Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Đặc điểm thơ đường luật quách tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.48 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
-------------------------------

CAO HOA PHƯỢNG

ĐẶC ĐIỂM
THƠ ĐƯỜNG LUẬT QUÁCH TẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
-------------------------------

CAO HOA PHƯỢNG

ĐẶC ĐIỂM
THƠ ĐƯỜNG LUẬT QUÁCH TẤN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam.
Mã số: 8220121.
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Lệ Thanh

THÁI NGUYÊN - 2018



i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn
đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Cao Hoa Phượng


ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, Tôi xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Văn - Xã hội, Trường Đại học Khoa học,
Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ
trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn TS. Trần Thị Lệ Thanh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Cao Hoa Phượng


iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................................2
2.1. Giai đoạn trước 1945............................................................................................2
2.2. Giai đoạn từ 1945-1975. ......................................................................................4
2.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay. ..................................................................................6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................7
4. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................8
5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ...................................................................8
5. 1. Nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................................8
5. 2. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................8
6. Đóng góp mới của luận văn ....................................................................................9
7. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................................9
Chương 1: SỰ HIỆN DIỆN CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT QUÁCH TẤN
TRONG PHONG TRÀO THƠ MỚI ............................................................10
1.1. Đôi nét về phong trào “Thơ Mới” ......................................................................10
1.2. Nhà thơ Quách Tấn - cuộc đời và sự nghiệp sáng tác........................................13
1.2.1. Cuộc đời ..........................................................................................................13
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác ..........................................................................................14
1.3. Vị trí của thơ Đường luật Quách Tấn trong phong trào thơ Mới .......................18
Chương 2: NHỮNG CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ QUÁCH TẤN .25
2.1. Cảm hứng về thiên nhiên ...................................................................................25
2.1.1. Hình ảnh mùa thu ............................................................................................27
2.1.2. Hình ảnh ánh trăng .........................................................................................40
2.2. Cảm hứng về Tình yêu Quê hương đất nước .....................................................50

2.2.1. Tình yêu Quê hương đất nước: Những nơi nhà thơ đã đi qua ........................51


iv
2.2.2. Tình yêu Quê hương đất nước: Nơi gia đình đang sinh sống và đoàn tụ ...54
2.3. Nỗi niềm hoài cổ ................................................................................................60
Chương 3: NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐƯỜNG
LUẬT QUÁCH TẤN ......................................................................................68
3.1. Những nét mới trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ thơ Quách Tấn ....................68
3.2. Những nét mới trong giọng điệu thơ Quách Tấn ...............................................75
3.1.1. Giọng điệu tao nhã, cổ kính ............................................................................75
3.2.2. Giọng điệu khoan hòa, giản dị ........................................................................77
3.2.3. Giọng điệu u buồn ...........................................................................................78
3.3. Những nét mới trong việc tổ chức nhịp điệu trong thơ Đường luật Quách Tấn 82
3.4. Nghệ thuật kết cấu ..............................................................................................84
KẾT LUẬN ..............................................................................................................90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................92


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ở nửa đầu thế kỷ XX, khi Thơ Mới ra đời và thắng thế, thơ Đường Luật
đại diện cho thơ cũ từ góc độ thể loại. Trong khi các nhà thơ Cũ chưa thừa
nhận cái Mới trong thơ thì ngược lại các nhà thơ Mới lại thừa nhận sự vương
vấn của mình với cái hồn thơ Cũ. Nhiều người tuy phải đấu tranh trực diện để
tẩy chay thơ cũ, nhưng trong thâm tâm, tự không muốn cự tuyệt hoàn toàn với
thơ Cũ. Tác giả Nguyễn Sĩ Đại có lý khi nhận xét: “Các thi sĩ của phong trào
Thơ Mới, vào những năm 30 của thế kỷ này, bằng những trận bút chiến nẩy

lửa, bằng thực tế sáng tác vẻ vang của mình, ngỡ là đã khâm liệm được một
nền thơ cũ, chủ yếu là đường luật. Nhưng rồi thơ vẫn là thơ, … nhiều người
trong số họ đã tự giác học tập, những thi pháp của thơ cổ điển… Dường như
trong tận cùng của mọi tìm tòi khám phá, họ đã chạm tới cái mà hàng chục
thế kỷ trước, người ta đã làm”[15]. Nghiên cứu để chỉ ra những âm vang của
Luật Đường trong phong trào thơ Mới là một việc làm cần thiết.
1.2. Điểm lại những gương mặt tiêu biểu cho dòng thơ Đường luật Việt Nam
ở nửa đầu thế kỷ XX, đầu tiên phải kể đến nhà thơ Quách Tấn. Vị trí tiêu biểu
này có được không phải chỉ bởi ông là người đại diện cuối cùng cho “Một
trường thơ đang hồi tẻ nhạt” [35 - tr4] như nhận xét của Chế Lan Viên, mà
còn bởi sự kiên định của ông khi chọn thể thơ Đường luật cho hầu hết các
sáng tác của cuộc đời mình. Quách Tấn chính là một trong những nhà thơ có
công lớn trong việc kéo dài sinh mệnh nghệ thuật của thơ Đường Luật Việt
Nam đầu thế kỷ XX. Sau Mùa cổ điển khái niệm thơ Đường luật đã được tách
ra khỏi khái niệm thơ Cũ. Sự lựa chọn những bài Đường luật của Quách Tấn
vào Thi nhân Việt Nam chính là sự thừa nhận khả năng thích ứng của thể thơ
Đường luật với cái hồn thơ Mới. Nghiên cứu thơ Đường luật Quách Tấn


