Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Bảo tồn di sản văn hóa chùa phật tích huyện tiên du tỉnh bắc ninh hiện nay​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ HOA

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA CHÙA PHẬT TÍCH
HUYỆN TIÊN DU TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ HOA

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA CHÙA PHẬT TÍCH
HUYỆN TIÊN DU TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. LÊ THỊ MINH THẢO

HÀ NỘI - 2019



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô Lê Thị Minh Thảo –
người đã truyền cảm hứng, động lực cũng như bảo ban em trong quãng thời gian
làm khóa luận.
Em cũng xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo, cán bộ, công nhân viên của
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 nói chung cũng như của khoa GDCT nói riêng
lời cảm ơn chân thành nhất.
Để gặt hái được thành quả như ngày hôm nay, không thể không nhắc đến sự
giúp đỡ, động viên và luôn luôn ủng hộ của gia đình, thầy cô, bạn bè đã giúp em
hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Vì em mới lần đầu tham gia nghiên cứu khoa học nên trong quá trình thực
hiện vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
quý thầy cô và các bạn để em hoàn thành khóa luận một cách tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Hoa


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Bảo tồn di sản văn hóa
chùa Phật Tích huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh hiện nay” là công trình nghiên cứu
của riêng em. Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất kì kết quả nghiên cứu
của tác giả nào. Nếu những điều mà em nói trên đây là sai, em xin chịu hoàn toàn
mọi trách nhiệm trước hội đồng.

Hà Nội, tháng 5 năm 2019

Sinh viên

Nguyễn Thị Hoa


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Tên đầy đủ

DSVH

Di sản văn hóa

PGS.TS

Phó giáo sư tiến sĩ

BQLDT

Ban Quản lý di tích

UBND

Ủy ban nhân dân

DTLSVH

Di tích lịch sử văn hóa


VH-TT&DL

Văn hóa Thông tin và Du lịch


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN
HÓA CHÙA PHẬT TÍCH HUYỆN TIÊN DU TỈNH BẮC NINH ...................... 9
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................................ 9
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................... 12
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 29
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA CHÙA
PHẬT TÍCH ............................................................................................................. 28
2.1. Thành tựu và nguyên nhân ................................................................................. 28
2.2. Hạn chế và nguyên nhân .................................................................................... 37
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 41
CHƢƠNG 3 ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA CHÙA PHẬT TÍCH ................................ 42
3.1. Định hướng trong bảo tồn di sản văn hóa .......................................................... 42
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn phát huy di sản văn hóa
chùa Phật Tích ........................................................................................................... 47
Tiểu kết chương 3...................................................................................................... 51
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 53

1



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển đời sống vật chất của con người ngày
càng tăng. Song song với đó, đời sống tinh thần con người ngày càng được chú
trọng hơn. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, việc quan tâm tới công tác bảo tồn di sản văn hóa của các
dân tộc ngày càng trở nên quan trọng. Di sản văn hóa chính: “là sự kết tinh trí tuệ,
truyền thống của dân tộc Việt Nam. Các giá trị di sản văn hóa được hình thành tạo
nên một môi trường văn hóa lành mạnh, mang ý nghĩa to lớn đối với việc hình
thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Bản thân các di sản văn hóa do cha ông ta sáng
tạo ra, truyền lại cho thế hệ hôm nay tạo ra một hệ thống các giá trị có vai trò to lớn
trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, những dấu ấn về thời gian,
những giá trị lịch sử - văn hóa của dân tộc được lưu giữ và bảo tồn qua nhiều thế hệ,
trên nhiều di sản”.
Nhận thức được tầm quan trọng của di sản văn hóa, Đảng đã đề ra Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII: “về việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã nêu rõ di sản văn hóa là tài sản vô giá giúp
gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những
giá trị mới và giao lưu văn hóa”. Di sản văn hóa giúp thỏa mãn những nhu cầu sinh
hoạt tâm linh của nhân dân, nâng cao tinh thần tự hào dân tộc trong mỗi người dân
Việt, làm cho nền kinh tế phát triển - xã hội ổn định.
Có thể nói nước ta là một trong những quốc gia có “nguồn di sản văn hóa vô
cùng phong phú. Ngoài hệ thống di sản văn hóa của dân tộc ra không thể không
nhắc đến những di tích văn hóa. Di tích văn hóa: “là những minh chứng vật chất xác
thực của quá trình lao động sáng tạo, tâm linh, chinh phục thiên nhiên, quá trình
dựng nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam từ hàng nghìn năm nay, là tài sản
được lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau”. Bên cạnh những di tích nổi tiếng
tầm Quốc gia như Đền Hùng, Đền Cổ Loa, Cố đô Huế, ... thì những ngôi đền, chùa,
đình, miếu cũng là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam nói chung và người dân

mỗi địa phương nói riêng. Di sản văn hóa đặc biệt chùa Phật Tích tại xã Phật Tích
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh cũng là một trong những di tích đặc biệt quan trọng.
Đồng thời, là niềm tự hào của người dân huyện Tiên Du nói riêng cũng như nhân
dân tỉnh Bắc Ninh nói chung”.
1


Chùa Phật Tích là ngôi chùa có bề dày lịch sử. Đây là “nơi đạo Phật du nhập
đầu tiên từ Ấn Độ vào Việt Nam. Nơi đây có được những dấu tích cổ xưa và là nơi
đặc biệt thiêng liêng”. Do đó ngôi chùa phản ánh lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc cũng như phong tục tập quán của nhân dân địa phương.
Trước xu hướng đô thị hóa – hiện đại hóa và quá trình mở cửa hội nhập và
giao lưu văn hóa với bạn bè quốc tế, di sản văn hóa đang đứng trước nhiều cơ hội
phát triển nhưng cũng nhiều thách thức đối với công tác bảo tồn di sản văn hóa của
dân tộc.
Trong những năm gần đây, việc bảo tồn di sản văn hóa là “một vấn đề cấp
thiết mang tính thời sự cao. Di sản văn hóa không chỉ bị ảnh hưởng bởi thời gian,
khí hậu mà sẽ mất đi giá trị nguyên gốc nếu không nhận được sự quan tâm, quản lý
chặt chẽ của các cơ quan có thẩm quyền quản lý”. Chùa Phật Tích cũng là di sản
văn hóa cần được quan tâm chú trọng trong công tác bảo tồn.
Từ những lí do trên, em đã chọn đề tài: “Bảo tồn di sản văn hóa chùa Phật
Tích huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ những thế kỷ đầu công nguyên, chùa Phật Tích đã hình thành trung tâm
Phật giáo Luy Lâu. Đây là ngôi chùa được coi là: “cái nôi của Phật giáo Việt Nam.
Chùa được xây dựng và tồn tại như là sản phẩm văn hóa truyền thống của nhân dân
huyện Tiên Du nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Năm 1962, với những giá
trị đặc biệt về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Chùa Phật Tích đã được xếp hạng di
tích lịch sử văn hóa cấp quốc”. Vì vậy việc bảo tồn di sản vănhóa chùa Phật Tích
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh luôn luôn là vấn đề thu hút nhiều sự quan tâm nghiên

