển nền kinh tế theo định hướng nền kinh tế thị trường, Đảng và Chính phủ đã định
ra đường hướng và có những hành động cụ thể, tuy nhiên, lại chưa mang lại những bước
chuyển mình mang tính đột phá cho nền kinh tế. Nguyên do có thể là từ những rào cản vẫn
còn đang tồn đọng như: về pháp lý, môi trường kinh doanh hay từ chính năng lực yếu kém của
thành phần kinh tế tư nhân chưa thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp vốn nước ngoài.
Trong tương lai, Đảng và Nhà nước cần can thiệp sâu hơn, xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo
mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng, phát huy
mặt tích cực có lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra,
giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là
phòng, chống mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm”, thao
túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính nhằm đạt được mục tiêu
phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh
nghiệp và đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp. Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh
tế tư nhân vào GDP để đến năm 2020 đạt khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030
khoảng 60-65%.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Hồ Trọng Viện. (2014). Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghiên cứu kinh tế, 318.
2. TH.S Trần Thị Bình. (2015). Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Thực trạng và giải

pháp, Triết học, 2(285).
3. Nguyễn Đình Luận. (2015). Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt

Nam, Phát triển và hội nhập, 25(35).
4. Lê Duy Bình. (2018). Kinh tế tư nhân Việt Nam: năng suất và thịnh vượng, Economica

Việt Nam.
5. TS. Phạm Thị Lương Diệu. (2018). Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam dưới tác

động của việc cải thiện môi trường pháp lý. [online] Tạp chí Cộng Sản.
/>fbclid=IwAR1cCumxQiAbl84lNUWbXUPZrzq01OUUiXBNeoKHsZmYUDkfrZqqU
oXBYR0
6. Trần Quang Tuyến & Vũ Văn Hưởng (2017). Sự phát triển của khu vực doanh nghiệp

tư nhân trong nước ở Việt Nam: Những rào cản phát triển, Quản lý kinh tế.
7. Hakkala, K. & Kokko, A. (2007). The state and the private sector in Vietnam.

Stockholm, Sweden: The European Institute of Japanese Studies.
8. Nguyễn Sơn Hồng & Trần Tuyến Quang (2014). Báo cáo tổng kết 30 năm công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
(2010), Phát triển
kinh tế tư nhân, Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương
9. Báo Tài chính doanh nghiệp, (2018). Vai trò và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế tư
nhân.[Online] />
16



×