Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Chính sách và pháp luật về cạnh tranh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.29 KB, 13 trang )

Lêi më ®Çu
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh chính là động lực phát triển của
các thành phần, các chủ thể kinh tế cùng tham gia kinh doanh. C ác doanh nghiệp
luôn cố gắng giành sự quan tâm của khách hàng bằng việc chiếm ưu thế về thị
phần trên thị trường liên quan. Sự phát triển đó cũng kéo theo những hành vi hạn
chế cạnh tranh ngày càng gia tăng.
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, nếu không có sự quản lý, điều tiết hiệu quả
bằng chính sách, luật pháp thì rất dễ làm phát sinh độc quyền. Khi mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường thì quá trình tích tụ tư bản
dẫn tới sự hình thành các tập đoàn kinh tế có khả năng chi phối hoạt động kinh
doanh, sản xuất, cung ứng và giá cả trên thị trường. Độc quyền sẽ gây ra nhiều
tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Nếu doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống
lĩnh, độc quyền để hạn chế sản lượng, tăng giá bán thì sẽ gây thiệt hại cho người
tiêu dùng. Độc quyền làm cản trở cạnh tranh lành mạnh, giảm động lực phát
triển của nền kinh tế và hạn chế tự do kinh doanh.
Vì thế, để đảm bảo cho thị trường có sự cạnh tranh lành mạnh, đúng
hướng, các nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới đều có chính sách luật
pháp điều tiết hoạt động cạnh tranh trên thị trường để ngăn ngừa sự hình thành
độc quyền, duy trì cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo công bằng, bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng, bảo vệ cho các doanh nghiệp yếu hơn, kém hơn khi bị chèn
ép. Điều này nhằm mục tiêu ngăn ngừa tình trạng thao túng thị trường của một
hay một vài doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nào đó.
Với đề tài “Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền”, em hy vọng có
thể mang lại cái nhìn tổng thể nhất về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, lạm dụng độc quyền Việt Nam hiện nay, cũng như đưa ra được những
giải pháp thiết thực về chính sách này cho pháp luật Cạnh tranh của nước nhà.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG


LĨNH THỊ TRƯỜNG, LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN THEO PHÁP
LUẬT CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM
1.1. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm
Căn cứ theo những quy định tại Điều 11 và Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004:
- “Vị trí thống lĩnh trên thị trường được xác định dựa trên thị phần hoặc
khả năng gây hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh
nghiệp”. Theo đó, một doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường
nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Một nhóm doanh nghiệp cũng có thể được
coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh
tranh và thuộc một trong các trường hợp sau: hai doanh nghiệp có tổng thị phần
từ 50% trở lên trên thị trường liên quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ
65% trở lên trên thị trường liên quan; bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75%
trở lên trên thị trường liên quan.
- “Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là những hành vi do doanh
nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện nhằm
củng cố vị trí thống lĩnh bằng cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị
trường, ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác không cho gia nhập thị trường,
phát triển kinh doanh, dẫn đến những sai lệch về cạnh tranh trên thị trường”.
1.1.2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Luật Cạnh tranh 2004 đã liệt kê cụ thể 6 hành vi dưới đây là những hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và bị pháp luật cấm:
- Thứ nhất: Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Hành vi này là việc doanh nghiệp bán hành hóa hoặc
cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá thành thực để thu hút khách hàng và gây
khó khăn cho những doanh nghiệp cùng kinh doanh mặt hàng hoặc cung ứng
cùng một loại dịch vụ. Theo đó, cơ quản quản lí thị trường chỉ cần xác định và
tính toán tất cả các chi phí đã được doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất, kinh doanh