cứu.
Dựa trên những cơ sở những quan niệm DSVH của quốc tế và Việt Nam.
Năm 1997, GS.TS. Hoàng Vinh hoàn thành cuốn sách “Một số vấn đề về bảo tồn và
phát triển di sản văn hoá dân tộc”. Tác giả đã đưa ra một hệ thống lý luận về DSVH,
đồng thời bước đầu vận dụng nghiên cứu DSVH nước ta.
Năm 2006 Bộ văn hóa Thông tin ấn hành, Hà Nội đã hoàn thành công trình
“Một con đường tiếp cận di sản văn hóa”. Công trình tập hợp nhiều bài nghiên cứu
về lí luận di sản văn hóa cũng như thực tiễn có thể làm tư liệu nghiên cứu cho đề
tài. Nổi bật trong đó là các bài: “Khảo cổ học với công tác bảo vệ và phát huy di
sản văn hóa” (Vũ Quốc Hiền), “Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng của phát triển
2


bền vững” (Lê Thành Vinh), “Di tích lịch sử văn hóa đồng bằng sông Hồng” (Đặng
Văn Bài), “Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử - văn hóa Đường Lâm”
(Phan Huy Lê).
Cuốn sách “Giữ gìn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc Tây Bắc” được nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc – Tạp chí Văn hóa nghệ thuật phát hành. Cuốn sách này
có thể cung cấp cho người đọc có thể nhận diện một số vấn đề lí luận về di sản văn
hóa.
Bài báo “Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa các dân
tộc hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Huy trong Tạp chí Cộng sản số 20, năm
2013, bài báo đã đề cập đến vấn đề lí luận và thực tiễn của công tác bảo tồn phát
huy di sản văn hóa trên phạm vi cả nước.
Bài viết “Bảo vệ di sản, cuộc chiến từ những góc nhìn” của tác giả Ngô
Phương Thảo đăng ở Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 289 tháng 07/2008. Bài viết đã
đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay. Theo quan điểm của tác giả thì:
“Mỗi ngày, di sản văn hoá càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ những hệ
lụy của cuộc sống hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách nhiệm phải gìn giữ các
giá trị văn hoá đã tồn tại với thời gian càng lan toả sâu rộng trong toàn xã hội, trong

mỗi cộng đồng để dẫn tới những chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn
trong việc gìn giữ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể”.
Năm 2007 phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Chí Bền viết bài “Nghiên cứu bảo tồn
di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta hiện nay” đăng trên báo văn hóa. Bài báo bàn
sâu về cách thức bảo tồn văn hóa phi vật thể hiện nay với kinh nghiệm của một
người quản lý văn hóa tác giả Nguyễn Hữu Kim giám đốc sở văn hóa thể thao và du
lịch Vĩnh Phúc có nhiều đề xuất về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa ở Vĩnh
Phúc.
Tác giả Chu Quang Trứ đề cập đến di sản văn hoá vùng đồng bằng Bắc Bộ
trong bối cảnh chung của DSVH dân tộc. Trong cuốn sách “Di sản văn hoá dân gian
trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam” (NXB Thuận Hoá, Huế, 1996),
* Một số những công trình nghiên cứu về di sản văn hóa ở tỉnh Bắc Ninh:
Cuốn sách “Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam” của nhà xuất bản văn hóa dân
tộc do Nguyễn Lan Phương biên soạn cũng đã đề cập những giá trị truyền thống
trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa chùa Phật Tích.

3


Trần Đình Luyện chủ biên (2002), “Văn hiến Kinh Bắc tập 1”, Sở VH-TT
Bắc Ninh. Cuốn sách đã giới thiệu một số làng quê tiêu biểu của Bắc Ninh, những
vị trạng nguyên xứ Bắc - đại biểu cho vùng đất hiếu học và truyền thống khoa bảng
rực rỡ, đứng đầu các địa phương trong nước thời phong kiến, một số DTLSVH nổi
tiếng trở thành di sản của nền văn hóa dân tộc
Cuốn “Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Kinh Bắc” của tác giả Trần Đình
Luyện (2006), “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Kinh Bắc, Sở VH-TT Bắc Ninh
là tập hợp một số công trình nghiên cứu của tiến sĩ Trần Đình Luyện trong quá trình
tìm hiểu, đánh giá vai trò của Bắc Ninh - Kinh Bắc trong lịch sử dân tộc, khái quát
những đặc trưng của nền văn hiến Kinh Bắc đặc biệt đi sâu nghiên cứu khu di tích
đền thờ Kinh Dương Vương giá trị lịch sử văn hóa, Luy Lâu - lịch sử và văn hóa,

đền Đô (Đình Bảng) và những kỉ niệm về vương triều nhà Lý trên quê hương Cổ
Pháp, bia đền Cổ Pháp, khu di tích chùa Cảm Ứng - giá trị lịch sử văn hóa, đền Vua
Bà - di tích về Thủy tổ Quan họ Bắc Ninh”. Kết quả của công trình nghiên cứu đã
được vận dụng ngay trong thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa của tỉnh
Bắc Ninh trong những năm qua.
Lê Viết Nga chủ biên (2006), “Văn Miếu Bắc Ninh”, Bảo tàng Bắc Ninh,
đây là tập sách ảnh về di tích Văn Miếu trước và sau khi tu bổ nhằm góp phần tìm
hiểu sâu sắc hơn về giá trị lịch sử, ý nghĩa nhân văn của công trình tín ngưỡng văn
hóa tiêu biểu mang đậm đà bản sắc dân tộc.
Lê Viết Nga chủ biên (2007), “Chùa Dâu (Diên ứng tự)”, Bảo tàng Bắc
Ninh, đây là tập sách ảnh chủ yếu giới thiệu về các hạng mục công trình xây dựng,
hệ thống tượng thờ, bia đá và các di vật có giá trị nghệ thuận cao, tiêu biểu ở chùa
Dâu trước và sau đợt tu bổ đầu thế kỷ XXI. Các hình ảnh và tư liệu của tập sách góp
phần cho người xem nhận thức tổng quan sâu sắc hơn về di tích chùa Dâu.
BQLDT tỉnh Bắc Ninh (2008), “Di sản văn hóa thời Lý là cuốn sách thiết
thực chào mừng đại lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đây là công trình
đầu tiên giới thiệu một cách hệ thống giá trị và hiện trạng di sản văn hóa thời Lý ở
Bắc Ninh trong đó tập trung giới thiệu những DTLSVH thời Lý, có liên quan đến
thời Lý như chùa Phật Tích, chùa Tiêu, chùa Dạm, đền Đô… thuộc di tích văn hóa
vật thể thời Lý”.
Nhân dịp chào mừng sự kiện Bắc Ninh đón bằng công nhận “Dân ca Quan
họ Bắc Ninh - di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” tổ chức vào tháng 4