2
ngoài việc chỉ ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật còn là sự khám
phá đặc điểm thơ Đường luật của Quách Tấn trong phong trào thơ Mới.
1.3. Theo tác giả Trần Thị Lệ Thanh ‘‘Trong bối cảnh những năm 30 đầy biến
động và suốt khoảng thời gian thơ Mới thực hiện cuộc cách mạng trong thi
ca, bằng Đường Luật, Quách Tấn vẫn đem đến cho bạn đọc một tiếng nói
riêng, tuy nhỏ nhẹ, kín đáo nhưng đầy sức hấp dẫn” [48]. Nghiên cứu thơ
Đường luật Quách Tấn vì thế sẽ cho một cái nhìn vừa toàn diện hơn vừa chi
tiết đối với một hiện tượng văn học diễn ra ở nửa đầu thế kỳ XX.
1.4. Mặc dù có nhiều đóng góp cả về số lượng và chất lượng, lại giữ vị trí
quan trọng trong dòng thơ Đường luật Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX, nhưng

cho tới nay việc nghiên cứu thơ Đường luật Quách Tấn vẫn chưa được quan
tâm tương xứng với những gì nó có. Đề tài được thực hiện với mục đích có
thể cung cấp thêm tài liệu cho công tác nghiên cứu và giảng dạy bậc đại học
sau này.
1.5. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Đặc điểm thơ Đường
luật Quách Tấn làm nội dung nghiên cứu. Hy vọng đề tài sẽ có những đóng
góp cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Giai đoạn trước 1945
Giữa lúc “thơ Mới” và “thơ Cũ” đang tranh luận trên báo chí thì thơ
Quách Tấn xuất hiện. Một tấm lòng ra đời năm 1939 được Hàn Mặc Tử đề bạt
và Tản Đà đề tựa. Trong lời đề bạt, Hàn Mạc Tử đánh giá rất cao, còn Tản Đà
thì ngợi khen hiếm thấy. Tuy nhiên, chỉ riêng sự ưu ái của Hàn Mặc Tử, trước
Một tấm lòng, và sự im lặng của phái mới trước việc xuất bản một tập thơ Cũ,
chưa đủ sức lôi cuốn bạn đọc trở lại với dòng thơ Đường luật. Phải đợi đến


3
hai năm sau (1941) khi Quách Tấn cho ra tiếp Mùa cổ điển (ban đầu có tên là
Tấm lòng riêng, tại nhà in Thụy Ký - Hà nội) thì nhiều bạn đọc đã không thể
khước từ một giọng thơ “nhẹ nhàng, êm ái, có sức cuốn hút lạ lùng” [36] mà
buộc lòng phải công nhận, thì ra thơ Đường luật vẫn âm ỉ sống và chính nó
chứ không phải ai khác đã kết thúc thời kỳ “phân chia thơ bằng hai chữ mới –
cũ chẳng có ý nghĩa gì” [35]. Thậm chí ngay từ khi đọc bản thảo Mùa cổ điển
có tác giả đã thốt lên: “Chỉ một bài Đêm thu nghe quạ kêu, chừng nấy thôi
cũng đủ cho ta thấy thi sĩ đã vượt lên trên những thi sĩ có tiếng như: Bà
Huyện Thanh Quan, Yên Đổ, Chu Mạnh Trinh...” [37]. Nhà thơ Chế Lan
Viên trong lời tựa cũng ghi nhận những nỗ lực của Quách Tấn trong bối cảnh
lúc đó: “Mùa cổ điển bé bỏng, nhưng quá đầy đủ, trước hết đã giải cho ta một
mối lầm ác nghiệt, là phân chia bờ cõi thơ bằng hai chữ Mới - Cũ chẳng có ý

nghĩa gì ” [36 – tr7]. Thực chất đây là sự nhìn lại khá lý thú, được tổng kết có
lẽ không chỉ đúng với Mùa cổ điển của Quách Tấn mà còn đúng với nhiều
hiện tượng thơ ca khác ở nửa đầu thế kỷ XX, trong đó có thơ Đường luật.
Sau Mùa cổ điển, Quách Tấn còn nhận được nhiều lời khen ngợi công
khai trên báo chí và nhiều lời tán thưởng của bạn bè xa gần qua thư từ. Về
chuyện mới - cũ, không ai còn lên tiếng tranh luận gì thêm. Đến đầu năm
1942, trong Thi nhân Việt nam, Hoài Thanh - Hoài Chân mới nhìn lại cuộc
đấu tranh ấy một cách bình tĩnh hơn và tìm cách xác định lại những cách
hiểu khác nhau của hai phái về các khái niệm thơ Mới - thơ Cũ. Ông
viết:“Hồn thơ Đường vắng đã lâu, nay lại trở về trong thơ Việt ...Đêm đã
khuya, tôi ngồi một mình xem thơ Quách Tấn. Tôi lắng lòng để đón một sứ
giả đời Đường, đời Tống.. Quách Tấn đã tìm được những lời thơ rung cảm
chúng ta một cách thấm thía. Người đã thoắt hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là
môn sở trường của nhiều người trong làng thơ cũ...” [42 – tr267].


4
Năm 1943, nhà văn Vũ Ngọc Phan lại dành một vị trí xứng đáng cho
Quách Tấn trong công trình bề thế của mình “Nhà văn hiện đại”. Tác giả
nhận xét:“Ông là nhà thơ rất sở trường về thơ Đường. Tất cả thơ trong
tập thơ Một tấm lòng và Mùa cổ điển của ông đều là thơ tứ tuyệt và bát
cú” [31 – tr665].
Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn đầu, tuy chưa được quan tâm
nghiên cứu đầy đủ và hệ thống, nhưng các nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình đều
khẳng định nét đẹp, cái mới trong thơ Đường luật của Quách Tấn. Các bài
viết đều trân trọng những đóng góp của thơ Quách Tấn đối với nền văn học
Việt Nam hiện đại.
2.2. Giai đoạn từ 1945-1975.
Từ năm 1946, cả nước tập trung vào cuộc chiến tranh chống thực dân
Pháp, có lẽ vì thế mà không có bài viết nào về thơ Quách Tấn đăng trên báo.