sản phẩm và giá bán thực tế của chúng rồi đem so sánh với nhau; nếu hành vi
bán hàng, cung ứng dịch vụ với mức giá gây lỗ thì mặc nhiên sẽ bị coi là định
giá hủy diệt nếu doanh nghiệp thực hiện hành vi có quyền lực thị trường và hành
vi đó không thuộc những trường hợp đặc biệt được quy định tại khoản 2 điều 23
Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
- Thứ hai: Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn
định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng. Với hành vi này, khách
hàng là những người bị chịu thiệt hại bởi giá mà họ phải mua quá cao so với giá
trị thực tế của sản phẩm hoặc phải bán hàng hóa với giá thấp hơn giá thành thực.
Giá mua, bán sản phẩm trên thị trường không được hình thành từ cạnh tranh mà
do các doanh nghiệp thống lĩnh ấn định. Mức chênh lệch giữa giá được ấn định
với giá cạnh tranh (giả định) là khoản lợi ích độc quyền mà doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền có được. Vì vậy, bằng hành vi này doanh
nghiệp thống lĩnh hoặc độc quyền đã có được toàn bộ giá trị thặng dư tiêu dùng
của thị trường, mà thực chất là phần giá trị lẽ ra được hưởng của người tiêu dùng
nếu có cạnh tranh.
- Thứ ba: Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị
trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng.
Nhóm hành vi này gồm ba hành vi cụ thể sau: (1) hạn chế sản xuất, phân
phối sản phẩm gây thiệt hại cho khách hàng. (2) Hạn chế thị trường gây thiệt hại
cho khách hàng. (3) Hạn chế sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho
khách hàng.
- Thứ tư: Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau
nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh. Theo quy định của điều 29 Nghị định
116/2005/NĐ-CP, đây là “hành vi phân biệt đối xử với các doanh nghiệp về điều
kiện mua bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong giao dịch mua bán
hàng hóa, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hóa, dịch vụ để đặt
một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi hơn so với doanh nghiệp khác”;

vì vậy, nó còn được gọi là hành vi phân biệt đối xử thương mại. Hành vi này
được cấu thành bởi hai yếu tố sau: (1) doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đã áp
dụng các điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng khác nhau
trong những giao dịch như nhau; (2) hành vi đã gây ra tình trạng bất bình đẳng
giữa các khách hàng.


- Thứ năm: Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
Loại hành vi này bao gồm: (1) Hành vi áp đặt cho doanh nghiệp khác điều
kiện ký kết hợp đồng mua bán hàng hàng, dịch vụ. (2) Buộc doanh nghiệp khác
chấp nhận các nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến đối tượng hợp đồng.
- Thứ sáu: Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh
mới. Căn cứ những quy định của điều 31 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, ngăn cản
việc gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới có thể hiểu là hành vi
tạo ra những rào cản về giá hoặc về nguồn tiêu thụ, nguồn nguyên vật liệu… trên
thị trường liên quan.
1.2. Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
1.2.1. Khái niệm
Theo Điều 12 Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền
nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp
đó kinh doanh trên thị trường liên quan.
Như vậy hành vi lạm dụng vị trí độc quyền là hành vi của doanh nghiệp có vị
trí độc quyền, lợi dụng vị trí đó để thực hiện trục lợi cho doanh nghiệp mình
nhằm gây thiệt hại cho khách hàng một cách bất hợp lý bằng phương pháp
đe dọa cắt đứt nguồn cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh
doanh; tự ý thực hiện các hành vi nhằm ngăn cản các doanh nghiệp khác tham
gia thị trường, củng cố vị trí độc quyền. Pháp luật nghiêm cấm các doanh nghiệp
thực hiện hành vi này ngoại trừ một số ngành được chính phủ quy định về vị trí

độc quyền, không tự thực hiện các hành vi nhằm ngăn cản các doanh nghiệp
khác tham gia thị trường thì không phải là lạm dụng vị trí độc quyền.
1.2.2. Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
- Thứ nhất: Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng. Điều 32 Nghị
định 116/2005/NĐ-CP quy định: “Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng
của doanh nghiệp có vị trí độc quyền là hành vi buộc khách hàng phải chấp
nhận vô điều kiện những nghĩa vụ gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình
thực hiện hợp đồng”. Các doanh nghiệp độc quyền có thể tự ý áp đặt trong hợp
đồng các điều kiện bất lợi cho khách hàng.