4


năm 2010 và đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội tổ chức vào tháng 10
năm 2010 BQLDT tỉnh Bắc Ninh xuất bản cuốn sách“Các di tích tiêu biểu tỉnh Bắc
Ninh” tập 1, nhằm tuyên truyền quảng bá, giới thiệu tới đông đảo bạn đọc về di sản
văn hóa tỉnh Bắc Ninh - tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là

bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, tập trung giới thiệu một số di tích tiêu biểu ở
tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở tư liệu các di tích đã được lập hồ sơ xếp hạng và khảo sát
thực tế tại các di tích tiêu biểu trong tỉnh.
Nguyễn Đức Thìn (2010), “Di tích lịch sử văn hóa đền Đô”, NXB Văn hóa
Dân tộc. “Cuốn sách đã giới thiệu một cách hệ thống và khá toàn diện về khu di tích
đền Đô, các di tích đền đài, chùa, tháp, lăng mộ thời Lý và các di tích lịch sử cách
mạng của xã Đình Bảng”. Qua đó giúp người đọc hiểu biết về lịch sử truyền thống
văn hiến và cách mạng của xã Đình Bảng.
Nguyễn Thừu, Phạm Thuận Thành (2011), Hương Thủy Tự và nữ tướng Bà
Ba Cai Vàng, NXB Văn hóa dân tộc. Hai tác giả đã sưu tầm, biên soạn giới thiệu về
“vùng đất văn hóa Thuận Thành - Bắc Ninh và chùa Hương Thúy nơi thờ bà Ba Cai
Vàng”.
Bảo tàng Bắc Ninh (2012), “Di tích văn hóa về truyền thống hiếu học tỉnh
Bắc Ninh”, Lê Viết Nga chủ biên. Nội dung cuốn sách đi sâu nghiêu cứu “di sản
văn hóa về truyền thống hiếu học - khoa bảng của tỉnh Bắc Ninh theo địa danh, địa
giới hành chính hiện nay (2012), sách bao gồm nhiều chuyên đề nghiên cứu về di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể phản ánh truyền thống hiếu học - khoa bảng của
tỉnh Bắc Ninh”.
Nguyễn Đức Thìn (2012), Đình Bảng quê hương nhà Lý, NXB Văn hóa "Di tích lịch sử văn hóa tỉnh Bắc Ninh”, Bảo tàng Bắc Ninh, nhóm tác giả đã giới
thiệu hơn 1000 DTLSVH của tỉnh Bắc Ninh theo địa giới hành chính huyện thị
ngày nay. Trong đó có các DTLSVH đã được Nhà nước xếp hạng, có giá trị tiêu
biểu được giới thiệu chi tiết đầy đủ hơn các di tích khác. Thông qua nội dung cuốn
sách, người đọc sẽ tiếp thu được nhiều lượng thông tin khác nhau, nhiều di tích thờ
thần, thành hoàng làng bị mất tư liệu gốc: thần tích, sắc phong, nội dung văn tế
…qua đây sẽ được hiểu biết để tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm đầy đủ và chính xác
hơn.
BQLDT tỉnh Bắc Ninh (2014), “Các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
Nhà nước về di tích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, cuốn sách giới thiệu toàn văn Luật

5



di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và các văn bản dưới luật
“về bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSVH trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Cuốn sách
giúp cho công tác quản lý di tích ở cơ sở và nhân dân hiểu biết, nắm vững Luật di
sản văn hóa và các văn bản dưới luật để thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quy
định của Nhà nước trong việc bảo tồn di sản văn hóa. Cuốn sách đã góp phần bảo
tồn và phát huy giá trị các DTLSVH trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”.
*Báo, tập chí, luận văn
Tác giả Nguyễn Tuấn có bài “Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Nhân Chiến
kiểm tra tiến độ xây dựng Công viên Nguyễn Văn Cừ” trên Báo Bắc Ninh trang 1,
số 2743 ra ngày 13/4/2012 phản ánh tiến độ xây dựng công viên Nguyễn Văn Cừ
đây là công trình xây dựng dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh nhân
kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ.
Trên Báo Bắc Ninh ngày 8/8/2012 số 2826, tác giả Nguyễn Văn Phong Giám đốc SVHTT&DL có bài “Bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử gắn
với quy hoạch phát triển du lịch”. Bài viết đã nêu lên “thực trạng của công tác bảo
tồn và phát huy giá trị các DTLSVH ở Bắc Ninh đồng thời nhấn mạnh thế mạnh về
tiềm năng du lịch văn hóa của Bắc Ninh gắn với hệ thống các DTLSVH và quy
hoạch các khu du lịch và các điểm du lịch gắn với các DTLSVH tiêu tiêu biểu của
Bắc Ninh”.
Tác giả Nguyễn Văn Ảnh - Phó giám đốc Sở VH-TT&DL có bài “Tuyên
truyền quảng bá về giá trị di sản văn hóa” trên Báo Bắc Ninh ngày 16/4/2013 số
3005. Bài viết về “việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá, giới thiệu những
di sản văn hóa Bắc Ninh trong đó có các DTLSVH”.
Trên Báo Bắc Ninh ngày 16/4/2013 số 3005, tác giả Lê Viết Nga - Giám
đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh có bài “Công tác nghiên cứu giáo dục lịch sử của Bảo
tàng tỉnh”. Bài viết về “công tác nghiên cứu sưu tầm hiện vật, tài liệu lịch sử phục
vụ công tác trưng bày, giới thiệu, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, giáo dục lịch sử cho
công chúng”.
Nhìn chung, những nghiên cứu về di sản văn hóa Bắc Ninh rất phong phú.

