Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Từ thức lấy vợ tiên trong truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ nôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 166 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐỖ THỊ NGỌC ĐIỆP

“TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN” TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH, TRUYỆN
TRUYỀN KỲ VÀ TRUYỆN THƠ NÔM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐỖ THỊ NGỌC ĐIỆP

“TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN” TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH, TRUYỆN
TRUYỀN KỲ VÀ TRUYỆN THƠ NÔM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thanh

Thái Nguyên - 2019



i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Ngọc Điệp


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và văn học, Trường
Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng
dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Vũ
Thanh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Ngọc Điệp



iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .................................................................. 9
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 9
5. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 10
6. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................ 11
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 12
NỘI DUNG ......................................................................................................... 13
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA SỰ TÍCH ĐỘNG TỪ THỨC, TỪ
THỨC LẤY VỢ TIÊN VÀ TỪ THỨC TÂN TRUYỆN ......................................... 13
1.1. Sơ lược về vấn đề thể loại truyện cổ tích thần kỳ và truyện kể địa danh
của Sự tích động Từ Thức .................................................................................. 13
1.1.1. Tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ ............................................................... 13
1.1.2. Truyện kể địa danh .................................................................................... 14
1.1.3. Truyện Sự tích động Từ Thức .................................................................. 15
1.2. Sơ lược về thể loại truyện truyền kỳ và truyện Từ Thức lấy vợ tiên………18
1.2.1. Sơ lược về thể loại truyện truyền kỳ ........................................................ 18
1.2.2. Nguyễn Dữ và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên ............................... 20
1.3. Vấn đề tác giả và thể loại truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện .................. 28
1.3.1. Sơ lược về thể loại truyện thơ Nôm .......................................................... 28
1.3.2. Về đặc điểm truyện thơ Nôm bình dân ..................................................... 30
1.3.3. Về truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện.................................................... 34

Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................... 37
Chương 2: SỰ KẾ THỪA, BIẾN ĐỔI NỘI DUNG TƯ TƯỞNG VÀ GIÁ TRỊ
NHÂN VĂN QUA BA TÁC PHẨM .................................................................. 38


iv

2.1. Tương quan tam giáo từ truyện cổ tích đến truyền kỳ và truyện thơ
Nôm ..................................................................................................................... 38
2.1.1. Điểm chung trong tư tưởng của ba tác phẩm ............................................ 38
2.1.2. Những biến đổi tương quan tam giáo từ truyện cổ tích, đến truyện truyền
kỳ và truyện thơ Nôm .......................................................................................... 44
2.2. Sự bế tắc trong tư tưởng và lối sống của nho sĩ trong xã hội phong kiến ... 50
2.3. Khát vọng tự do và cảm xúc tình yêu trong Sự tích động Từ Thức, Từ
Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện .............................................................. 55
2.3.1. Khát vọng tự do và tình yêu tự do............................................................. 55
2.3.2. Cảm xúc tình yêu và yếu tố tính dục trong truyện truyền kỳ Từ Thức
lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện............................................ 62
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................... 70
Chương 3: SỰ KẾ THỪA VÀ BIẾN ĐỔI TRÊN MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN
NGHỆ THUẬT QUA BA TÁC PHẨM ............................................................. 71
3.1. Sự kế thừa một số phương diện nghệ thuật từ Sự tích động Từ Thức đến
Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện......................................................... 71
3.1.1. Kế thừa mô hình kết cấu cốt truyện ......................................................... 71
3.1.2. Kế thừa môtip truyện ................................................................................ 73
3.1.3. Kế thừa yếu tố thần kỳ và ngẫu nhiên ....................................................... 75
3.1.4. Kế thừa hệ thống nhân vật và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật 76
3.2. Sự biến đổi một số phương diện nghệ thuật từ Sự tích động Từ Thức đến Từ
Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện .............................................................. 78
3.2.1. Biến đổi về kết cấu cốt truyện .................................................................. 78

3.2.2. Biến đổi về nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật ................... 92
3.2.3. Biến đổi về ngôn ngữ nghệ thuật .............................................................. 99
Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................... 104
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 109
PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong tiến trình phát triển lịch sử văn học dân tộc, văn học dân gian
luôn có mối quan hệ bền chặt, hữu cơ với văn học viết, nhất là giai đoạn từ thế kỷ
XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX – thời kỳ văn học phát triển rực rỡ, kết tinh nhiều
thành tựu và tạo ra nền móng cho những giai đoạn phát triển thịnh vượng trong
đời sống văn hóa, văn học sau này. Đáng chú ý hơn, đây cũng là thời điểm chứng
kiến sự ra đời của những tác phẩm văn học mang ý nghĩa nhân văn lớn, khẳng
định khát vọng của con người về tự do, tình yêu, hạnh phúc, sự công bằng, thoát
khỏi những ràng buộc hà khắc của lễ giáo phong kiến. Truyện cổ tích Sự tích
động Từ Thức, Truyện Từ Thức lấy vợ tiên trích từ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện là những tác phẩm thể hiện sâu sắc
những nội dung đó. Việc tìm hiểu ba tác phẩm thực sự là một việc làm có ý nghĩa
và hấp dẫn đối với người viết, giúp chúng ta hiểu rõ và đánh giá chính xác hơn sự
phát triển và những thành tựu của các giai đoạn văn học này.
1.2. Sức ảnh hưởng của truyện cổ tích nói riêng, văn hoá, văn học dân
gian nói chung đến truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm ở thời kỳ này cũng hết
sức sâu sắc. Các tác giả truyện truyền kỳ thường mượn các tích dân gian để viết
nên tác phẩm của mình. Trong khi đó truyện thơ Nôm lại thường diễn lại tích
truyện cổ tích, truyện truyền kỳ, truyện chích quái, hay những câu chuyện có
thật ở đời sống. Có những sáng tác sau khi được viết lại như thế đã đạt đến

thành công xuất sắc, xóa mờ kí ức về văn bản vay mượn như trường hợp tác
phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, hay các truyện thơ Nôm bình dân
như: Thạch Sanh - Lý Thông, Phạm Công - Cúc Hoa... Nghiên cứu đề tài: “Từ
Thức lấy vợ tiên” trong truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ
Nôm, chúng tôi muốn đem đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về quy
luật hình thành, phát triển của ba thể loại trên, và sự tương tác giữa ba thể loại từ
góc độ tiếp cận của mình.