- Thứ hai: Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ
hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng. Một số ngành được chính
phủ quy định về vị trí độc quyền, không tự thực hiện các hành vi nhằm ngăn cản
các doanh nghiệp khác tham gia thị trường thì không phải là lạm dụng vị trí độc
quyền. Ví dụ: ngành điện của Việt Nam là ngành được quy định và bảo vệ cho vị
trí độc quyền của doanh nghiệp (Điều 33 Nghị định 116/2005/NĐ-CP).
1.2.3. Kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà
nước, doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích
Cơ chế để kiểm soát hoạt động của nhóm doanh nghiệp này được qui định
tại Điều 15 Luật Cạnh tranh; bao gồm hai nhóm biện pháp tương ứng với hai
nhóm đối tượng:
Thứ nhất, kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp độc quyền Nhà nước có
hai biện pháp: (1) Kiểm soát giá: Nhà nước áp đặt giá mua, bán hàng hóa thuộc
lĩnh vực độc quyền Nhà nước. Tuy nhiên, mặt hạn chế của biện pháp này chính
là do tính áp đặt của Nhà nước, nếu sự áp đặt không phản ánh đúng giá trị thực
sự của hàng hóa sẽ là rào cản đối với một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị
trường. (2) Kiểm soát thị phần: Bằng cách quyết định khối lượng, số lượng,
phạm vi thị trường của hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền Nhà nước.
Biện pháp này chủ yếu nhằm vào việc kiểm soát thị phần của các doanh nghiệp

độc quyền Nhà nước mà không kiểm soát chất lượng của loại hàng hóa đó. Thực
tế cho thấy chất lượng dịch vụ, hàng hóa thuộc lĩnh vực độc quyền Nhà nước đôi
khi chưa tốt.
Thứ hai, kiểm soát doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ
công ích. Nhà nước kiểm soát nhóm này thông qua các biện pháp như đặt hàng,
giao kế hoạch, đấu thầu theo giá hoặc phí do Nhà nước qui định và chỉ các
doanh nghiệp nào đáp ứng được các yêu cầu do Nhà nước đặt ra mới được phép
sản xuất, cung ứng dịch vụ công.

Chương 2
THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG
VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN


2.1. Vụ việc Vinapco lạm dụng vị trí độc quyền
2.1.1. Thông tin vụ việc
Ngày 01/4/2008 các chuyến bay của hãng hàng không Jestar Pacific Airline
(JPA) đã bị ngưng trệ do Công ty xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco) đã
đơn phương ngừng cung cấp nguyên liệu bay cho JPA. Sau khi bộ trưởng Bộ
GT-VT trực tiếp ra chỉ thị cung cấp lại nhiên liệu cho JPA các chuyến bay mới
được cất cánh sau 2-3h bị ngưng trệ. Tại thời điểm này, Vinapco là đơn vị duy
nhất được phép cung cấp xăng dầu hàng không thương mại cho các hãng hàng
không Việt Nam và nước ngoài tại sân bay nội địa. Giữa Vinapco và JPA có cam
kết về những điều khoản của hợp đồng mua bán xăng dầu và thực hiện các dịch
vụ tra nạp tại sân bay. Cụ thể: ngoài giá xăng dầu thực tế, chi phí vận chuyển,
bảo hiểm, thuế nhập khẩu JPA phải trả cho Vinapco phí nạp xăng dầu 593 nghìn
đồng /tấn. Tuy nhiên, ngày 20/3 Vinapco gửi công văn cho JPA đề nghị tăng phí
nạp xăng dầu lên 750 nghìn đồng/tấn từ 01/04.
Bên cạnh đó, Vinapco vẫn giữ nguyên phí nạp xăng dầu ban đầu cho
Vietnam Airlines. Điều này được JPA cho là không công bằng và chỉ đồng ý tăng