Do thời gian có hạn, người viết không thể điểm xuyến hết được, chỉ xin nêu ra một
số bài nghiên cứu tiêu biểu, có liên quan đến đề tài. Tuy nhiên, những bài báo, sách
trên mới chỉ dừng lại ở việc khảo cứu, thống kê, giới thiệu, mô tả hệ thống di sản
văn hóa. Tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về công tác bảo

6


tồn giá trị di sản văn hóa chùa Phật Tích Huyện Tiên Du Tỉnh Bắc Ninh. Kế thừa
quan điểm chung cùng một số lí luận và kinh nghiệm của các tác giả đi trước, tác
giả đi sâu nghiên cứu bảo tồn di sản văn hóa chùa Phật tích góp phần xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, nghiên cứu về “các giá trị di sản văn hóa chùa Phật Tích. Khảo sát
thực trạng bảo tồn di sản văn hóa. Trên cơ sở đó, đưa ra các định hướng và các giải
pháp nhằm bảo tồn di sản văn hóa Chùa Phật Tích trên địa bàn Bắc Ninh nói riêng
và người Việt Nam nói chung”.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Vận dụng những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lenin, các chính
sách chủ trương của Đảng và Nhà nước, những quan niệm của nhân loại tiến bộ về
bảo tồn di sản văn hóa, kết hợp với những kết quả nghiên cứu tổng kết thực tiễn, đề
tài thuyết minh sáng rõ về mối quan hệ, vai trò của hoạt động bảo tồn DSVH với
đời sống người dân Bắc Ninh.
Khảo sát, nghiên cứu thực trạng công tác bảo tồn các DSVH tại Bắc Ninh
dựa trên những thành tựu, hạn chế, từ đó tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thực
trạng đó.
Đưa ra một số định hướng và các giải pháp nhằm bảo tồn di sản văn hóa
Đồng thời cung cấp thêm những tư liệu cần thiết để hoàn thiện t chính sách bảo tồn
DSVH dân tộc.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề bảo tồn di sản văn hóa chùa Phật tích huyện Tiên Du tỉnh
Bắc Ninh.
* Phạm vi nghiên cứu
- Khóa luận nghiên cứu vấn đề bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Bắc Ninh. Đặc
biệt là bảo tồn di sản văn hóa chùa Phật Tích huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
- Thời gian: Nghiên cứu từ khi tái lập lại tỉnh Bắc Ninh 1997 đến nay

7


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Vận dụng các quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về di sản văn hóa để nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu khác như: “Phương pháp
logic và lịch sử; phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp phân tích, tổng
hợp,..”
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa lí luận
- Khóa luận góp phần làm rõ những đặc trưng về di sản văn hóa tỉnh Bắc
Ninh đặc biệt là di sản văn hóa chùa Phật Tích.
- Thông qua đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về “thực trạng bảo tồn di sản văn
hóa Bắc Ninh từ đó đề ra những giải pháp nhằm bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Bắc
Ninh theo chủ trương, đường lối của Đảng”.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Khóa luận có thể làm nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành
hoặc những ai quan tâm trong việc tìm hiểu và nghiên cứu di sản văn hóa của tỉnh

Bắc Ninh nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Khóa luận bao
gồm 3 chương và 6 tiết.

8


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA CHÙA
PHẬT TÍCH HUYỆN TIÊN DU TỈNH BẮC NINH
1.1. Cơ sở lý luận
* Một số khái niệm cơ bản
* Văn hóa: “Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và
như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như
ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các
phương tiện”... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của
văn hóa.
Theo cách nhìn nhận và tiếp cận khác nhau các nhà khoa học đã đưa ra
những định nghĩa về văn hóa:
 Nhà ngôn ngữ học người Mỹ - Edward Sapir đã nhận định : “ văn hóa chính
là bản thân con người, cho dù là những người hoang dã nhất sống trong một
xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử và
quan điểm được bảo tồn theo truyền thống”.
 Nhà xã hội học người Mỹ - William Isaac Thomas : “coi văn hóa là các giá
trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào”.
 Nhà nhân loại học người Mỹ - Ralph Linton, định nghĩa: “Văn hóa suy cho
cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên xã hội”.
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do

con người sáng tạo ra trong lịch sử". [27-tr.8]
Năm 2004 trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản
Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản thì đưa ra những quan niệm về văn
hóa: “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội”. [24-tr.9]

9


UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa năm 2002, như sau: “Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Tóm lại, văn hóa có thể định nghĩa như sau: “Văn hóa là tổng thể những giá
trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữ con người với môi trường tự nhiên và xã
hội”.
* Di sản văn hóa
“Khái niệm di sản văn hoá”, có thể xác định được một cách thuận lợi từ khái
niệm về văn hoá. Như ta đã biết, “văn hoá” có thể định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau. Nhưng xu hướng định nghĩa “văn hoá” theo tính giá trị và tính đặc trưng cho
cộng đồng chủ thể sáng tạo đang được nhiều người chấp nhận nhất.
Theo tác giả Trần Ngọc Thêm thì : “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình họat động
thực tiễn”. [21-Tr.7]. Tính chất lưu truyền đã biến văn hoá của thế hệ trước trở
thành di sản văn hoá của thế hệ sau.
Ngoài ra trong từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa: “Di sản là cái của thời đại

trước để lại”. [18, tr.254]. Theo nghĩa Hán Việt: “di sản văn hóa là những tài sản
văn hóa có giá trị của quá khứ còn tồn tại trong cuộc sống đương đại và tương lai.
Di là để lại, còn lại, dịch chuyển, chuyển lại. Sản là tài sản, là những giá quý giá, có
giá trị. Di sản văn hóa được hiểu bằng sự tổng hợp của các ý nghĩa nói trên”.
Trong điều 1 Luật Di sản văn hóa của Việt Nam nêu rõ định nghĩa về di sản
văn hóa của Việt Nam như sau: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể
và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”. [16-tr.17]
“Văn hóa” là cái chung, “di sản văn hóa” là cái riêng. Mọi yếu tố của “di sản
văn hóa” đều là “văn hóa”, nhưng không phải mọi yếu tố của văn hóa đều là “di sản
văn hóa, vì trong văn hóa còn nhiều yếu tố bị mai một trong dòng chảy lịch sử, do
không vượt qua đuợc thử thách của thời gian nên không được lưu truyền lại cho thế
hệ sau thành di sản văn hóa, hoặc những yếu tố văn hóa mới được hình thành chưa
10