2
1.3. Trên thực tế truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm đã có
nhiều tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông và đại học, cao
đẳng. Ở phổ thông có các tác phẩm như: truyện cổ tích Tấm Cám, truyện truyền
kỳ: Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
(trích: Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ), truyện thơ Nôm: Đoạn trường tân
thanh của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu…. Vì vậy, nghiên
cứu các tác phẩm Sự tích động Từ Thức, Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân
truyện sẽ góp phần bổ trợ kiến thức cho giáo viên dạy ở phổ thông để đối chiếu,
so sánh với những tác phẩm cùng thể loại. Đối với các trường đại học, cao đẳng,
đề tài cũng rất hữu ích cho quá trình nghiên cứu, học tập của sinh viên, học viên.
Sự tích động Từ Thức, Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện là
những tác phẩm độc đáo bởi nó vừa có giá trị văn học vừa có ý nghĩa văn hóa
sâu sắc (đặc biệt là về triết học, tôn giáo: tư tưởng tam giáo, tín ngưỡng dân
gian…). Việc nghiên cứu văn học trong mối quan hệ so sánh ba tác phẩm có
cùng cốt truyện ở ba thể loại và thời điểm ra đời khác nhau sẽ giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về hiện tượng văn hóa lý thú này. Đồng thời, giúp chúng ta có một cái
nhìn đúng đắn hơn về truyền thống và tôn giáo, tín ngưỡng văn hóa dân gian, tư
tưởng thời đại của cả ba tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức

Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức thuộc tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ
- truyện cổ tích giải thích tên địa danh động Từ Thức, là câu chuyện được lưu
truyền rộng rãi trong dân gian.
Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức là câu chuyện thứ 130 được ghi chép
lại trong Kho tàng truyện Cổ tích Việt Nam của tác giả Nguyễn Đổng Chi, Nxb
Giáo dục, năm 2000. Từ khi ra đời truyện đã được chuyển thể thành các tích
chèo và sau này là phim truyền hình. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của chúng
tôi thì chưa có công trình nghiên cứu liên văn bản về câu chuyện Từ Thức lấy vợ
tiên trong cả ba thể loại truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm


3
mang tính chất quy mô, mà chỉ có những bài nghiên cứu ở cấp độ hai thể loại từ
truyện cổ tích đến truyện truyền kỳ, hay từ truyện truyền kỳ đến truyện thơ Nôm
trên một số tạp chí đăng và trang mạng.
Trong bài viết : Sự tương đồng và khác biệt về không gian trong truyện cổ
tích thần kỳ của người Việt và người Hàn của Lưu Thị Hồng Việt, đăng trên
“Tạp chí Khoa học” Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Số 60 năm
2014 đã chỉ ra sự tương đồng về không gian kỳ lạ trong các truyện cổ tích của
người Việt và người Hàn: “Không gian cõi tiên có mối liên hệ gần gũi với không
gian hạ giới, âm giới... Sự liên hệ giữa các không gian này không khó khăn,
không phức tạp. Các nhân vật có thể từ cõi trần lên cõi tiên, từ cõi tiên xuống hạ
giới một cách dễ dàng như một sự đi lại bình thường nhờ các phương tiện dịch
chuyển thần kỳ như cỗ xe mây,...” [82]. Tác giả Lưu Thị Hồng Việt chỉ rõ ở
truyện Sự tích động Từ Thức của người Việt có miêu tả hành động Từ Thức đi
lên một ngọn núi cao nhìn ra giữa cửa Thần Phù và trước mắt chàng hiện lên
một hòn đảo trông như một đóa hoa sen giữa vùng biển cả. Trước cảnh vật đẹp
lạ kỳ, Từ Thức đã di chuyển ra khơi đến hòn đảo bằng chiếc thuyền. Không gian
Từ Thức đến là một không gian thần kỳ trong những ngọn núi: “Chẳng bao lâu
thuyền đã ghé đảo. Đang mê mải nhìn, chàng bỗng thấy ở sườn núi đá gần đó

có một cửa hang khá rộng. Bèn vịn cây rẽ cỏ tìm đến tận nơi.”[8, tr 947, 948].
Từ Thức đi vào hang được một đoạn thì cửa hang đóng sập lại. Ban đầu Từ
Thức đi trong hang tối, nhưng càng đi thì càng nhiều cảnh bất ngờ hiện ra trước
mắt: “Khi leo lên đến đỉnh thì Từ Thức bỗng thấy cả một tòa nhà lộng lẫy hiện
ra trước mắt (...) đó không phải là cảnh vật của trần gian mà là tiên cảnh. Từ
Thức đã đến được không gian tiên giới, được các tiên nữ đón tiếp chu đáo: “Lập
tức đêm hôm ấy trong bữa tiệc tưng bừng có quần tiên tụ hội, hai người chính
thức làm lễ giao bôi. Khách tiên từ các động vui vẻ cạn chén chào mừng chàng
rể mới đến nhập tịch làng tiên ...” [8, tr 948, 949]. Tác giả bài viết cũng chứng
minh rằng không gian núi trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên cũng mang ý nghĩa
“biểu tượng của cái siêu tại, siêu phàm với tính cách là trung tâm của những


4
hiện tượng hiển linh trong khí quyển và rất nhiều sự tích thần hiện. (...) Núi là
nơi trời và đất gặp nhau, là nơi của thánh thần và là điểm cuối của con đường
đi lên của con người” [ 6, tr 699].
Chi tiết Từ Thức gặp tiên và có thời gian hạnh phúc nồng nàn bên nàng
tiên Giáng Hương đã chứng tỏ sự tương đồng trong quan niệm về “núi” - một
trong những biểu tượng không gian thiêng mang nhiều điểm tương đồng với
quan niệm của nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Sự dịch chuyển không gian
của nhân vật Từ Thức đã giúp chàng khám phá những vẻ đẹp thần bí, đến với
tình yêu tiên giới mặc dù không toại nguyện và cuối cùng chàng đành trở về cõi
tục, thấm thía hơn bao giờ hết về số phận của mình trên thế gian trong sự lạc
lõng, hoàn toàn xa lạ với thế gian.
Tác giả Nam Minh trong bài viết: “Từ Thức gặp tiên, truyện cổ tích Việt
Nam hay một hiện tượng khoa học?” cho rằng: Rất nhiều sự kiện lịch sử có thật,
theo năm tháng dài đằng đẵng của lịch sử mà dần dần trở thành truyền thuyết,
thần thoại. Từ đó, tác giả Nam Minh đưa ra giả thiết Từ Thức gặp tiên, truyện cổ
tích hay một hiện tượng khoa học? Vì xem xét truyện Từ Thức gặp tiên, ta thấy