phí nếu phí nạp xăng dầu của Vietnam Airlines cũng tăng tương ứng. Khi chưa
có sự thống nhất. Báo cáo hoạt động thường niên 2010 của Cục quản lý Cạnh
tranh – trang 13 giữa 2 bên thì ngày 01/04 Vinapco đột ngột ngừng cung cấp
nhiên liệu cho JPA. Sự việc này đã ảnh hưởng đến hàng nghìn khách hàng, tác
động tiêu cực đến dư luận trong nước và quốc tế về hàng không Việt Nam.
* Quá trình và kết quả điều tra
Ngày 28/05/2008, Cục Quản lý cạnh tranh đã bắt đầu tiến hành điều tra
chính thức vụ việc. Quá trình điều tra chính thức kết thúc vào 12/2008 và đã
được chuyển lên Hội đồng cạnh tranh vào 01/2009. Ngày 14/04/ 2009, Hội đồng
cạnh tranh đã mở phiên tòa điều trần để xử lý vụ việc. Tại phiên điều trần, Hội
đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh do Hội đồng cạnh tranh thành lập đã ra kết luận
Vinapco lạm dụng vị trí độc quyền trên thị trường tra nạp nhiên liệu hàng không
tại Việt Nam, vi phạm Khoản 2, Điều 4 LCT 2004. Cụ thể đó là các hành vi: “Áp
đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng” và “Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ
hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng”. Hội đồng xử lý vụ việc đã
ra quyết định xử phạt vi phạm của Vinapco mức phạt là 0,05% tổng doanh thu


của năm tài chính trước năm Vinapco thực hiện hành vi vi phạm tương đương
với số tiền là 3.378.086.700 đồng.
2.1.2. Nhận xét và kiến nghị
- Nhận xét
Sau khi Hội đồng cạnh tranh đưa ra phán quyết trên, Vinapco đã có đơn
khiếu nại quyết định trên nhưng bị HĐCT bác bỏ. Sau đó, Vinapco đã làm đơn
khởi kiện HĐCT ra Tòa Hành chính, TAND TP Hà Nội vì Vinapco cho rằng
phán quyết của Hội đồng Cạnh tranh là trái với pháp luật thương mại. Trong
trường hợp của Vinapco với tư cách là một doanh nghiệp 100% vốn nhà nước,
hành vi ngừng cấp nhiên liệu bay của Vinapco (bị cho là hành vi “lợi dụng vị thế
độc quyền để đơn phương thay đổi, hoặc hủy bỏ hợp đồng mà không có lý
do chính đáng”) là hành vi Vinapco buộc phải làm để bảo toàn vốn nhà nước dù

rất ý thức rằng có thể hành vi đó trái với các quy định tại Luật Cạnh tranh.
Báo cáo hoạt động thường niên 2010 của Cục quản lý Cạnh tranh – Theo
Vinapco, đây là một hợp đồng thương mại thuần túy, các bên trong hợp
đồng đều tự nguyện, bình đẳng và không bị bất kỳ sức ép nào trong việc thương
thảo ký kết hợp đồng. Trong Hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên đã được
xác định rõ, tuân thủ toàn bộ các quy định của pháp luật hiện hành và phù hợp
với thông lệ quốc tế trong lĩnh vực cung ứng nhiên liệu hàng không. Trong suốt
thời gian thực hiện Hợp đồng, JPA cũng như Vinapco chưa bao giờ có văn bản
khiếu nại để phản ánh về sự không bình đẳng, đơn phương hủy bỏ hợp đồng
hoặc lạm dụng vị thế độc quyền gây khó khăn cho khách hàng. Về bản chất, sự
việc tạm ngừng giao hàng theo Hợp đồng ngày 01/4/2008 là một tranh chấp
thương mại thuần túy phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Mặt khác,
hợp đồng ký giữa Vinapco và JPA đã có đầy đủ chế tài và phương thức xử lý các
tranh chấp Bản thân các bên liên quan đã giải quyết ổn thỏa, JPA không khởi
kiện Vinapco ra tòa, cơ quan chủ quản của cả hai doanh nghiệp là Bộ Giao thông
vận tải cũng đã có kết luận. Vì vậy, nếu có sự vi phạm hợp đồng thì chỉ áp dụng
các chế tài đã được thỏa thuận trong hợp đồng để xử lý. Pháp luật cạnh tranh và
các cơ quan quản lý cạnh tranh không nên can thiệp bằng các chế tài hành chính
vào các giao dịch dân sự - thương mại thuần túy. Quan điểm này đã giới hạn sự
can thiệp từ phía các cơ quan quản lý cạnh tranh đối với hoạt động của doanh
nghiệp trên thị trường khi cho rằng việc tiến hành điều tra, xử lý phạt hành chính