được thẩm định của thời gian”.
Như vậy, “di sản văn hoá” nói chung rất đa dạng, phong phú, bao gồm các
yếu tố nhân văn (di tích lịch sử văn hoá, lễ hội, làng nghề, phong tục tập
quán,…) nhưng cũng chứa đựng cả các yếu tố tự nhiên (rừng, núi, thác,…), “là tài
sản văn hóa như các tác phẩm nghệ thuật dân gian, các công trình kiến trúc, các tác
phẩm điêu khắc, các tác phẩm văn học… mà các thế hệ trước để lại cho hậu thế mai
sau”.
* Bảo tồn di sản văn hóa
“Khái niệm bảo tồn di sản văn hóa” được từ điển Tiếng Việt định nghĩa:
“Bảo tồn là giữ lại không để cho mất đi”. “Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại
của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn có. Và làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng
tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm”.
Không những vậy đối tượng bảo tồn phải được nhìn là “tinh hoa”, và khẳng

định giá trị đích thực và khả năng tồn tại theo thời gian, dưới nhiều thể trạng và
hình thức khác nhau của đối tượng được bảo tồn.
Đối tượng bảo tồn (tức là các giá trị DSVH vật thể và phi vật thể) cần thở
mãn hai điều kiện:
- Điều kiện thứ nhất là, “nó phải được nhìn là tinh hoa, là một “giá trị” đích
thực được thừa nhận minh bạch, không có gì phải hoài nghi hay bàn cãi”.
- Điều kiện hai là, “nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng
vững lâu dài (tức là có giá trị lâu dài, có thể “trơ gan cùng tuế nguyệt”) trước những
biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay với chính sách mở cửa và bối cảnh nền kinh tế
thị trường và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ sôi động”.
Bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn trong dạng “tĩnh”)
Trước hết bảo tồn nguyên vẹn văn hóa vật thể ở dạng tĩnh là: “áp dụng khoa
học công nghệ hiện đại nhằm giữ nguyên trạng những hiện vật từ sự vốn có về, vị
trí, kích thước, đường nét màu sắc, kiểu dáng. Trong quá trình phục nguyên các di
sản văn hóa vật thể cần sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại như: đồ họa kỹ
thuật vi tính công nghệ 3D theo không gian ba chiều; chụp ảnh; băng hình, video;
để có thể xác định trọng lượng, thành phần chất liệu của di sản văn hóa vật thể. Để

11


sau khi tiến hành bảo tồn nguyên vẹn, ta phải so sánh đối chiếu số liệu với nguyên
mẫu đã được lưu giữ chi tiết và không làm biến dạng những di sản văn hóa vật thể”.
Ngoài ra để bảo tồn văn hóa phi vật thể ở dạng tĩnh là “ta cần phải tiến hành
khảo sát điều tra, thu thập các dạng thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo
quy trình khoa học nghiêm túc chặt chẽ, “giữ” chúng trong sách vở, các ghi chép,
mô tả bằng băng hình (video), băng tiếng (audio), ảnh…. Tất cả các hiện tượng văn
hóa phi vật thể này có thể lưu giữ trong các kho lưu trữ, các viện bảo tàng”.
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng “động”)

Thứ hai “bảo tồn động” được coi là: “bảo tồn các giá trị văn hóa dựa trên
những cơ sở kế thừa. Bảo tồn di sản văn hóa dựa trên tinh thần giữ gìn những nét cơ
bản của di tích, cố gắng phục chế lại nguyên trạng các giá trị di sản văn hóa vật thể
bằng nhiều kỹ thuật công nghệ hiện đại đối với các di sản văn hóa phi vật thể”. Vì
vậy bảo tồn “động” dựa trên cơ sở kế thừa tức là “bảo tồn các hiện tượng văn hóa
đó ngay chính trong đời sống cộng đồng. Vì cộng đồng được coi là môi trường sản
sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể là nơi để giữ gìn, bảo tồn, làm giàu và
phát huy văn hóa phi vật thể trong đời sống xã hội theo thời gian”.
Tóm lại bảo tồn theo quan điểm phục hồi nguyên dạng DSVH phi vật thể là:
“mong muốn lí tưởng nhất, hoàn hảo nhất. Nếu không thể bảo tồn nguyên dạng thì
cần phải bảo tồn theo hiện dạng đang tồn tại. Vì theo quy luật của thời gian thì các
DSVH phi vật thể sẽ ngày càng có xu hướng xa dần nguyên gốc”. Do vậy, nếu
không thể khôi phục được nguyên gốc thì bảo tồn hiện dạng là điều cần phải thực
hiện và có ý nghĩa khả thi nhất.
Tuy nhiên, trong quá trình bảo tồn thì hiện dạng phải có mối liên hệ chặt chẽ
với nguyên dạng. Vì thế, “cần xác định rõ thời điểm bảo tồn để sau này khi có thêm
tư liệu tin cậy thì sẽ tiếp tục phục nguyên ở dạng gốc di sản văn hóa”.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát về huyện Tiên Du
* Vị trí địa lý

12


Tỉnh Bắc Ninh có diện tích là 823 km2 trong đó tám đơn vị hành chính cấp
huyện gồm: “một thành phố (Bắc Ninh), một thị xã (Từ Sơn) và sáu huyện (Yên
Phong, Quế Võ, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài)”.
Cũng nằm trên địa bàn thuộc tỉnh Bắc Ninh - huyện Tiên Du là “huyện nằm
ở phía Tây Nam tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm thành phố năm km về phía Nam,
cách thủ đô Hà Nội 25km về phía Bắc. Huyện Tiên Du nằm trong tọa độ địa lý

khoảng từ 2005’30’’ đến 2111’00’’ độ vĩ Bắc và từ 10558’15’’ đến 10606’30’’
độ kinh Đông. Đối với diện tích tự nhiên của huyện khi chưa điều chỉnh địa giới là
10.838,94 ha với 14 đơn vị hành chính gồm: 1 thị trấn (thị trấn Lim) và 13 (xã Liên
Bão, xã Đại Đồng, xã Phật Tích, xã Hiên Vân, xã Lạc Vệ, xã Nội Duệ, xã Tri
Phương, xã Hoàn Sơn, xã Tân Chi, xã Minh Đạo, xã Cảnh Hưng, xã Việt Đoàn, xã
Phú Lâm)”.
13