Sang chặng 1955-1975, trong Nam ngoài Bắc đều có nhắc đến Quách Tấn
trong các công trình nghiên cứu, các bộ văn học sử...Chương sách viết về
giai đoạn văn học 1930-1945 trong các bộ văn học sử ở ngoài Bắc như: Lược
thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn; Sơ thảo lịch sử văn
học Việt Nam của nhóm Văn Sử Địa; Văn học Việt Nam 1900-1945 của Đại
học Tổng hợp Hà Nội, khi viết về văn học lãng mạn các nhà nghiên cứu đều
nhắc đến Quách Tấn với hai tập thơ Một tấm lòng và Mùa cổ điển. Trong
công trình Thơ ca Việt Nam: Hình thức và thể loại, Bùi Văn Nguyên và Hà
Minh Đức có chỉ ra sự đổi mới, sáng tạo của Quách Tấn qua hình thức thơ cũ
đã đưa ra nhận xét :“Hãy nói những bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật của
Quách Tấn trong Mùa cổ điển dù có bị gò bó vào khuôn khổ đối thanh, đối ý,
bằng trắc phân minh, vẫn thoát được, để tạo sự đối mới trong cấu trúc lời
văn. Nói chung, các nhà thơ ta vừa kế thừa, vừa nâng cao các hình thức thơ


5
ca cổ truyền, vừa tiếp thu có sáng tạo các thể thơ mới du nhập từ phương
Tây” [30 – tr25].
Trong Quách Tấn qua cái nhìn phê bình văn học, Tuệ Sỹ đã chỉ ra
những nét đặc thù của thơ Quách Tấn: “Nhà thơ của chúng ta trong một
thoáng rung động kỳ diệu nào đó đã đọc ra bản chất tồn tại sâu xa của tạo
vật. Cũng chỉ với tâm hồn ấy mới có thể đọc ra những ẩn ngữ ấy trong lớp vỏ
vô tri và vô nghĩa ấy” [20 – tr539].
Trong Giai Phẩm Văn ra tháng 10 năm 1970, học giả Tam Ích có gởi
cho ông Trần Phong Giao (Tổng thư ký tòa soạn) một bức thư, trong đó
viết: “Còn nói thơ Quách Tấn là điêu luyện, là hay thì ai chả nói được, cái
hay của thơ nó ở đâu đâu ấy, chứ chẳng ở riêng nơi từ, nơi tứ, nơi ý, nơi
mạch, hay là nó ở cùng một lúc ở từ, ở tứ, ở ý, ở mạch, ở cả bốn chốn ấy”
[20 – tr109].
Trên tạp chí Thời Tập số 15 năm 1974, Hồ Ngạc Ngữ có nhận xét về cái

nhìn tâm linh trong sáng tác thơ của Quách Tấn: “Tâm sự văn chương của
tiên sinh đã mở ra một con đường rộng lớn dẫn đến những nguồn cội vi diệu
của thi ca, trong đó có đời sống, con người và thơ đã hòa chan với nhau một
cách trọn vẹn. Tất cả chỉ là một. Và nhà thơ là một thiền sư đã phá tan được
những đại nghi trong tâm hồn đến với đời sống bằng chính cái nhìn tâm linh
cao cả nhất”.
Qua những bài viết về Quách Tấn từ 1945-1975 vừa nêu có thể nhận
thấy rõ một điều hầu hết các nhà phê bình đều đánh giá cao quan điểm tích
cực của nhà thơ trong giai đoạn này, đồng thời từ ngôn từ cho đến phong vị
thơ đều mang âm hưởng Đường thi với việc tuân thủ tính quy phạm của thể
loại nhưng mới ở chỗ dùng từ, đặt câu, hàm súc, đa nghĩa.


6
2.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay.
Tên tuổi và thơ Đường luật của Quách Tấn đã được ghi nhận trong Từ
điển văn học. Trên các báo và tạp chí như Tạp chí Văn, Tuần báo Văn nghệ
thành phố Hồ chí Minh, báo Khánh Hoà... đều có đăng nhiều những bài viết
về Quách Tấn. Đặc biệt từ năm 1992 lúc nhà thơ từ giã cõi đời đã có hơn hai
mươi bài viết về ông, về thơ văn và các công trình biên khảo của ông...Tất cả
đều đánh giá cao tài thơ, vị trí của ông trong văn học hiện đại.
Năm 2000 Quách Giao, con trai nhà thơ Quách Tấn đã chọn lọc “Những
bài thơ kỷ niệm” trong các bộ Thi pháp, Thi Thoại và Hồi ký của phụ thân
anh để biên tập và cho xuất bản cuốn “Trường Xuyên thi thoại – Những bài
thơ kỷ niệm” trong đó tập hợp những bài thơ hay của nhà thơ Quách Tấn đi
kèm với những lời bình, hoặc chú thích về hoàn cảnh sáng tác. Cuốn sách
được đông đảo bạn đọc đón nhận.
Trong bộ Từ điển tác giả Văn học Việt Nam (2003), Trần Mạnh Thường
cho rằng: “Quách Tấn là một nhà thơ chuyên Đường luật. Có lẽ từ đầu thế kỷ
đến nay, không một nhà thơ nào chuyên chú và có công với thơ luật bằng

ông; vì ông đã sáng tác trên ngàn bài thơ Đường, kể cả thơ dịch. Đó là cống
hiến lớn của ông với thơ ca Việt Nam[54 – tr128].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê, trong hồi ký của mình đã viết về nhà
thơ Quách Tấn: “Quách Tấn là nhà thơ siêng năng nhất, sáng tác mạnh
nhất…Tôi cho rằng từ đầu thế kỷ đến nay không ai có công với thơ luật bằng
ông, ông có trên ngàn bài thơ luật, kể cả thơ dịch” [20 – tr279-286].
Trần Đình Sử trong bài Chút duyên với thơ Quách Tấn đã nhận xét:
“Quách Tấn là nhà thơ đi ngược lại phong trào thơ Mới, ông vững tâm làm
thơ cũ giữa lúc những lời công kích chế giễu thơ cũ đang rộn lên như ong. Và
ông đã thắng”.