có yếu tố kỳ ảo góp phần khiến câu chuyện bị cho là hư cấu đó là việc Từ Thức
đến thế giới của địa tiên núi Nam Nhạc một năm, nhưng trở về nhân gian thì đã
hai trăm năm trôi qua. Tác giả bài viết đã khảo sát các dẫn chứng trên thế giới
như Rudolph Fentz là một trong những trường hợp “du hành vượt thời gian” nổi
tiếng lịch sử, trường hợp Chuyến bay thương mại Santiago 513 khởi hành từ
Đức vào ngày 4/9/1954 và biến mất ở một nơi nào đó trên Đại Tây Dương…
Sau đó tái xuất hiện sau 35 năm, lượn quanh sân bay và hạ cánh tại Porto
Alegre, Brazil. Hôm đó là ngày 12/10/1989. Hay trường hợp một chiếc du
thuyền của Anh mang tên “Sea Breeze” tháng 8/1981 cùng 6 người trên boong
đột nhiên biến mất tại vùng tam giác quỷ Bermuda. 8 năm sau, chiếc du thuyền
xuất hiện trở lại một cách kỳ lạ tại đúng vị trí mất tích, 6 người trên thuyền vẫn
bình an vô sự. Một điều đặc biệt mà cả 6 người trên du thuyền đều nhận thức
được là, dường như bản thân mất đi cảm giác và họ hoàn toàn không biết được


5
rằng ở ngoài kia 8 năm đã trôi qua. Ấy vậy mà họ chỉ cảm giác như một vài giây
đã trôi qua mà hầu như chưa làm được một việc gì….Từ đó tác giả Nam Minh
khẳng định: “Vì thế câu chuyện Từ Thức gặp tiên rất có thể không phải là truyện
cổ tích như ta vẫn thường nghĩ mà nó hé mở bí mật về Thời – Không” [45].
Cũng trong bài viết này theo tác giả Nam Minh: Lý thuyết mới về đa thế
giới có thể giải thích rất nhiều phát hiện kỳ lạ trong cơ học lượng tử. Trong đó
có thể giải thích sự hiện diện của Thiên đường. Tại sao người thường trong điều
kiện thông thường không thể tiếp xúc được thế giới này. Điều này được lý giải
trong lý thuyết về “Đa thế giới tương tác”…. một số trường hợp đặc thù như
người tu luyện đã cải biến hoàn toàn thân thể thành vật chất không gian khác,
hoặc một người có cơ duyên đặc biệt mới có thể tiến nhập vào không gian khác,
mà câu chuyện Từ Thức lấy vợ tiên là một ví dụ.
Như vậy, trên thực tế truyện cổ tích Sự tích Từ thức cũng đã được giới
nghiên cứu chú ý. Sức hấp dẫn của câu chuyện không chỉ do câu chuyện tình

yêu đẹp của chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương, hay những vẻ đẹp kỳ
thú của thiên nhiên đất nước qua một địa danh cụ thể là hang động Từ Thức ở
xứ Thanh gắn với tín ngưỡng, văn hoá của người Việt, mà còn còn là những vẻ
đẹp tiềm ẩn chưa khám phá hết của câu chuyện.
2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện Từ Thức lấy vợ tiên trong Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ
Về Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, từ trước thế kỷ XX đã nhận được
sự quan tâm, ưu ái của nhiều học giả như: Vũ Khâm Lân trong Bạch Vân Am cư
sĩ phả ký coi Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một “thiên cổ kỳ bút”, Lê
Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục ca ngợi Truyền kỳ mạn lục là “lời lẽ thanh tao,
tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”, Phan Huy Chú khen rằng Truyền kỳ
mạn lục là “áng văn hay của bậc đại gia”.
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, thể loại truyền kỳ càng nhận được nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học. Đặc biệt, tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước chọn


6
làm đối tượng nghiên cứu trong nhiều bài viết, công trình khoa học như: Bùi
Văn Nguyên (1968), Bàn về yếu tố dân gian trong Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ, Tạp chí văn học số 11; Nguyễn Đăng Na (1978), Sự phát triển văn
xuôi Hán – Việt từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX qua một số tác
phẩm tiêu biểu, Luận án tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội; Nguyễn Phạm Hùng
(1987), Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ, Tạp chí văn học số 7; Bùi Duy Tân (2001), Truyền kỳ mạn lục - một thành
tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán, Văn học Việt Nam từ thế kỷ X
đến nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục; Lại Văn Hùng (2002), Bàn thêm về
tác giả, tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, Tạp chí văn học số 10; Nguyễn Đăng Na
(2006), Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ so sánh văn học, Con đường giải mã văn
học trung đại, Nxb Giáo dục; Vũ Thanh (tháng 10, 2006), Đóng góp của Nguyễn

Dữ cho thể loại Truyền kỳ Đông Á, Trang điện tử của Viện văn học; Lê Văn
Hùng (2007), Bước tiến của thể loại truyện ngắn Truyền kỳ Việt Nam qua
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Cao
đẳng sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu; Nguyễn Hữu Sơn (tháng 6, 2009), Tương
đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo trong Truyền kỳ mạn lục,
Trang điện tử trường Đại học khoa học xã hội nhân văn, Khoa Văn học và Ngôn
ngữ; Đoàn Lê Giang (tháng 01, 2010), Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Trang điện tử trường Đại học khoa học xã
hội nhân văn, Khoa Văn học và Ngôn ngữ; Phạm Tuấn Vũ (tháng 12, 2011),
Bàn góp về tiếp thu và đổi mới trong truyền kỳ mạn lục, Trang điện tử Khoa
Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; …
Đặc biệt, ở bài viết: Nguyễn Dữ và Tiên thoại Trung Quốc qua truyện Từ
Thức lấy vợ tiên đăng trên Tạp chí Văn học, số 5, 2000, tác giả Trần Đình Sử đã
nghiên cứu cụ thể truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ trong mối quan hệ
so sánh với Tiên thoại Trung Quốc. Trong bài viết này, tác giả đã chứng minh và
khẳng định: “Tất cả các môtip, chi tiết miêu tả, đồ vật và điển cố nêu trên, dù
chưa chứng thực con đường tiếp thu cụ thể, song đều chứng tỏ khi viết truyện Từ