Trên địa bàn huyện gồm: “3 tuyến quốc lộ 1A, 1B, 38, tỉnh lộ 276, 295 và
đường sắt chạy qua nối liền với thành phố Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân
cận” do có vị trí giao thông thuận lợi tạo điều kiện giúp huyện Tiên Du có nhiều
mạnh trong việc phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa và du lịch.
Do có địa hình đồng bằng, đất đai màu mỡ, hệ thống thủy lợi tương đối hoàn
chỉnh góp phần cho việc phát triển thâm canh lúa của huyện Tiên Du đạt chất lượng
cao. Không những thế huyện Tiên Du còn là “một trong những huyện giàu truyền
thống cách mạng và văn hóa lâu đời với nhiều di tích lịch sử văn hóa: như chùa
Hồng Vân, chùa Bách Môn, chùa Phật Tích… Ngoài ra trên địa bàn huyện còn phát
triển các làng nghề truyền thống như: Nghề xây dựng ở Nội Duệ, nghề dệt lụa ở thị
trấn Lim, nghề làm giấy ở Phú Lâm…”.
Vì có vị trí địa lý thuận lợi do đó huyện Tiên Du có đủ những yếu tố để phát
huy tiềm năng đất đai cũng như các nguồn lực khác, tạo điều kiện để phát triển kinh
tế - xã hội, hòa nhập với nền kinh tế thị trường, phát triển công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp, thương mại - dịch vụ.
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Từ lâu Tiên Du luôn được nhắc tới là “vùng đất văn hiến, khoa bảng và cách
mạng. Đây là nơi từng in tích Phật dấu Tiên với bao huyền thoại đẹp, giàu giá trị tư
tưởng, nhân văn. Và cũng là nơi sinh thành của Lưỡng Quốc Trạng nguyên Nguyễn
Đăng Đạo. Trong những năm tiền khởi nghĩa vùng quê này đã sản sinh ra nhiều anh
hùng, những nhà cách mạng đã chiến đấu hết mình để bảo vệ Tổ quốc non sông

Việt Nam”.
Huyện Tiên Du có hơn 42.600 hộ, trên 152.000 nhân khẩu, với trên 9.500 ha
diện tích đất tự nhiên, phân bố ở 14 đơn vị hành chính. Trên địa bàn huyện có các
tuyến đường giao thông như: “Quốc lộ 1A, Quốc lộ 38, tỉnh lộ 276, 287, 295 B và
tuyến đường sắt Lạng Sơn chạy qua nối liền với thành phố Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội
và các tỉnh lân cận. Huyện có khu công nghiệp và đô thị VSIP, khu công nghiệp
Tiên Sơn, khu công nghiệp Đại Đồng - Hoàn Sơn, 2 Cụm Công nghiệp Phú Lâm và
Tân Chi. Điều kiện thuận lợi đó, đã góp phần giúp Tiên Du có nhiều lợi thế trong
phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
thương mại - dịch vụ”.
Năm 2017, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Đảng bộ và nhân dân
trong huyện đã nỗ lực khắc phục vượt qua khó khăn đạt và vượt nhiều mục tiêu

14


quan trọng về phát triển kinh tế xã hội – đảm bảo an ninh quốc phòng. Tổng sản
phẩm GRDP tăng 11,9%; trong đó “công nghiệp- xây dựng cơ bản tăng 13,7%;
thương mại- dịch vụ tăng 11,6%. Cơ cấu kinh tế theo ngành; công nghiệp- xây dựng
cơ bản chiếm 68,7%; thương mại- dịch vụ chiếm 25,8%; nông, lâm nghiệp, thủy sản
chiếm 5,5%”.
Ngành y tế thực hiện tốt công tác phòng dịch và chăm sóc sức khỏe nhân
dân. Công tác dân số KHHGĐ được quan tâm. Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể
dục thể thao luôn được chú trọng, công tác tổ chức sôi nổi góp phần phục vụ nhu
cầu tinh thần cho nhân dân như: Lễ hội Phật Tích, Hội Lim, …Thực hiện có hiệu
quả những nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi, việc tang lễ. Đẩy mạnh phong
trào xây dựng, làng văn hóa, gia đình văn hóa ngày một nâng cao. Đối với công tác
quốc phòng, an ninh cũng luôn được tăng cường. Chính vì vậy tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và ổn định. Đã tuyển chọn và bàn
giao 253 tân binh, đạt 100% chỉ tiêu. Việc tiếp công dân, thực hiện các quyết định,

kết luận sau thanh tra được thực hiện nghiêm túc, kịp thời đúng quy định của pháp
luật. Về công tác cải cách hành chính tiếp tục được duy trì và tiếp tục thực hiện có
hiệu quả. Đã thành lập trung tâm hành chính công của huyện với các trang thiết bị
công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân lực có trình độ để nâng cao hiệu quả phục vụ nhân
dân.
Phát huy kết quả đã đạt được, năm 2018 huyện phấn đấu tổng sản phẩm
GRDP tăng từ 9,5 đến 10%, giá trị trồng trọt đạt 113 triệu đồng/ ha; thu ngân sách
nhà nước đạt trên 1.300 tỷ đồng. Với giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp đạt trên 11.000 tỷ đồng. Duy trì tỷ lệ hộ nghèo dưới 2%. Đã giải quyết việc
làm mới cho 3.500 lao động. Do đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức 1,2%.
Năm 2018 là năm thứ 3 huyện thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện
lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2015 – 2020 và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm
2016-2020; “là năm giữa nhiệm kỳ, năm đánh giá tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
một nửa chặng đường Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra. Dẫu vẫn còn nhiều khó
khăn, thách thức nhưng những kết đạt được trong năm 2017 sẽ là cơ sở vững chắc
cho các năm tiếp theo. Với tinh thần đoàn kết, chung sức chung lòng của toàn Đảng,
toàn dân, huyện sẽ cố gắng tiếp tục thực hiện thắng lợi những kết quả đã đề ra, góp
phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp văn minh”.
* Lịch sử, văn hóa xã hội, di tích lịch sử

15


- Lịch sử:
Bắc Ninh là một trong 13 tỉnh được vua Minh Mạng thành lập đầu tiên ở Bắc
Kỳ (năm 1831). Nguyên là trấn Kinh Bắc thời vua Gia Long, được đổi thành trấn
Bắc Ninh năm 1822. Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh khi ấy bao trùm các tỉnh: “Bắc
Ninh, Bắc Giang, một phần các tỉnh Hưng Yên, Lạng Sơn và thành phố Hà Nội
ngày nay. Năm 1895 tách phủ Lạng Giang ra lập tỉnh Bắc Giang, Năm 1960 huyện
Văn Giang của Bắc Ninh được tách sang tỉnh Hưng Yên. Hợp nhất hai huyện Quế