7
Từ năm 1999 đến 2001 tác giả Trần Thị Lệ Thanh trong hàng loạt các
công trình bài viết của mình đều lấy dẫn chứng từ những sáng tác của
Quách Tấn như: Sự giao lưu văn hoá Đông – Tây và số phận của thể thơ
Đường luật nửa đầu thế kỷ XX, tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 178/1999;
Những tiếp giao chuyển đổi giữa cái cũ và cái mới trong thơ Đường luật và
thơ Mới ở nửa đầu thế kỷ XX, Thông báo khoa học, số 5/1999, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội; Quách Tấn với thơ Đường luật, Báo Tân Trào Tuyên
Quang, số 118 tháng 9/1999; Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX: một số lượng đáng kinh ngạc, Thông báo khoa học, số 5/2000, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
Năm 2002, trong Luận án Tiến sĩ về Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX, tác giả Trần Thị Lệ Thanh lại một lần nữa đặc biệt quan tâm
nghiên cứu và dành nhiều trang viết về thơ Đường luật Quách Tấn. Mười năm
sau (2012) trong cuốn Đặc điểm thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX,
một lần nữa tác giả Trần Thị Lệ Thanh lại có những nhận xét rất tinh tế về thơ
Đường luật Quách Tấn. Gần đây, trong bài “Những tiếp giao chuyển đổi giữa
cái cũ và cái mới trong thơ Đường luật Quách Tấn” tác giả Trần Thị Lệ

Thanh đã đưa ra nhiều gợi ý mới mẻ về những cách tân nghệ thuật của nhà
thơ Quách Tấn trong thể loại Đường luật khi hòa nhập với dòng thơ Mới.
Tóm lại, mặc dù đã có một số công trình bài viết quan tâm đến Quách
Tấn, nhưng cho tới nay việc nghiên cứu thơ Đường luật Quách Tấn vẫn
chưa được quan tâm đầy đủ và hệ thống. Điều này đòi hỏi phải có một công
trình nghiên cứu công phu và đầy đặn hơn để có câu trả lời thỏa đáng về
tác giả này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ những sáng tác bằng thể thơ Đường
luật của Quách Tấn.


8
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Sáng tác thơ Đường luật của Quách Tấn khá
phong phú và tồn tại ở nhiều trạng thái khác nhau (trên các sách, báo, văn bản
chép tay…). Tuy nhiên, trong điều kiện thời gian và khuôn khổ, đề tài xin
được giới hạn phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là thơ Đường luật
Quách Tấn trong hai tập thơ: Mùa Cổ điển (1939) và Một tấm lòng (1941).
Một số tác phẩm trong cuốn Hồi ký Bóng ngày qua và những sáng tác thơ
Đường luật nếu có ở ngoài phạm vi này, chúng tôi sẽ quan tâm khi cần thiết
phải so sánh.
4. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá đặc điểm thơ đường luật Quách Tấn từ
đó xác định vị trí, đặc điểm và những đóng góp tiêu biểu của thơ Đường luật
Quách Tấn trong nền văn học Việt Nam hiện đại, giai đoạn nửa đầu thế kỷ
XX.
5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
5. 1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nắm vững và biết vận dụng những lý thuyết cơ bản liên quan đến thơ
Đường luật để phân tích và nhận diện đặc điểm của thơ Đường luật Quách

Tấn như một hiện tượng văn học sử.
- Trên cơ sở phân tích những nhân tố tác động đến quá trình sáng tác thơ
Đường luật Quách Tấn, nghiên cứu, đánh giá những cách tân về nội dung và
nghệ thuật của thơ Đường luật Quách Tấn trong phong trào thơ Mới.
5. 2. Phương pháp nghiên cứu
Đây là đề tài nghiên cứu về một thể loại thơ của một tác giả trong văn
học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cho nên luận văn sử dụng phương pháp loại
hình để nghiên cứu thơ Đường luật của Quách Tấn, bên cạnh đó còn sử dụng
một số phương pháp hỗ trợ khác như : Phương pháp nghiên cứu tác giả;
phương pháp nghiên cứu tác phẩm; phương pháp phân tích - tổng hợp;
phương pháp so sánh; phương pháp nghiên cứu lịch sử; phương pháp thống
kê phân loại...


9
6. Đóng góp mới của luận văn
Có thể nói đây là lần đầu tiên đặc điểm thơ Đường luật Quách Tấn được
tập trung khảo sát, phân tích một cách toàn diện, có hệ thống.
Kết quả của luận văn có thể góp phần nâng cao hiệu quả của việc tiếp
cận thơ Đường luật trong hoạt động dạy và học ở nhà trường. Ngoài ra đây
còn là tài liệu tham khảo có giá trị đối với bạn đọc yêu thích thơ văn nói
chung và yêu thích thơ Quách Tấn nói riêng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Mục lục,
phần Nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Sự hiện diện của thơ Đường luật Quách Tấn trong phong
trào thơ Mới
Chương 2: Những cảm hứng chủ đạo trong thơ Đường luật Quách Tấn
Chương 3: Những cách tân nghệ thuật trong thơ Đường luật Quách Tấn



10
Chương 1
SỰ HIỆN DIỆN CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT QUÁCH TẤN
TRONG PHONG TRÀO THƠ MỚI
1.1. Đôi nét về “Thơ Mới”
Năm 1932, được coi là một năm chính thức mở màn của phong trào thơ
Mới.Với sự xuất hiện của rất nhiều những cây bút tên tuổi như: Lưu Trọng
Lư, Phạm Huy Thông, Vũ Hoàng Chương, Vũ Đình Liên... Nhưng tiêu biểu
hơn cả phải kể đến bài thơ Tình già của Phan Khôi. Bài thơ đã xuất hiện trên
Phụ nữ tân văn và nó đã tạo nên một làn sóng hưởng ứng mạnh mẽ của lớp
thanh niên và gây hoang mang cho lớp Nho học lúc bấy giờ.
Xét về mọi phương diện, bài thơ Tình già không phải là một bài thơ
hay. Nhưng trong bối cảnh lúc bấy giờ, nó đã gây nên một biến cố văn học.
Lực lượng sáng tác chia thành hai mặt trận: Theo phái Mới có Phan Khôi,
Thế Lữ, Lư Trọng Lư, Vũ Đình Liên, ... theo phái cũ có Nguyễn Văn Hanh,
Thái Phỉ, Tùng Lâm, Hoàng Duy Từ...Tuy nhiên ở giữa hai phái (gọi là phe
trung gian), người ta ghi nhận sự hiện diện của thi sĩ Tản Đà.
Sau Tình già, gần như ngay lập tức những bài thơ Mới nối tiếp nhau xuất
hiện, trong đó những sáng tác đặc sắc gắn liền với những gương mặt tiêu biểu
lần lượt như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc
Tử…Cùng với nhóm thơ như Xuân thu nhã tập, nhóm Bàn thành tứ
hữu…Nhờ phong trào thơ Mới mà diện mạo văn hóa Việt Nam giai đoạn này
thật sự khởi sắc, cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định rõ nét, tạo bước
nhảy vọt trong quá trình hiện đại hóa văn học như lời khẳng định của nhà phê
bình Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại: “Ở nước ta, một năm có thể kể
như ba mươi năm của người”[31].
Lúc này, một số nhà thơ Mới họ chỉ trích thơ cũ, họ chê thơ Đường luật
gò bó, khuôn sáo, hình ảnh cảm xúc, thi tứ đều vay mượn. Tiêu biểu là các