7
Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ đã tỏ ra hết sức thông thuộc các sự tích tiên thoại
của Trung Quốc”. Đồng thời cho rằng: “Truyện Từ Thức lấy vợ tiên là một sáng
tác mới mang nội dung lịch sử sâu sắc… Có thể nói Từ Thức kết tinh bao nhiêu
hình bóng và tâm sự kẻ sĩ Việt Nam vào thời chính sự thối nát. Từ Thức lấy vợ
tiên có cảm hứng siêu thoát, nhưng chỉ là siêu thoát chính sự, không phải siêu
thoát cuộc đời” [64]. Bài viết này của Trần Đình Sử là một gợi ý tốt để chúng
tôi tiếp cận với đề tài luận văn của mình.
Nhìn chung, qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy những công trình nghiên
cứu, những bài báo, những luận án thạc sĩ, tiến sĩ kể trên mới chủ yếu xem xét,
đánh giá chung sự đóng góp của Truyền kỳ mạn lục đối với sự phát triển của thể

loại, bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam qua Truyền kỳ mạn
lục, ảnh hưởng của văn hóa, văn học dân gian trong và ngoài nước đến tác phẩm
truyền kỳ, hay mối quan hệ của Từ Thức lấy vợ tiên với Tiên thoại Trung Quốc
chứ chưa có bài nghiên cứu cụ thể nào về truyện Từ Thức lấy vợ tiên trong mối
quan hệ kế thừa truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức và sự phát triển thành
truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện.
2.3. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm và truyện thơ Nôm khuyết danh
Từ Thức tân truyện
Truyện thơ Nôm là thể loại tự sự - trữ tình nở rộ và có thành tựu vào thế
kỷ XVII, XVIII ở Việt Nam. Truyện được viết bằng thể thơ lục bát dân tộc. Đây
là một trong những thể loại văn học mang vẻ đẹp bản sắc dân tộc được nhiều
nhà nghiên cứu văn học quan tâm.
Trong Việt Nam văn học sử yếu (1941) – tác giả Dương Quảng Hàm đã
đánh giá truyện thơ Nôm “là tiểu thuyết bằng văn vần”. Sau đó trong vòng hơn
chục năm, từ 1942 đến 1953 đã xuất hiện rất nhiều công trình nghiên cứu khác
như: Việt Nam cổ văn học sử (1942) của Nguyễn Đổng Chi, tác giả đã khái quát
đặc điểm của nhiều thể loại văn học, trong đó đưa ra những nhận xét xác đáng
về thể loại truyện thơ Nôm. Đào Duy Anh, trong cuốn Khảo luận về Kim – Vân
– Kiều (1943) đã chỉ ra sự sáng tạo độc đáo của tác giả Nguyễn Du và sự độc


8
đáo của thể loại truyện thơ Nôm của dân tộc qua việc so sánh tiểu thuyết Kim
Vân Kiều truyện của tác giả Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) và Truyện Kiều
của Nguyễn Du. Tác giả Văn Tân có chuyên luận : Thử tìm ý nghĩa giá trị “Nhị
Độ Mai”, tác giả Nguyễn Bách Khoa có chuyên luận “Nguyễn Du và Truyện
Kiều” (1951), Hoa Bằng có Khảo luận về Truyện Thạch Sanh – tập san, số 16,
năm 1956; tác giả Lê Hoài Nam có bài viết “Phạm Tải - Ngọc Hoa”, một truyện
thơ Nôm khuyết danh có giá trị, Nghiên cứu văn học số 8, 1960; tác giả Ninh
Viết Giao với bài Nguyễn Cảnh và “Truyện Phương Hoa”, Nghiên cứu văn học,

số 11, 1961…
Không chỉ đề cập đến các tác phẩm truyện thơ Nôm cụ thể, các công trình
nghiên cứu của các tác giả ngày càng mở rộng phạm vi nghiên cứu như đề cập
đến các vấn đề chung, vấn đề lịch sử thể loại, vấn đề thi pháp… Cụ thể như tác
giả Đặng Thanh Lê có Nhân vật phụ nữ qua một số truyện thơ Nôm, Tạp chí văn
học, số 1+2, 1968; tác giả Nguyễn Lộc in trên Tạp chí văn học, số 4, 1969 bài
Những vấn đề xã hội trong truyện thơ Nôm bình dân… Càng về sau, các công
trình nghiên cứu tác phẩm truyện thơ Nôm càng được các tác giả quan tâm hơn.
Truyện thơ Nôm còn là đối tượng nghiên cứu không thể thiếu trong các công
trình nghiên cứu văn học sử của tác giả Lê Trí Viễn và Lê Hoài Nam trong cuốn
Lịch sử văn học Việt Nam, (Hà Nội, 1965); hay trong cuốn Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, tập II (Hà Nội, 1978) của tác giả
Nguyễn Lộc. Năm 1979 có chuyên luận Truyện Kiều và thể loại truyện thơ Nôm
của Đặng Thanh Lê; năm 1992 và 1996 tác giả Kiều Thu Hoạch cho ra đời hai
chuyên luận là Truyện thơ Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại và Truyện thơ
Nôm bình dân của người Việt – Lịch sử hình thành và bản chất thể loại; tác giả
Trần Đình Sử với hai công trình nghiên cứu Mấy vấn đề thi pháp văn học Việt
Nam trung đại (1999) và Thi pháp Truyện Kiều (2003); Nguyễn Thị Nhàn
(2009), Thi pháp cốt truyện truyện thơ Nôm và Truyện Kiều, Nxb Đại học sư
phạm, Hà Nội… đã góp phần khẳng định bản chất thể loại của truyện thơ Nôm.