theo Luật Cạnh tranh đối với một tranh chấp hợp đồng thương mại là không phù
hợp với bản chất của vụ việc.
- Kiến nghị
Có thể nói, Luật cạnh tranh là một đạo luật quan trọng nằm trong hệ thống
pháp luật của một quốc gia nhưng các quy định của Luật Cạnh tranh phải đảm
bảo tính thống nhất với các đạo luật khác và đồng thời cũng phải đảm bảo quyền
kinh doanh bình thường của doanh nghiệp kể cả trường hợp doanh nghiệp độc

quyền. Do vậy, cần rà soát lại các quy định về hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
xem có trường hợp nào mâu thuẫn với các quy định pháp luật khác hay không để
tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định đó một cách hợp lý nhằm vừa bảo đảm
quyền lợi của các doanh nghiệp độc quyền vừa bảo đảm đúng tinh thần của Luật
Cạnh tranh.
2.2. Vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
2.2.1. Thông tin vụ việc
Công ty liên doanh bia Việt Nam (viết tắt là VBL) là liên doanh giữa một
doanh nghiệp Việt Nam (Tổng công ty thương mại Sài Gòn, đóng góp 40% vốn
của VBL) và Asia Pacific Breweries (một công ty có trụ sở chính ở Singapore, là
liên doanh giữa Fraser & Neave Group và Heineken International, đóng góp
60% vốn của VBL). VBL sản xuất các loại bia cao cấp, trong đó có bia mang
nhãn hiệu Heineken và Tiger.
Tân Hiệp Phát (viết tắt THP) một doanh nghiệp 100% vốn của Việt Nam, đã
tung ra thị trường Việt Nam một loại bia cao cấp mới - bia Laser vào cuối năm
2003. VBL đã ký nhiều hợp đồng với nhiều nhà hàng, quán nhậu, khách sạn…
(tức các điểm bán bia và tiêu thụ (uống) bia tại chỗ). Theo đó VBL có quyền độc
quyền bán và tổ chức các hoạt động khuyến mại, quảng cáo và tiếp thị các loại
bia do công ty này sản xuất, đặc biệt là hai loại bia cao cấp mang nhãn hiệu
Heineken và Tiger tại các điểm bán và uống bia ngay ở điểm bán. Đổi lại, VBL
cam kết “tài trợ” cho đối tác hợp đồng một khoản tiền mặt được thanh toán trong
thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Do các hợp đồng có tính độc quyền giữa VBL
và các điểm bán bia và tiêu thụ bia tại chỗ nói trên, các điểm bán đã ký hợp đồng
với VBL về mặt pháp lý không thể bán bia Laser của THP.


Ngay từ khi Luật Cạnh tranh năm 2004 (LCT) có hiệu lực, THP đã nỗ lực
khiếu nại hành vi hạn chế cạnh tranh của VBL. THP cho rằng VBL đã có vị trí
thống lĩnh thị trường trên thị trường bia cao cấp ở Việt Nam và thông qua hệ
thống các hợp đồng độc quyền nêu trên, VBL đã ngăn cản đối thủ cạnh tranh mới