11
nhà thơ Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên…Trước tình thế ấy, phái thơ cũ cũng
phản kháng lại kịch liệt và gay gắt. Họ chê những nhà thơ Mới là mù quáng,
dốt nát, vì không biết làm thơ Đường luật nên chê bai và không biết trân trọng
các thể thơ truyền thống. Cuộc chiến giữa hai phái không cân đối. Lực lượng
của phái mới đông đảo, mạnh mẽ, hăng hái và đặc biệt là trẻ hơn phái cũ nên
họ có sức đột phá hơn. Bên cạnh đó các nhà thơ Mới có được sự thuận lợi
nhất định là tờ Phong Hóa và đội ngũ các nhà thơ- là những người có năng
lực, dày kinh nghiệm cùng kiến thức Tây học.
Các nhà thơ Mới đã đi tìm hình thể cho thơ, thể hiện cảm xúc chân thực,
đề ra một chuẩn mực mới cho cái Đẹp. Người được đánh giá cao với những
bước đột phá táo bạo và tài hoa lúc đó là Xuân Diệu. Nếu Thế Lữ được xem
là người khai phá của phong trào thơ Mới thì Xuân Diệu là người nối tiếp
mạch nguồn đó một cách tinh tế và đưa thơ Mới phát triển đạt tới đỉnh cao. Ở
thơ Mới, các nhà thơ đã khẳng định mình và tuyên bố quyền sống của mình, ý
thức về mình đã dẫn tới ý niệm về kẻ khác. Cảm xúc và tâm trạng mang đậm
tính chủ quan, thể hiện cái tôi cá nhân: Tôi là một, là riêng là thứ nhất của
Xuân Diệu trong bài Hy-mã-lạp-sơn hay Tôi là thi sĩ của yêu thương của
Nguyễn Bính trong bài Một trời quan tải. Nếu thơ Mới ban đầu là lãng mạn
thì về sau lại nghiêng về phía tượng trưng, siêu thực. Cái tôi thi nhân đứng ở
vị trí trung tâm, nó làm tăng tính tự giác và hợp quy luật của một trào lưu thơ.
Nó hóa thân vào những tư cách mới vừa có bề rộng lẫn bề sâu. Tuy thơ Mới
vẫn chưa ôm trùm được hết mọi khía cạnh của cuộc sống cũng như của nghệ
thuật nhưng nó đã đánh dấu một bước chuyển lớn của thơ trữ tình Việt Nam
từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại với một quan niệm và tư duy
nghệ thuật mới, hệ thống phương thức mới khi tái hiện hiện thực cuộc sống.
Trong quá trình giao lưu văn hóa, sự du nhập của thơ ca Pháp vào thơ ca
Việt Nam là điều không tránh khỏi. Thơ ca Pháp như một luồng gió mới thổi
vào hồn thơ Việt. Thơ Mới đã thoát khỏi sự ràng buộc của thơ cách luật, đổi



12
mới về mặt thi pháp và tư duy thơ, tư duy bằng liên tưởng, bằng tưởng tượng,
bằng cảm giác, bằng âm thanh…là do ảnh hưởng của tư duy thơ hiện đại (ở
đây muốn nhấn mạnh là thơ Pháp). Các nhà thơ Pháp như Baudelaire (1821 1867), Verlaine (1844 - 1896), Lamartine (1790 - 1869)…đều có ảnh hưởng
sâu đậm đến thơ Mới của nước ta. Các tác giả như Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn
Mặc Tử, Đoàn Phú Tứ, Bích Khê… có thể coi là tiêu biểu nhất với những
sáng tác thơ mang tính tượng trưng và siêu thực.
Nếu ban đầu thơ Mới chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ Pháp thì về sau
thơ Mới có sự kết hợp nhịp nhàng giữa Đông và Tây, đó là sự tương hợp âm
thanh, màu sắc con người và vũ trụ của Đường thi với thơ Pháp trên cơ sở
ngôn ngữ và truyền thống văn hóa Việt. Thơ Mới đã thay đổi thơ trữ tình
tiếng Việt từ câu thơ điệu ngâm sang câu thơ điệu nói. Thơ Mới có thể giải
bày mọi bí mật của cõi lòng riêng tư: từ nỗi buồn, sự cô đơn, những khát
khao, sự chán trường, sự cô đơn hưu quạnh…Đặc biệt khi nói tới tình cảm
riêng tư của mình thì thơ Mới thể hiện những đề tài mới, lấy cái tôi làm trung
tâm, bộc lộ cái tôi hết sức đa dạng, hấp dẫn và phức tạp, một cái tôi cá nhân
(I’individu) với tư cách là đối tượng nhận thức và phản ảnh của thi ca trong
quá trình phát triển của văn học. Các nhà thơ Mới đã gạt bỏ mọi ràng buộc
ước lệ, luân lý… của một thời kỳ để trở về với con người mình, tìm thấy
chính mình, họ nói bằng những rung cảm trực tiếp nhất và mãnh liệt nhất.
Trong việc trở về cái tôi của mình, thơ Mới đã gặp gỡ, hòa đồng vào văn hóa
dân tộc và nhân loại.
Có thể nói, thơ Mới là một bước phát triển đạt đến sự hiện đại cả về mặt
biểu hiện cũng như cảm hứng thi ca, với nhiều tác phẩm đạt đến trình độ kiệt
tác và đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần, mở rộng cảm xúc và làm
cho cảm quan của con người nhạy bén hơn, tâm hồn tinh tế và hướng tới cái
đẹp hoàn hảo hơn. Nếu ban đầu thơ Mới chịu ảnh hưởng thơ ca Pháp thì về