9
Gần đây nhất, trong nhiều luận văn thạc sĩ, nhiều bài viết trên các tạp chí
Văn học nghệ thuật, các tác giả đã cụ thể đi vào nghiên cứu mối quan hệ ảnh
hưởng của truyện thơ Nôm với văn học dân gian, hay ảnh hưởng của truyện thơ
Nôm với truyện truyền kỳ như: Đặc điểm truyện thơ Nôm bình dân qua một số
tác phẩm có nguồn gốc từ văn học dân gian (Luận án thạc sĩ của Bùi Thị Tuyết
Mai, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2015); “Cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở Bích Câu”
từ truyện truyền kỳ đến truyện thơ Nôm (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hoa,

Trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2016); Truyện Nôm Từ Thức dưới góc nhìn
liên văn bản (Bài viết của Nguyễn Hồng Quân, in trong Tạp chí Văn học nghệ
thuật số 408, tháng 6 – 2018), …
Như vậy, trên thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thể loại
truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm, hay là mối quan hệ mang
tính chất kế thừa và phát triển từ thể loại cổ tích đến truyền kỳ, từ thể loại
truyền kỳ đến truyện thơ Nôm, hay ảnh hưởng của thể loại văn học dân gian đến
truyện thơ Nôm. Nhưng chưa có một công trình nghiên cứu nào về mối quan hệ
kế thừa và phát triển từ truyện dân gian đến truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm.
Đây là một trong những nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài: “Từ Thức
lấy vợ tiên” trong truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm làm
đề tài cho luận văn cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam của mình.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu sự kế thừa và biến đổi của
cốt truyện “Từ Thức lấy vợ tiên” trong truyện cổ tích, truyền kỳ và truyện
thơ Nôm được thể hiện trên các phương diện nội dung và nghệ thuật mang tính
đặc trưng của từng thể loại.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Việc tìm hiểu ba tác phẩm nhằm khẳng định những đóng góp về mặt nội
dung, nghệ thuật và tư tưởng của từng thể loại trên cơ sở của ba tác phẩm cùng
chung cốt truyện.


10
- Qua đó góp phần làm rõ hơn những nét độc đáo trong phong cách nghệ
thuật tư tưởng của ba tác phẩm trong thời kỳ văn học Việt Nam trung đại.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau:

- Tìm hiểu những nét cơ bản về nội dung, nghệ thuật, tư tưởng trong ba
tác phẩm cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện
thơ Nôm Từ Thức tân truyện.
- Xác định những giá trị về nội dung, nghệ thuật, tư tưởng của ba tác
phẩm để qua đó thấy được ý nghĩa của chúng đối với văn học Việt Nam thế kỷ
XVI- XVIII.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện thành công luận văn, chúng tôi sử dụng kết hợp những
phương pháp sau:
4.2.1. Phương pháp so sánh - loại hình
Đây là phương pháp quan trọng giúp người viết so sánh, đối chiếu ba tác
phẩm trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật, đồng thời áp dụng những
kiến thức lý luận về đặc trưng thể loại, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ… Từ đó
chúng tôi rút ra được những điểm gặp gỡ, kế thừa và cả những nét riêng không
lặp lại trong phong cách sáng tác và giá trị của ba tác phẩm, chỉ ra dấu ấn của
văn học dân gian qua truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức và những đặc điểm
mới của văn học thành văn trong truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện
thơ Nôm Từ Thức tân truyện.
4.2.2. Phương pháp liên ngành
Đây là phương pháp giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quan trong quá trình
nghiên cứu. Trong đó, chúng tôi sử dụng cơ bản là phương pháp văn hoá học. Vì
vậy, đề tài “Từ Thức lấy vợ tiên” trong truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và
truyện thơ Nôm được đặt trong cái nhìn biến đổi trong tương quan về đặc trưng


11
thể loại, diễn biến nội dung, tư tưởng thời đại từ truyện cổ tích đến truyền kỳ và
truyện thơ Nôm.
4.2.3. Phương pháp nghiên cứu văn học dưới góc độ thi pháp học
Phương pháp này giúp người viết tìm hiểu các vấn đề thi pháp học như:

không - thời gian nghệ thuật, nhân vật, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật… Từ đó
giúp người viết thấy được sự kế thừa và sáng tạo trong nghệ thuật thể hiện từ
truyện cổ tích đến truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm.
Ngoài ra trong luận văn chúng tôi còn sử dụng kết hợp với các phương
pháp khác như: lịch sử, hệ thống và các thao tác nghiên cứu như: phân tích tổng hợp, phân loại…
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1 Phạm vi nội dung
Phạm vi nghiên cứu nội dung các văn bản: khai thác cuộc gặp gỡ và nên
duyên của Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương trong ba văn bản: Truyện cổ tích
Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ và
truyện thơ Nôm khuyết danh Từ Thức tân truyện. Từ việc tìm hiểu ba tác phẩm
này, luận văn tập trung phát hiện những nét độc đáo về văn hóa, lịch sử, ý nghĩa
tư tưởng nhân văn mà các tác giả gửi gắm qua các tác phẩm, sự tương quan kế
thừa và phát huy của mỗi thể loại gắn với mỗi giai đoạn phát triển của văn học.
5.2. Phạm vi tư liệu
Chúng tôi chọn tài liệu tham khảo chính là :
- Văn bản truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức trong Kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam, tác giả Nguyễn Đổng Chi, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
năm 2000.
- Văn bản truyện Từ Thức lấy vợ tiên in trong Cù Hựu - Tiễn đăng tân thoại,
Nguyễn Dữ - Truyền kỳ mạn lục, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, Trần Thị
Băng Thanh giới thiệu và chỉnh lý, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội năm 1999.
- Văn bản truyện thơ Nôm in trong Từ Thức tân truyện, Từ Thức tiên hôn,
Mai Thị Ngọc Chức sưu tầm giới thiệu, Nxb Thanh Hoá năm 1987.