Dương và Võ Giàng thành huyện Quế Võ ngày 05/07/1961. Từ ngày 27/10/1962
đến ngày 6/11/1996 tỉnh Bắc Ninh hợp nhất với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc,
sau đó lại tách ra như cũ từ ngày 1/1/1997. Ngày 14/03/1963, hai huyện Tiên Du,
Từ Sơn của tỉnh Hà Bắc hợp nhất thành huyện Tiên Sơn. Đến năm 2015 Bắc Ninh
cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại và trở thành Thành phố trực
thuộc Trung ương vào năm 2020”.
- Văn hóa- xã hội, di tích lịch sử
Bắc Ninh là "Vùng đất Văn hiến - Vùng đất địa linh nhân kiệt" được mệnh
danh là vùng đất khoa bảng với " Một giỏ ông Đồ - Một bồ ông Cống - Một đống
ông Nghè - Một bè Tiến sỹ - Một bị Trạng nguyên - Một thuyền Bảng nhãn”, Cùng
với Thủ đô Hà Nội, cố đô Huế, tỉnh Bắc Ninh được coi là “địa phương thứ 3 xây
dựng văn miếu có tầm cỡ, qui mô, trang trọng. Văn miếu của Bắc Ninh nổi tiếng
với 677 vị đại khoa, chiếm 1/3 tổng số vị đại khoa của cả nước đã được vinh danh.
Nhằm phát huy truyền thống hiếu học, khoa bảng từ các bậc cha anh. Mỗi năm,
Tiên Du là tỉnh có tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng khá cao, số
học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc gia cũng chiếm tỷ lệ
cao trong cả nước”.
- Di tích:
Bắc Ninh là một trong những tỉnh lưu giữ số lượng di tích lớn trên cả nước.
Hiện nay, trên địa bàn huyện Tiên Du có “01 di tích quốc gia đặc biệt là chùa Phật
Tích được công nhận tại Quyết định số 2408/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ do
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam ký và ban hành ngày 31 tháng 12 năm 2014”. Ngoài
ra, trong huyện còn có rất nhiều di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh khác nhau.
1.2.2. Tổng quan về di sản văn hóa chùa Phật Tích
* Lịch sử hình thành chùa Phật Tích

16


Chùa Phật Tích còn có tên là “Vạn Phúc Tự”, nằm ngay dưới chân núi Phật

Tích nay thuộc xã Phật Tích, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Chùa giữ vai trò quan
trọng trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, là nơi có dấu ấn đầu tiên của Phật Giáo từ
Ấn Độ truyền vào nước ta. Theo sách cổ kể lại về câu chuyện “một nhà sư người
Ấn Độ Khâu Đà La vào thế kỉ thứ II sau công nguyên tới lập am tu hành tại núi Phật
Tích, dùng mật trú cầu mưa thuận gió hòa cho người Việt”. Cũng theo sách “Đại
Việt Sử ký toàn thư và các di vật cổ được tìm thấy ở khu vực chùa thì chùa Phật tích
được xây dựng vào những năm Đinh Dậu niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình thứ IV
đời vua Lý Thánh Tông (1057)”.
Như vậy có thể thấy “chùa Phật Tích nằm trên địa bàn diễn ra sự gặp gỡ,
giao thoa, hội nhập giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian Việt cổ từ đầu
Công nguyên”. Dựa trên những cơ sở đó nơi đây đã hình thành trung tâm Phật giáo
đầu tiên của đất nước, trung tâm Dâu – Luy Lâu. Đến thời Lý: “Phật giáo đã phát
triển đến đỉnh cao trong lịch sử Phật giáo ở nước ta. Bắc Ninh và Phật Tích nói
riêng, đều nằm trên quê hương nhà Lý, được vua Lý cho xây dựng nhiều chùa, tháp,
phần nhiều là các đại danh lam. Phật Tích do đó cũng được xây dựng với quy mô to
lớn”.
Khác với một số chùa được xây dựng cùng thời, chùa Phật Tích được sự chú
ý quan tâm đặc biệt của vương triều Lý và triều đại nhà Trần cũng như các triều đại
sau này.
Theo văn bia “Vạn Phúc đại thiền tự bi” dựng năm 1686 thì: “Vua Lý Thánh
Tông năm Long Thuỵ Thái Bình thứ IV (1057) đã cất lên cây tháp quý cao ngàn
trượng, lại cho tạo pho tượng mình vàng cao 6 thước, cấp hơn trăm thửa ruộng, xây
dựng chùa hẳn trăm gian. Trên đỉnh núi mở ra một toà nhà đá, bên trong điện tự
nhiên sáng như ngọc lưu ly. Điện ấy đã rộng, lại to, sáng sủa và lớn. Trên bậc thềm
đằng trước có bầy 10 con thú, phía sau có ao rồng, góc cao vẽ chim phượng và sao
Đẩu lấp lánh, lầu rộng và cao, tay rồng với tận trời cao...”
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” năm Tân Hợi niên hiệu Thần Võ năm thứ III
(1071) Lý Thánh Tông về thăm chùa Phật Tích và đã viết tặng nhà chùa chữ “Phật”
dài 6 thước (khoảng 2,4m) rồi cho thợ khắc vào đá để ở núi Tiên Du. Ngày nay chữ
“Phật” ngàn vàng không còn nữa.

Đến thế kỷ XIV dưới triều đại nhà Trần, Phật Tích vẫn là một ngôi chùa lớn,
một đại danh lam thắng cảnh. Thời kỳ này Nho học đã được quan tâm do vậy các