13
sau nó là sự tổng hợp của thơ lãng mạn và thơ tượng trưng Pháp với thơ ca
Trung Quốc, chủ yếu là Đường thi và thơ ca truyền thống của dân tộc.
1.2. Nhà thơ Quách Tấn - cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
1.2.1. Cuộc đời
Quách Tấn tự là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên quê ở Thôn Trường
Định, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định (xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn, tỉnh
Bình Định hiện nay). Ông thường trú tại số nhà 12, đường Bến Chợ, Nha
Trang. Thân phụ là Quách Phương Xuân, thông tỏ chữ Pháp. Quách Tấn sinh
năm 1910 mất năm 1992. Ông thuộc vào một trong số những tác giả có tuổi
thọ cao nhất làng văn. Sinh thời, ông mang nhiều bút danh khác nhau như
Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão Giữ Vườn. Bình sinh Quach
Tấn rất yêu thích văn thơ. Thân mẫu ông là Trần Thị Hào, tinh thông chữ
Hán, thuộc nhiều thơ Nôm và viết chữ Hán rất đẹp. Chính truyền thống gia
đình đã có những tác động, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời, tính cách đặc biệt
là việc lựa chọn đi theo con thơ với những bài thơ Đường luật của nhà thơ
Quách Tấn.
Năm 1929, ông lập gia đình. Vợ tên là Nguyễn Thị Nhiếp - hiệu
Thanh Tâm, người ở thôn Phú Phong, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Vợ
chồng ông sinh được 12 người con, sống đến lớn được 8 người, hiện còn 6
(2 nam, 4 nữ).
Lúc nhỏ Quách Tấn học chữ Hán, đến năm 12 tuổi bắt đầu học chữ Quốc
ngữ và Pháp ngữ tại trường Pháp Việt Quy Nhơn. Năm 19 tuổi( năm 1929),
ông đỗ bằng Cao đẳng Tiểu học ( Primaire Supérieur). Năm 20 tuổi (1930),
ông được bổ nhiệm làm Phán sự Tòa sứ tại tòa khâm sứ Huế, rồi chuyển lên
tòa sứ Đồng Nai Thượng ở Đà Lạt. Năm 25 tuổi (1935) ông lại chuyển về tòa


14

sứ Nha Trang. Năm 35 tuổi (1945), ông tản cư về Bình Định, tham gia kháng
chiến chống Pháp, làm thủ quỹ cho Ủy ban ủng hộ kháng chiến và Mặt trận
Liên hiệp Quốc dân huyện Bình Khê (1945 - 1949). Năm 1949, ở tuổi gần 40,
Quách Tấn mở trường Trung học tư thục Mai Xuân Thưởng tại thôn An
Chánh, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Năm 1951 ông được điều động dạy
trường Trung học An Nhơn, rồi trường Trung học Bình Khê (1951- 1953).
Năm 1954 ông hồi cư về Nha Trang được tái bổ vào ngạch thư ký hành chính.
Từ đó đến năm 1965, ông đã làm việc tại tòa hành chính Quy Nhơn, Sở Du
lịch Huế, Ty Kiến thiết Nha Trang, Tòa hành chính Nha Trang. Năm 1965,
ông về nghỉ hưu và tiếp tục viết văn làm thơ.
Năm 1987, một việc đau đớn đã xảy đến, Quách Tấn bị mù cả hai mắt.
Tuy nhiên ông vẫn nỗ lực dùng trí nhớ của mình đọc cho con cháu ghi chép
lại những chuyện xưa, tích cổ, những tài liệu cũ rất hiếm người để lưu lại cho
thế hệ sau. Từ đấy cho đến khi từ giã cõi đời, tuy tuổi cao và mắt mù, nhưng
ông vẫn ở tại số nhà 12, đường Bến Chợ, phường Xương Huân, thành phố
Nha Trang. Ông đã chút hơi thở cuối cùng vào hồi 7 giờ 10 phút ngày 28
tháng 11 năm 1992, hưởng dương 82 tuổi. Hiện nay, ngôi nhà vẫn còn con
cháu của Quách Tấn ở và đó cũng là địa điểm thăm viếng của nhiều người
yêu thích thơ văn.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Quách Tấn làm thơ từ năm 1925 lúc học Đệ nhất niên (ngang lớp 6 hiện
nay) ở trường Trung học Quy Nhơn (Collège de Quy Nhon). Thầy dạy là giáo
sư Hà Văn Bình, sách học là cuốn Quốc văn trích diễm của Dương Quảng
Hàm. Lúc ra trường (1929), Quách Tấn đã thành thạo các nguyên tắc về các
thể thơ Đường luật và các thể thơ Việt Nam. Đến năm 1932, nhờ sự chỉ dẫn
nhiệt tâm của Tản Đà và Phan Sào Nam ông mới chính thức bước vào làng


15
văn thơ. Tác phẩm của ông thường đăng ở An Nam tạp chí (Hà Nội), Phụ nữ

Tân Văn (Sài Gòn), Tiếng dân (Huế).
Vậy là, từ những buổi đầu Quách Tấn đã được tiếp thu một nền giáo dục
mà ở đó thơ cổ điển vẫn đang là mẫu mực. Dưới sự chỉ dạy của Tản Đà (vừa
là thầy vừa là bạn), đặc biệt dưới sự chăm sóc, dạy dỗ của cụ bà thân sinh
Trần Thị Hào vốn giỏi chữ Hán, những quan niệm, vốn sống, kiến thức ban
đầu về một nền Hán học trong ông đã hình thành buổi sơ khai. Rõ ràng, điều
kiện xã hội và gia đình đã là hai yếu tố quyết định chi phối đến khuynh hướng
sáng tác và sự nghiệp văn chương của Quách Tấn.
Quách Tấn làm thơ chuyên về thơ Đường luật, văn viết chuyên về những
đề tài có liên quan đến quê hương, dân tộc hoặc thiên nhiên. Trong những
ngày đầu ấy, Quách Tấn kết bạn cùng Hàn Mặc Tử, nhờ có thầy, có bạn mà
việc sáng tác ngày càng tiến bộ. Thời bấy giờ, thơ Mới nổi lên đả phá thơ
Đường luật (thường gọi là thơ cũ) một cách hết sức kịch liệt, nhưng Quách
Tấn vẫn thủy chung, tin tưởng làm thơ Đường luật.
Với 82 tuổi đời và hơn 60 năm cầm bút, Quách Tấn đã để lại cho đời
nhiều tác phẩm văn học ở đủ các thể loại. Những sáng tác của ông gồm: Một
tấm lòng, nhà in Thụy Ký, Hà Nội xuất bản với việc Tản Đà viết lời Tựa [35tr7-9], Hàn Mặc Tử viết lời Bạt [35, tr89-93]; Mùa cổ điển (1941) do nhà in
Thụy Ký, Hà Nội xuất bản, Chế Lan Viên viết lời Tựa vào đầu năm 1941 [36tr9-16].