12
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những văn bản, các cuốn sách và các
bài báo có liên quan đến ba tác phẩm để phục vụ quá trình nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn

- Bước đầu nghiên cứu truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện
truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện trong sự so
sánh một cách toàn diện từ thể loại, nội dung đến nghệ thuật để qua đó góp phần
làm rõ quy luật hình thành, phát triển của truyện truyền kỳ, truyện thơ Nôm và
sự tương tác giữa ba thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc.
- Bước đầu phát hiện và lý giải tương quan tam giáo và những sự ảnh
hưởng của chúng trong cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức
lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện để giúp người đọc hiểu rõ hơn
về những nét đẹp văn hóa, văn học, tín ngưỡng của dân tộc tại thời điểm ra đời
của mỗi tác phẩm.
- Đề tài có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo tại nhà trường các cấp cho
giáo viên và tư liệu nghiên cứu cho sinh viên, học viên.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung của sự tích Động Từ Thức, Từ Thức lấy
vợ tiên và Từ Thức tân truyện
Chương 2: Sự kế thừa, biến đổi nội dung tư tưởng và giá trị nhân văn qua
ba tác phẩm.
Chương 3: Sự kế thừa và biến đổi một số phương diện nghệ thuật qua ba
tác phẩm


13
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA SỰ TÍCH ĐỘNG TỪ THỨC, TỪ THỨC
LẤY VỢ TIÊN VÀ TỪ THỨC TÂN TRUYỆN
1.1. Sơ lược về vấn đề thể loại truyện cổ tích thần kỳ và truyện kể địa danh
của Sự tích động Từ Thức

1.1.1. Tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ
Theo cách phân loại của các nhà folklore Việt Nam hiện nay thì thể loại
truyện cổ tích gồm ba tiểu loại: Truyện cổ tích loài vật, Truyện cổ tích thần kỳ
và Truyện cổ tích sinh hoạt.
Truyện cổ tích thần kỳ là một trong ba tiểu loại của truyện cổ tích, mang
những đặc trưng nổi bật của thể loại truyện cổ tích, như: Phản ánh mơ ước,
nguyện vọng, lý tưởng xã hội của nhân dân thông qua chiến thắng tất yếu của
cái thiện, cái đẹp bằng hình thức kỳ ảo.
Truyện cổ tích thần kỳ hấp dẫn người đọc nhờ có sự xuất hiện của lực
lượng thần kỳ (yếu tố kỳ ảo) như: ông bụt, bà tiên, mụ phù thuỷ, con yêu tinh,
những con vật, đồ vật thần kỳ, những phép màu biến hoá... Yếu tố thần kỳ đã
tham gia như một phần không thể thiếu trong cốt truyện, làm cho truyện thêm
hấp dẫn, không có yếu tố này cốt truyện sẽ không phát triển được hoặc phát triển
theo cách khác và tác phẩm sẽ không còn là một câu chuyện cổ tích thần kỳ.
Đồng thời sự xuất hiện của yếu tố thần kỳ đã giúp nhân dân lao động thực hiện
những giấc mơ đẹp, biến những khát vọng, mơ ước của mình thành hiện thực
trong tác phẩm. Yếu tố thần kỳ chính là nét đặc trưng không thể thiếu của truyện
cổ tích thần kỳ, góp phần quan trọng tạo nên một thế giới cổ tích lấp lánh, mang
vẻ đẹp kỳ diệu và sức hấp dẫn kỳ lạ đối với con người.
Truyện cổ tích thần kỳ có đối tượng miêu tả chính là con người. Con
người trong truyện cổ tích thần kỳ thường rơi vào tình trạng bế tắc, bất lực trước
những khó khăn, khi đó lực lượng thần kỳ xuất hiện trợ giúp cho nhân vật vượt
qua những khó khăn và xung đột của truyện sẽ được giải quyết, câu chuyện sẽ


14
được phát triển tiếp tục. Hầu hết các vấn đề được nêu lên trong truyện cổ tích
thần kỳ đều được giải quyết trực tiếp hay gián tiếp bằng lực lượng thần kỳ.
Nội dung phản ánh trong truyện cổ tích thần kỳ thường là phản ánh mâu
thuẫn xã hội ở thời kỳ đã có sự phân hóa giai cấp, phân biệt giàu nghèo bằng

cách thông qua những xung đột, mâu thuẫn của gia đình nhỏ … Đồng thời là sự
phản ánh về số phận của những đứa trẻ mồ côi, người con riêng, người em út và
về những nhân vật bất hạnh - sản phẩm của sự chuyển giao từ chế độ mẫu quyền
sang phụ quyền, từ xã hội chưa có giai cấp đến xã hội giai cấp, …
Kết cấu truyền thống của truyện cổ tích thần kỳ là kết thúc có hậu, cũng
có trường hợp kết thúc không có hậu.Những truyện cổ tích có kết thúc không có
hậu thường xuất hiện ở giai đoạn sau, khi yếu tố thần kỳ đã nhạt dần và yếu tố
hiện thực trong đời sống tăng dần.Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức là một ví
dụ tiêu biểu.
1.1.2. Truyện kể địa danh
Truyện kể địa danh là nhóm những câu chuyện“lấy nguồn gốc tên gọi
của những sự vật tự nhiên hoặc những điểm dân cư làm đối tượng phản ánh rất
phong phú, nhiều vẻ.(…) tạm gọi những truyện kể như vậy là truyện kể địa
danh” [18]. Năm 2000, tác giả Trần Tùng Chinh, trong luận văn thạc sĩ viết về
đề tài: Bước đầu tìm hiểu truyện kể dân gian về các địa danh ở Nam Bộ cũng
cho rằng:“Các truyện kể đi vào giải thích nguồn gốc tên đất, tên làng, tên sông,
tên núi, tên những vị trí địa lý, địa hình của đất (…) là những truyện kể dân gian
về địa danh (…) gọi tắt là truyện kể địa danh” [10]. Gần đây nhất trong luận văn
thạc sĩ với đề tài: Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, tác giả
Nguyễn Thị Mai Quyên cũng đã khẳng định: “Bất cứ câu chuyện dân gian nào
cho ta biết (một cách trực tiếp hay gián tiếp) vì sao ngọn núi, con sông, vùng
đất, thôn làng… ấy có tên gọi như vậy đều có thể coi là truyện kể địa danh. Kết
quả giải thích địa danh phải là căn cư để xác định đối tượng, không thể vì
truyện không lấy việc giải thích địa danh làm mục đích mà gạt bỏ ý nghĩa giải
thích địa danh của chúng” [60]. Như vậy, có thể nói những kết luận được nói


15
đến trong các luận văn nghiên cứu của các tác giả nói trên đã cho ta một cách
hiểu khá đầy đủ về thể loại truyện kể dân gian giải thích tên địa danh.