17


vua Trần đã cho xây dựng chùa Vạn Phúc, một thư viện lớn do danh nhân Trần
Nhân Tông làm viện trưởng. Thư viện này còn gọi là cung Bảo Hoà, theo sử cũ năm
Quý Hợi niên hiệu Xương Phù thứ XVIII (1383), Thượng hoàng Trần Nghệ Tông
đến thăm cung Bảo Hoà và hỏi han bầy tôi vể lịch sử, về thơ văn, về danh nhân,
lương tướng…rồi cho chép thành sách, đặt tên la “Báo Hoà dư bút” gồm 8 quyển;
Năm sau, năm Giáp tý (1384), ông tổ chức cuộc thi thái học sinh (tức thi tiên sĩ)
trên quy mô toàn quốc ở chùa Phật Tích.
Đến đời Lê – Trịnh (1623–1657) Đệ nhất cung tần của Thanh Đô vương
Trịnh Tráng là Trần Thi Ngọc Am đã cho tu sửa lại chùa với quy mô kiến trúc điêu
khắc đẹp đẽ, nằm hài hoà với cảnh sắc thiên nhiên.
Chùa được xây dựng ở sườn núi phía nam, toạ lạc trên khu đất cao, bao gồm
ba bậc nền thềm có kè bằng đá tảng dựng đứng như bức tường dài 58m, cao từ 3–
5m, ở khoảng giữa tường là lối đi bằng đá rộng 5m có 80 bậc. Trước khi lên bậc cấp
dẫn đến tầng nền thứ nhất ta bắt gặp một cái giếng đá tròn, nước rất trong. Tương
truyền dưới đáy giếng có đầu rồng đá phun nước, giếng được che mát bởi cây đa cổ
thụ. Hai đầu của con đường nhỏ dẫn lên chùa là hai ao hình chữ nhật.
Qua 30 bậc đá ta sẽ tới gác chuông (tam quan) dài 13m, rộng 11m dẫn khách
lên chùa. Tới tầng nền thứ hai ta thấy chiều dài 30m của tầng này được kè đá tảng,
chiều rộng của tầng nền thứ hai khoảng 70m và cách so với tầng nền thứ nhất là 5m.
Đứng tại tầng nền thứ hai ta quan sát được hai phần, một phần là chùa, một phần là
vườn chùa – nơi trước kia trồng hoa mẫu đơn để đầu xuân mở hội xem hoa, cũng ở
nơi đây đã lưu truyền mối tình duyên trong truyền kỳ “Từ Thức gặp tiên”, ở giữa
tầng nền là dấu tích của những toà nhà gồm 11 gian tiền đường, 3 gian thiêu hương,
5 gian thượng điện, 9 gian hậu cung, hai bên là hai dãy hành lang, mỗi bên 7 gian.

Tất cả toà nhà này được bố trí theo kiểu “nội Công, ngoại Quốc”
Bên phải những toà nhà này là miếu Tiên chúa thờ Trần Ngọc Am. Miếu
Tiên chúa còn để lại dấu vết trên móng kiểu chữ “Đinh”, lớp trước 4 gian ngang,
lớp sau 4 gian dọc. Phía trước miếu có dựng một ngọn tháp Linh Quang xây năm
Chính Hoà XX (1699). Bên trái có dấu vết của nhà phương trường 5 gian và đằng
trước là nhà tổ đệ nhất với 5 gian trước và 3 gian điện phía sau. Cũng tại tầng nền
thứ 2 này người ta còn thấy tấm bia “Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi” dựng năm Chính
Hoà VII (1686) đã bị gãy đôi, nay vẫn còn một nửa tấm bia lưu giữ ở chùa. Trong
gian thương điện có thờ một pho tượng A Di Đà nổi trên toà sen. Các cột của

18


thương điện được đặt trên các chân tảng bằng đá hình hộp vuông mỗi cạnh rộng
0,83m.
Tầng nền thứ ba được kè đá phẳng phiu như hai tầng dưới, lối đi lên giữa
tầng nền hai và tầng nền ba bằng hai cửa nhỏ hai bên. Tại nền thứ ba này “có một
ao nhỏ hình chữ nhật có chiều dài 7m, rộng 5m, sâu 2,2m gọi là ao Rồng (Long
Trì), bốn bờ ao được kè đá tảng, thẳng đứng với đáy ao. Đáy có thềm đá hình bán
nguyệt đường kính 3,8m, chỗ nhô cao nhất là 1,9m ở môi bên nửa trên đá có chạm
nổi một con rồng khá lớn, trên cạnh giữa chạm nổi hình sóng nước nhô cao (thuỷ
ba) cho biết đây là ao thời Lý. Đường xuống ao Rồng có cầu thang bằng đá rộng 2m
với 13 bậc. Phía trên cầu thang là toà nhà đá này còn dấu vết của nền nhà bằng đá
hình chữ nhật dài 4,25m, rộng 3m”.
Cũng tại nền thứ ba này là “một vườn tháp được dựng bằng đá xanh và đất
nung, cả vườn tháp có tới 32 ngọn tháp lớn nhỏ nằm chen vào núi đá nhấp nhô, một
số tháp có ghi năm dựng và tên tháp như “Tháp Phổ Quang”, dựng năm cảnh trị thứ
II (1664) Tháp cao 4 tầng và cấu trúc tròn, khắc hình bát quái, ba mặt tháp chạm
bảy tượng Phật ngồi trên toà sen, “Tháp Viên Dung” dựng năm kỷ Mùi (1679) cao
4 tầng, mặt trước của tầng thứ hai chạm nổi hình tròn, trên có hình vuông để biểu

thị trời tròn, đất vuông. “Tháp Hiển Quang” dựng năm Vĩnh Trị thứ V (1680).
“Tháp Viên Quang” dựng nam Chính Hoà thứ V (1684) đều cao hai tầng”.
“Tháp Bảo Nghiêm” dựng năm Chính Hoà thứ XIII (1692) với “4 tầng, mặt
tháp có chạm tượng Phật ngồi trên toà sen và nhà sư đã ngồi nhập định, còn mọt số
tháp như Viên Minh, Tông ý Bồ Đề đều không rõ năm dựng. Sườn núi bên Phật
Tích còn một số hàng gạch nhỏ, mỗi cây tháp đều giữ xá lị của một vị hoà thượng
đắc đạo”. Với số lượng tháp ở Phật Tích đã chứng tỏ chùa Phật Tích là nơi có nhiều
nhà tu hành về đây tu luyện.
Ngoài quy mô về không gian của chùa Phật Tích, chúng ta còn tìm thấy ở
đây các công trình điêu khắc cổ đặc sắc về nghệ thuật tạo hình của dân tộc Việt, đó
là “tượng Phật A Di Đà bằng đá, chân tảng đá, tượng 10 con vật bằng đá có niên đại
thời Lý”. Có thể khẳng định những tác phẩm tượng thú có quy mô lớn và lâu đời
nhất của nước ta chính là hàng tượng thú trước sân chùa Phật Tích.
Ngoài các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật bằng đá thời Lý nói trên, chùa Phật
Tích còn được biết đến qua một pho tượng không kém phần đặc sắc bởi hình thức
thể hiện của pho tượng này, đó chính là “pho tượng Chuyết Chuyết công sư tổ được

19


×