Tiếp đó vào năm 1942 tập văn xuôi Trăng ma lầu Việt ra đời. Tập

này viết phỏng theo tập Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đời Lê và tập
Duyên tiên viết phỏng theo tập Truyền kỳ tân phổ của tác giả Đoàn Thị Điểm
được hoàn tất.
Từ 1945 đến 1954, do ảnh hưởng thời cuộc nên việc sáng tác không
được nhiều. Tập Vui với trẻ em được sáng tác trong thời gian này.


16
Từ 1955 đến 1975, Quách Tấn sáng tác đều đặn hơn các thời kỳ trước: từ

năm 1958 đến 1960 xuất bản 4 tập Nghìn lẻ một đêm. Năm 1960, tập thơ Mùa
cổ điển được tái bản có bổ sung thêm 30 bài thơ Đường luật sáng tác từ năm
1945 đến 1955. Năm 1965 xuất bản tập thơ Đọng bóng chiều gồm 108 bài
thất ngôn tuyệt cú (không có đề tựa). Trong bản thảo tập thơ này có tên là Lã
mã tiền. Tập thơ này khi hoàn thành thì hai miền Bắc Nam tạm thời bị chia
cắt. Thơ in xong chỉ gửi tặng chứ không bán. Tuy nhiên, hầu hết các nhà văn,
nhà thơ đều đọc và có nhiều phê bình trên báo chí. Nội dung phê bình có thể
tóm gọn trong một câu: Quách Tấn càng già, làm thơ càng hay.
Năm 1966 cho xuất bản tập Mộng Ngân Sơn gồm 135 bài ngũ ngôn tứ
tuyệt (tác giả tự đề tựa). Trong hồi ký Bóng ngày qua, tác giả nhận xét: “Tập
thơ đi từ cảnh chiều xuân của thực mà mộng đến cảnh sớm thu của mộng mà
thực. Xuân là mùa thơ. Thu là mùa đạo. Như thế là nguồn cảm hứng đi từ tuổi
vãn niên của Thơ đến sơ sanh của Đạo”. [38- tr124].
Năm 1973, nhà xuất bản Rừng Trúc (Pari) in lần thứ nhất tập Giọt Trăng
nhân dịp tết Quý Sửu. Ấn bản gồm 60 bài thơ ngũ tuyệt.
Về thơ dịch, năm 1973, Quách Tấn cho xuất bản một tập thơ dịch Tố
Như thi trích dịch (dịch thơ chữ Hán của Nguyên Du). Tập thơ này, trước
1975, Ban Hán Nôm của trường Đại học Văn khoa Sài Gòn dùng làm tài liệu
học tập và nghiên cứu cho sinh viên. Ngoài ra còn có Lữ Đường thi - trích
dịch thơ của Thái Thuận (hiệu là Lã Đường, ông từng là Tao đàn Sái Phu
trong hội Tao Đàn do Lê Thánh Tông thành lập vào cuối thế kỷ XV).
Năm 1988, trong một năm ông cho ra đời ba tập văn xuôi Nhà Tây Sơn
(viết cùng với Quách Giao), Họ Nguyễn thôn Vân Sơn và Đôi nét về Hàn Mặc
Tử (hồi ký).
Năm 1992, tập Xứ Trầm hương được tái bản.


17
Năm 1994, tập Vui với trẻ em được ấn hành. Đây là một tập vừa thơ vừa
văn viết từ năm 1945 đến 1954. Tác giả dành sự quan tâm riêng đến cho thiếu

nhi. Trong những năm kháng chiến chống Pháp vừa làm công tác giáo dục
vừa tham gia vào công tác địa phương, nhà thơ đã sáng tác những vần thơ
phục vụ đối tượng thiếu nhi. Các bài văn, bài thơ làm ra theo hai tiêu chuẩn:
rèn luyện đức tính truyền thống và tăng sự hiểu biết về sinh vật, văn chương
cho lớp trẻ.
Năm 1999, nhân dịp tưởng niệm năm thứ 7 ngày mất của Quách Tấn,
tập thơ Trăng hoàng hôn ra đời. Cùng năm này, Quách Giao- con trai
Quách Tấn cũng xuất bản tập 1 của cuốn Hồi ký Bóng ngày qua có tựa đề
Đời văn chương.
Ngoài những tập văn thơ đã xuất bản, Quách Tấn còn hoàn tất nhiều bản
thảo chưa kịp xuất bản. Chẳng hạn về thơ có Vị la phủ (1956), Tiếng vàng khô
(1972); Nhánh lục (1972); Mây cổ tháp (1973); Cánh chim thu (1975); Nửa
rừng trăng lạnh(1976); Trăng hoàng hôn (1977); Giàn hoa lý (1979); Phấn
bướm còn vương (1983); Móc đọng tàu cau (1987); Ao đắp tâm tư (1988). Về
văn xuôi có Hương vườn cũ (Tập Thi thoại nói về thơ văn cổ từ đời Trần đến
đời Nguyễn); Trong vườn hoa thơ (Thi thoại về thơ Đường luật hiện tại);
Những bức thư thơ (Nói về điển tích, giai thoại trong thơ); Bước lãng du (Ghi
chép giới thiệu những thắng cảnh từ Huế đến Phan Rang); Cảnh cũ còn đây
(cổ tích lịch sử về Hà Nội, Huế, Ngũ Hành sơn ở Đà Nẵng); Những mảnh
gương xưa (Ghi chép những truyện của Trung Hoa); Trăng ma lầu Việt; Đôi
nét về Đào Tấn; Hương phấn nàng Hương (Nói về các bài thơ luật của Việt
Nam có giá trị bị bỏ quên); Thư gửi các bạn ham đọc Đường luật: viết về
phép làm thơ Đường luật); Dạo quanh hý trường (Chuyện vui về hát bộ); Bát