Sự tích động Từ Thức là một truyện thuộc tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ,
kể về chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương gặp nhau và nên duyên chồng
vợ. Đồng thời Sự tích động Từ Thức cũng lại là một truyện mang dấu ấn của
truyện kể địa danh, khi nội dung của truyện kể về một hang động, nơi Từ Thức
đã sống cùng Giáng Hương quãng thời gian một năm ở Tiên giới bằng 300 năm
ở cõi trần. Truyện hướng tới việc giải thích địa danh hang Từ Thức. Về sau
chính hang động này đã mang tên gọi là động Từ Thức - một địa danh kỳ thú đã
lưu giữ chuyện tình huyền thoại Từ Thức và Giáng Hương.
Do vậy, nghiên cứu về truyện Sự tích động Từ Thức trong dân gian chúng
tôi một mặt quan tâm tới đặc trưng của tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ, mặt khác
cũng chú ý và không bỏ qua nội dung hướng tới việc giải thích địa danh của
truyện.
1.1.3. Truyện Sự tích động Từ Thức
Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức là câu chuyện cổ tích thần kỳ có
nhiều bản kể khác nhau như:
- Tích hang ông Từ Thức, in trong Chuyện người xưa, bản kể của Trương
Vĩnh Ký. Nxb Sài Gòn, xuất bản lần đầu 1886, tái bản 1974 [37].
- Từ Thức, in trong Truyện cổ Việt Nam, bản kể của Vũ Ngọc Phan, Nxb
Văn - sử - địa, Hà Nội, in lần thứ ba năm 1957 [55].
- Từ Thức gặp tiên, in trong Chuyện cổ tích, bản kể của Tô Nguyệt Đình,
Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1963 [15].
- Sự tích động Từ Thức, in trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, bản
kể của Nguyễn Đổng Chi, Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 2000.[8]
- Từ Thức in trong Nam Hải dị nhân liệt truyện, bản kể của Phan Kế
Bính, Nxb Trẻ tái bản năm 2001. [5]
Bản kể Sự tích động Từ Thức của Nguyễn Đổng Chi có thể tóm tắt như
sau: Đời nhà Trần ở châu Ái, có người làm tri huyện Tiên Du, tên là Từ Thức.


16

Cạnh huyện đường, có một ngôi chùa danh tiếng. Trong chùa trồng toàn một
loại cây mẫu đơn, đến kỳ hoa nở, người đến xem đông như hội. Một năm vào kỳ
hội xem hoa, có người con gái xinh đẹp, do không biết lệ chùa, rón tay ngắt một
bông hoa, bị người coi hoa bắt giữ. Động lòng thương, Từ Thức cởi áo ngoài
chuộc lỗi cho người con gái ấy. Tuy làm quan nhưng không thích cuộc sống bị
ràng buộc bởi khuôn phép, nịnh trên, nạt dưới, chỉ thích uống rượu, ngâm thơ,
thích đàn hát và vui thú non sông, Từ Thức bèn trả ấn tín, bá quan rồi về quê sau
đó chu du khắp nơi. Từ Thức vào một hang động, lạc tới cõi tiên ở cửa Thần
Phù. Chàng được bà tiên gả vợ cho. Đó chính là tiên nữ Giáng Hương, người
con gái được chàng cứu trong hội xem hoa ngày ấy và đang cất công đi tìm. Ở
cõi tiên chừng ba năm, Từ Thức nhớ quê nên xin về thăm một chuyến. Giáng
Hương rất buồn nhưng cũng đành phải thuận lòng. Thoắt chốc, Từ đã về đến nhà
nhưng từ ngày chàng lên cõi tiên đã gần 300 năm nên không ai biết chàng cả.
Buồn rầu vô hạn, Từ Thức muốn lên xe mây đi nhưng xe đã biến mất, chàng lại
khăn gói lần mò đến cửa Thần Phù, tìm lại hang cũ dẫn đến động tiên nhưng mịt
mù cây đá kín lối không thể tìm ra được nữa. Chàng bỏ đi, về sau không biết là
đi đâu. Từ đấy người ta gọi hang núi ở chỗ này là động Từ Thức.
Sự tích động Từ Thức có kết cấu hai phần: Từ Thức gặp tiên và bi kịch Từ
Thức. Nhân vật chính là Từ Thức và Giáng Hương, một số nhân vật phụ lướt
qua là hai cô tiên áo xanh, bà tiên áo trắng… Các tình tiết, sự việc về cơ bản đều
phát triển theo trật tự: giới thiệu về Từ Thức, Từ Thức cứu Giáng Hương ở hội
xem hoa, Từ Thức lạc vào động tiên, được bà tiên gả vợ, Từ Thức nhớ nhà trở
lại trần gian, Từ Thức không bao giờ trở lại cõi tiên được nữa. Sự tích động Từ
Thức là loại truyện cổ tích thần kỳ đậm chất kỳ ảo, hoang đường vì người trần
đến được cõi tiên, lấy vợ tiên, sống cùng tiên.
Là một truyện kể dân gian, được lưu truyền từ đời này sang đời khác,
mang đặc trưng cơ bản của tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ, truyện Sự tích động
Từ Thức đồng thời còn mang tính chất là một truyện kể địa danh. Truyện không
chỉ kể về mối lương duyên giữa một bên là người trần thế (Từ Thức) và một bên
là Tiên (Giáng Hương) - đây là một chủ đề về hôn nhân “Người - Tiên” rất phổ



17
biến trong truyện cổ tích thần kỳ - mà truyện còn nhằm giải thích tên một hang
động của xứ Thanh: “Động Từ Thức nằm trong rặng Tam Điệp hùng vĩ trấn giữ
mặt bắc của xứ Thanh. Cấu trúc địa tầng đá vôi đã ban tặng cho khu vực miền
Trung trở ra của Việt Nam rất nhiều hang động kỳ thú: Tam Thanh, Nhị Thanh
của Lạng Sơn, Hương Tích của Hà Tây, Tam Cốc - Bích Động của Ninh Bình,
Phong Nha - Kẻ Bàng của Quảng Bình v.v... và động Từ Thức của xứ Thanh viết
nên một huyền thoại giàu tính triết học nhân sinh, truyện Từ Thức gặp tiên” [
78].
Động Từ Thức ngày nay vẫn còn dấu tích của nàng Giáng Hương, bàn cờ
tiên, suối tiên, kho vàng, kho bạc, cổng trời, v.v... Đến động Từ Thức, đứng
trước cửa hang, phóng tầm mắt bao quát cả một vùng cảnh quan, du khách
không khỏi chạnh lòng ngẫm về câu chuyện cổ. Chính nơi này đây, chàng Từ
Thức đã gặp tiên và câu chuyện tình chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương,
câu chuyện người trần lấy tiên ấy đã trộn lẫn bao vui buồn khắc khoải này vẫn
luôn là một bí ẩn trong tiềm thức muôn đời.
Dãy Tam Điệp giống như con rồng đá hùng vĩ kéo từ tây sang đông, đầu
cất cao hướng ra biển Đông. Thời ấy, biển còn ăn sâu trong đất liền, cửa Thần
Phù nổi tiếng linh thiêng, kỳ thoại:
Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”
(ca dao)
Nguyễn Trãi từng cảm thán bằng thơ khi đứng trước cửa Thần Phù trong
một lần dẫn quân đi thị sát vùng cửa biển rằng:
Nguyên tác: 神符海口 (Thần Phù hải khẩu)
鯨噴浪吼雷南北,
槊擁山連玉後前。
Phiên âm:

Kình phun lãng hống lôi nam bắc,


18
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền.
Dịch nghĩa:
Sóng tung như cá kình, sấm dậy ở phía nam cũng như phía bắc,
Núi liên tiếp như giáo ngọc dựng trước lẫn sau.
Dịch thơ:
Sóng dậy sấm gầm nam lẫn bắc
Núi liền giáo dựng trước cùng sau.
(Dịch thơ: Lê Cao Phan)
“Thần Phù một hải khẩu tại huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá.Theo sách
Đại Nam nhất thống chí, xưa đoàn chiến thuyền của vua Hùng Vương qua đây
bị gió chướng, nhờ một đạo sĩ tên là La Viên dùng phép làm biển lặng giúp vượt
qua. Khi trở về không thấy ân nhân nữa, vua bèn phong cho Người là Áp Lăng
Chân Nhân (vị chân nhân dằn được sóng) và lập đền thờ bên bờ cửa khẩu. Vua
Lê Thánh Tông về sau khi qua cửa Thần Phù cũng đã làm thơ lưu lại”[84].
Trong tưởng tượng của người xưa, động Từ Thức nằm giữa chốn mây trời
hùng vĩ, nếu gặp lúc bình minh thì nơi ấy chính là chốn Bồng Lai, chàng Từ
Thức đến đó như lạc vào cõi tiên. Vì vậy thật dễ hiểu tại sao người xưa đã tưởng
tượng ra nơi đó chính là chốn quần tiên hội ngộ, là hang động thứ sáu trong ba
mươi sáu hang động của Phù Lai.
1.2. Sơ lược về thể loại truyện truyền kỳ và truyện Từ Thức lấy vợ tiên
1.2.1. Sơ lược về thể loại truyện truyền kỳ
Theo tác giả Hoàng Phê, truyện truyền kỳ “có tính chất những truyện kỳ
lạ được lưu truyền lại” [56, tr 1087]. Các tác giả cuốn Giáo trình Văn học trung
đại Việt Nam đã khẳng định “Truyện truyền kỳ Việt Nam vốn có nguồn gốc từ
truyện truyền kỳ Trung Quốc nhưng lại có một quá trình hình thành và phát
triển nội sinh gắn liền với nền văn hoá và văn học dân tộc, đặc biệt là văn hoá,

văn học dân gian và văn xuôi lịch sử. Văn hoá dân tộc như cái nôi nuôi dưỡng
truyện truyền kỳ Việt Nam trong suốt quá trình hình thành, phát triển” [75, tr
189]. Truyện ban đầu được các nhà nho ghi chép lại sau đó nâng lên thành một


19
thể loại văn học bác học. Thể loại truyện này xuất hiện lần đầu ở Việt Nam vào
thế kỷ XIII, nhưng phải sang thế kỷ XVI, với sự có mặt của truyện Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ, thể loại truyền kỳ Việt Nam mới thực sự được khẳng
vị thế và mang một vị trí quan trọng trong văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung
đại, tiếp đến là Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm và Tân truyền kỳ lục của
Phạm Quý Thích. Tuy có nguồn gốc, ảnh hưởng từ truyện truyền kỳ Trung Quốc
đời Đường nhưng truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam vẫn có một quá trình
hình thành và phát triển riêng, mang vẻ đẹp bản sắc văn hoá, văn học dân tộc,
đặc biệt là vẻ đẹp riêng của văn học dân gian và văn tự sự trung đại Việt Nam.
Truyện truyền kỳ là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn
xuôi trung đại Việt Nam “những thành tựu nghệ thuật của thể truyện này đã góp
phần làm nên diện mạo cơ bản của bộ phận văn xuôi tự sự” [75, tr 186]. Truyện
cũng là “một thể loại văn xuôi nghệ thuật độc đáo, kể về những chuyện kỳ lạ
được truyền tụng; nhân vật chủ yếu là người, ma quỷ; chủ đề chính là tình yêu
nam nữ… Một trong những tiêu chí bắt buộc của các tác phẩm thuộc thể loại
này là yếu tố kỳ ảo phải trở thành đối tượng phản ánh của truyện” [75, tr 186].
Thể loại truyện truyền kỳ luôn hấp dẫn độc giả bởi sự có mặt của hai yếu
tố kỳ và thực cùng một thế giới nhân vật rất phong phú, có khi là người, có khi là
ma, quỷ… Để làm nên tính chất kỳ lạ trong truyện truyền kỳ, tiêu chí đầu tiên
không thể thiếu chính là yếu tố kỳ ảo, đây là đối tượng phản ánh chính của
truyện. Cho dù càng về sau này, do những thay đổi của hoàn cảnh lịch sử, xã hội
mà yếu tố kỳ ảo mờ nhạt hơn nhưng không thể mất đi vì nếu thiếu cái kỳ, truyện
dễ trở thành truyện ký và nếu thiếu cái thực truyện không thể vượt thoát khỏi
giới hạn của chí quái.

Chủ đề chính của truyện truyền kỳ là tình yêu nam nữ, ngoài ra cũng thể
hiện tình yêu nước, hay sự quan tâm đến số phận con người,… Đồng thời,
truyền kỳ cũng là một thể loại văn học nghệ thuật có sự kết hợp nhiều thể loại văn
chương: văn xuôi, văn vần, thơ, từ, phú, lục… Với đặc trưng này, nhà nghiên cứu
Trần Đình Sử đã khái quát: “Truyện truyền kỳ dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả


×