(như THP) gia nhập thị trường là đã vi phạm khoản 6 Điều 13 LCT. Tuy nhiên tại
thời điểm bấy giờ, cơ quan quản lý cạnh tranh theo LCT chưa được thành lập
cũng như chưa có cơ quan có thẩm quyền nào thụ lý đơn khiếu nại của THP.
Tháng 01/2007, sau khi các cơ quan chức năng được thành lập, THP tiếp
tục khiếu kiện VBL lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Vụ việc này sau đó đã
được cơ quan có thẩm quyền thụ lý.
Trong quá trình thụ lý hồ sơ, Cục quản lý cạnh tranh đã yêu cầu THP bổ
sung hồ sơ ba lần. Trong đó, THP cần bổ sung các tài liệu chứng minh thị trường
liên quan, thị phần của VBL, hành vi hạn chế cạnh tranh của VBL.
Tháng 8/2007, Cục Quản lý cạnh tranh (CQLCT) ra quyết định điều tra sơ
bộ. Ngày 12/10/2007, CQLCT ra quyết định điều tra chính thức. Đến ngày
21/4/2010 (tức hơn 20 tháng kể từ ngày hết thời hạn điều tra chính thức), Chủ
tịch Hội đồng Cạnh tranh mới ra quyết định thành lập Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh (HĐXLVVCT). Ngày 21/5/2010, HĐXLVVCT đã ra Quyết định số
09/QĐ-HĐCT-HĐXL đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh theo điểm a khoản 1
Điều 101 LCT.
Ngày 17/6/2010 THP đã tiến hành khiếu nại Quyết định đình chỉ giải quyết
vụ việc cạnh tranh này. Tuy nhiên, Hội đồng cạnh tranh đã bác bỏ hoàn toàn tất
cả các khiếu nại của THP và ra Quyết định số 15/QĐ - HĐCT giữ nguyên Quyết
định của HĐXLVVCT về việc đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh.
THP khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh tại
Tòa hành chính – TAND TP. HCM. Ngày 21/02/2011 TAND TP. HCM ra quyết
định đình chỉ vụ án hành chính với lý do không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa này. Đến đây xem như đã khép lại quá trình tố tụng đối với việc khiếu kiện
của THP.

2.2.2. Nhận xét và kiến nghị


Sau khi nghiên cứu vụ việc THP khiếu nại BVL lạm dụng vị trí thống lĩnh

thị trường, có thể thấy được mấu chốt của việc giải quyết các vụ việc liên quan
đến các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là vấn đề xác định thị
trường
liên
quan.
Có thể thấy rõ rằng xác định thị trường liên quan là một giai đoạn rất quan
trọng trong bất cứ cuộc điều tra nào về hành vi lạm dụng. Bởi lẽ, thị phần chỉ
được tính toán sau khi những ranh giới của thị trường đã được xác định. Do đó,
nếu thị trường Báo cáo hoạt động thường niên 2010 của Cục quản lý Cạnh tranh
được xác định sai, thì tất cả những phân tích tiếp theo dựa trên thị phần hoặc cấu
trúc thị trường đều không chính xác.
Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, trên cơ sở học tập kinh nghiệm lập pháp
của các quốc gia trên thế giới, đã quy định khá chi tiết và đầy đủ về các tiêu chí
xác định thị trường liên quan, đặt trong trạng thái động của thị trường, có ý
nghĩa nâng cao tính hiệu quả của quá trình áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
Cần phải thừa nhận rằng Việt Nam có rất ít kinh nghiệm trong việc xác định thị
trường liên quan. Trong quá khứ, chúng ta mới chỉ làm quen với việc khoanh
vùng thị trường theo ngành nghề hoặc địa bàn kinh tế để xây dựng và triển khai
các chính sách kinh tế - chính trị. Do đó, các quan niệm về thị trường quen thuộc
trong đời sống kinh tế và khoa học pháp lý luôn gắn liền với ngành nghề, lĩnh
vực hoặc địa bàn nào đó, chúng không là thị trường liên quan trong truyền thống
của pháp luật cạnh tranh. Thị trường liên quan mà luật cạnh tranh nói đến có độ
co giãn rất cao theo từng vụ việc cụ thể trong từng thời điểm nhất định. Nó có
thể chỉ nằm trong phạm vi một sản phẩm cụ thể của một ngành sản xuất, ở một
khâu nhất định trong quá trình kinh doanh, và cũng có thể được giới hạn bởi một
khu vực địa lý hẹp nào đó nhưng cũng có khả năng là rất rộng lớn. Kinh nghiệm
của các nước được thống kê bởi OECD cho thấy, việc điều tra và xác định thị
trường liên quan là một việc rất phức tạp, đòi hỏi sự nhạy bén và trình độ của
những người có trách nhiệm. Do đó, bên cạnh các quy định khá đầy đủ của
pháp luật còn đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ đủ năng lực và trình độ kinh tế - kỹ

thuật để thu thập, phân tích chính xác các số liệu lấy ra từ thực tiễn. Còn một vài
vấn đề tồn tại mà nhà làm luật cũng như những cơ quan có trách nhiệm thực thi
cần phải lưu ý đến:


Một là, cần cân nhắc về thời điểm xác định thị trường liên quan. Bởi lẽ,
phạm vi của thị trường liên quan và thị phần của từng doanh nghiệp trên thị
trường liên quan luôn thay đổi theo thời gian và theo những biến động trên thị
trường, do đó, tại thời điểm hành vi lạm dụng được thực hiện thì phạm vi thị
trường liên quan có thể khác (hẹp hơn hoặc rộng hơn) với thời điểm tiến hành
điều
tra
sau
đó.
Hai là, cơ quan cạnh tranh nhất thiết phải tham khảo nhiều phương pháp
khác nhau khi xác định thị trường liên quan để tăng tính chính xác của kết quả
điều tra. Một số phương pháp có thể áp dụng để xác định thị trường là:
+ Điều tra xã hội học để thăm dò phản ứng của người tiêu dùng;
+ Phân tích dưới góc độ kỹ thuật, kinh tế các thông số thu thập được để kết
luận về tính chất của sản phẩm của của cấu trúc thị trường;
+ Phương pháp tính độ co giãn chéo của cầu. Trên cơ sở này, Nghị định
116/2005/NĐ-CP quy định cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh có quyền xem xét thêm một hoặc một số yếu tố sau đây để xác định
thuộc tính “có thể thay thế cho nhau” của hàng hoá, dịch vụ:
Tỷ lệ thay đổi của cầu đối với một hàng hoá, dịch vụ khi có sự thay đổi về
giá của một hàng hoá, dịch cụ khác (phương pháp tính độ co giãn chéo của cầu);
Thời gian cung ứng hàng hoá, dịch vụ ra thị trường khi có sự gia tăng đột
biến về cầu;
Thời gian sử dụng của hàng hoá, dịch vụ;
Khả năng thay thế về cung.

Mặc dù vậy, trên thực tế, đã nảy sinh nhiều khó khăn cho cơ quan áp dụng,
đồng thời cũng tạo ra tâm lý nghi ngờ về tính chính xác của các phương pháp
này từ phía các nhà kinh doanh khi thị trường được xem xét có sự đa dạng về
sản phẩm và các thông số kỹ thuật về sản phẩm và về thị trường chưa thực sự rõ
ràng hoặc có độ co giãn rất lớn.


KẾT LUẬN
Tuy Luật Cạnh tranh ra đời với mục tiêu thiết lập và duy trì một thị trường
có tính cạnh tranh lành mạnh, nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranh của doanh nghiệp trong khuôn khổ của pháp luật, thế nhưng việc quy định
của luật còn thiếu chặt chẽ và chưa đầy đủ như trên đã đề cập đã tạo ra những
cách hiểu thiếu thống nhất và gây khó khăn cho quá trình tố tụng cạnh
tranh, kéo dài quá trình tố tụng dẫn đến xâm phạm quyền và lợi ích của các bên
trong vụ việc khiếu nại. Chính vì thế lẽ đó, một khi pháp luật cạnh tranh chưa
hoàn thiện thì quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp trên thị trường
cạnh tranh sẽ không được bảo vệ một cách hữu hiệu.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật cạnh tranh năm 2004.
2. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, ngày 15/9/2005 của Chính phủ, quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. CAND Hà
Nội, 2011.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình thương mại, Nxb. CAND Hà Nội,
2009.
5. Báo cáo hoạt động thường niên của 2010 của Cục Quản lý Cạnh tranh.
6. Một số trang web tham khảo: - .
- .
- />


Môc lôc



×