18
canh tập tàng (Ghi chép những chuyện linh tinh); Những giấc mộng không mê
(Ghi chép lại những giấc mộng thú vị).
Thời điểm năm 1987, do hai mắt bị mù nên Quách Tấn không đọc được,
nhưng ông vẫn tiếp tục viết: Vang bóng phong trào Cần Vương tỉnh Khánh

Hòa; Lướt qua 40 năm thơ văn tỉnh Khánh Hòa (từ 1935 đến 1975).
Qua những sáng tác trên, ta có thể nhận định: Quách Tấn không chỉ là
nhà thơ, mà còn là một nhà văn, nhà dịch thuật, nhà biên khảo văn hóa xuất
sắc. Ông là một tác giả thành công ở nhiều thể loại văn học.
1.3. Vị trí của thơ Đường luật Quách Tấn trong phong trào thơ Mới
Nhìn lại dòng thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ XX, Quách Tấn không
phải là một người có nhiều thơ Đường luật nhất. Dòng văn học yêu nước và
cách mạng ghi nhận Phan Bội Châu như là một cây đại thụ với số lượng lên
tới hơn 500 bài. Thứ đến là Phan Châu Trinh hơn 200 bài, Huỳnh Thúc
Kháng 92 bài Đường luật; Ngô Quang Đoan với Thượng Phong thi văn tập
có 72 bài Đường luật, Lê Đại 70 bài ... Dòng văn học công khai số lượng tác
giả, tác phẩm cũng vô cùng phong phú với hàng ngàn tác phẩm của vài trăm
tác giả. Theo con số thống kê của tác giả Trần Thị Lệ Thanh thì “từ năm
1917 đến 1922 riêng Vũ Tích Cống 45 bài, Nguyễn ái Hoa 15 bài, Vũ Khắc
Tiệp 10 bài, Lê Đình Huyến 36 bài, Nguyễn Mạnh Xứng 23 bài... Từ 1923
đến 1926 riêng Dương Đình Tẩy 28 bài, Trần Huy Liệu 37 bài, Nguyễn
Trung Khuyến 37 bài, Tạ Quang Ninh 23 bài, Nguyễn Văn Năng 52 bài, Bùi
Hữu Diên 23 bài, Đỗ Khắc Sương 10 bài, Lê Mạnh Trinh 12 bài, Đặng Xuân
Quýnh 12 bài, Phác Ngọc Phạm Thấu 38 bài, Đoàn Tịnh Canh 75 bài, Đoàn
Nhữ Nam 43 bài, Nguyễn Hữu Chiểu 22 bài, Minh Phượng 13 bài... Từ 1927
trở đi thơ Đường luật có giảm đi đôi chút, nhưng ở một số tác giả, cường độ
sáng tác lại có phần tăng lên. Có khi chỉ trong hai năm, Bùi Hữu Yên đã có


19
tới 40 bài, Lê Bạch Như 37 bài, Nhàn Vân Đình 54 bài... Thậm chí chỉ một
năm (1931), Đông Hồ có 42 bài, Vị Thường Vũ Bắc có 32 bài, Mộng Lan 31
bài... hoặc chỉ một số báo (số 154) Thiện Trường 22 bài, Từ Vân 10 bài,
Nguyễn Sĩ An 15 bài, Mộng Lan 31 bài... Đặc biệt miền Bắc, chỉ riêng mục
Văn uyển của tờ Nam phong (từ số 1 năm 1917 đến số 179 năm 1932) đã có

tới 1896 bài ĐL của 148 tác giả. Các tờ khác như Trung Bắc Tân văn, Thực
nghiệp dân báo, Khai hoá, Đông Pháp, Hữu thanh… tuy số lượng ít hơn,
nhưng con số cũng lên tới hàng trăm. Tờ An nam tạp chí của Tản Đà bị chết
đi chết lại nhiều lần, mà sau 6 lần tái xuất, cũng cho ra mắt bạn đọc tất cả 147
bài Đường luật của 42 tác giả”[.
Cho nên nếu dùng số lượng tác phẩm để xác định vị trí của thơ Đường
luật Quách Tấn trong văn học nửa đầu thế kỷ XX, thì Quách Tấn chưa chiếm
ưu thế. Tuy nhiên, nếu xét riêng dòng thơ Mới thì Quách Tấn lại giữ vị trí số
một. Việc cho ra đời hai tập thơ: Một tấm lòng (1939) và Mùa thu cổ điển
(1941) đúng thời điểm phong trào thơ Mới đang lên ngôi và đang ở thời điểm
được xem là rực rỡ nhất, cho thấy không ai khác chính sự dũng cảm lội ngược
dòng của Quách Tấn đã làm nên vị trí xứng đáng của ông trong việc kéo dài
sinh mệnh nghệ thuật của thơ Đường luật và đặc biệt hơn là vị trí người hòa
giải hai mặt trận Mới cũ.
Không phải ngẫu nhiên Hoài thanh, Hoài Chân lại có những nhận xét rất
công bằng với sáng tác thơ Đường luật của Quách Tấn, trong khi hai ông
đang có hướng nghiêng hẳn về phong trào thơ Mới.
Điều kỳ lạ là một người được xếp vào làng thơ Mới nhưng cả hai tập thơ
lại hầu hết được sáng tác bằng Đường luật. Một tấm lòng có 74 bài thì trong
đó có tới 67 bài thơ Đường luật (10 bài thất ngôn tứ tuyệt; 4 bài ngũ ngôn tứ
tuyệt, 53 bài thất ngôn bát cú, còn 7 bài là các thể thơ khác). Mùa cổ điển có


×