Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Nhân vật thông minh trong truyện cổ tích đức và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.96 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM


LĂNG THỊ THẢO

NHÂN VẬT THÔNG MINH TRONG TRUYỆN
CỔ TÍCH ĐỨC VÀ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên, năm 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM


LĂNG THỊ THẢO

NHÂN VẬT THÔNG MINH TRONG TRUYỆN
CỔ TÍCH ĐỨC VÀ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Ôn Thị Mỹ Linh



Thái Nguyên, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Nhân vật thông minh trong truyện cổ tích
Đức và Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực, chưa hề được sử dụng
và công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.

Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn

Lăng Thị Thảo

i


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn
chấn thành nhất tới cô giáo - TS. Ôn Thị Mỹ Linh, người đã trực tiếp, tận tình
hướng dẫn khoa học, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong Ban Giám
hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm - Đại Học Thái
Nguyên đã tạo mọi điều kiện để em hoàn thành khóa học và thực hiện tốt luận
văn tốt nghiệp.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới người thân, bạn bè và
các bạn học viên lớp Văn học Việt Nam K24 đã luôn giúp đỡ, động viên, khích
lệ tôi trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, tháng 04, năm 2018

Tác giả luận văn

Lăng Thị Thảo

ii


MỤC LỤC

Trang bìa phụ
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ...............................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 6
7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................ 6
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ......................................................... 7
1.1. Truyện cổ tích Đức ....................................................................................... 7
1.1.1. Bối cảnh thời đại anh em Grimm .............................................................. 7
1.1.2. Văn hóa dân gian Đức ............................................................................. 11
1.2. Truyện cổ tích Việt Nam ............................................................................ 14
1.2.1. Bối cảnh thời đại Nguyễn Đổng Chi ...................................................... 14
1.2.2. Văn hóa dân gian Việt Nam .................................................................... 17
1.3. Giới thuyết khái niệm Nhân vật thông minh .............................................. 22
1.3.1. Khái niệm Nhân vật thông minh ............................................................. 22

1.3.2. Cơ sở phân loại ........................................................................................ 23
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 26
Chƣơng 2. HỆ THỐNG NHÂN VẬT THÔNG MINH TRONG
TRUYỆN CỔ TÍCH ĐỨC VÀ VIỆT NAM .................................................. 27
2.1. Trong mối quan hệ gia đình........................................................................ 28
iii


2.1.1. Nhân vật người vợ, người mẹ .................................................................. 28
2.1.2. Nhân vật chàng rể .................................................................................... 32
2.2. Trong mối quan hệ xã hội .......................................................................... 33
2.2.1. Nhân vật người hầu ................................................................................. 33
2.2.2. Nhân vật chàng trai .................................................................................. 36
2.2.3. Những kiểu nhân vật thông minh chỉ xuất hiện trong truyện cổ tích
Việt Nam ............................................................................................................ 41
2.2.4. Những kiểu nhân vật thông minh chỉ xuất hiện trong truyện cổ tích Đức ...... 44
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 54
Chƣơng 3. CÁC PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN VÀ SỰ PHẢN ÁNH
CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA QUA KIỂU NHÂN VẬT THÔNG MINH
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH ĐỨC VÀ VIỆT NAM .................................. 55
3.1. Các phương thức biểu hiện sự thông minh của nhân vật ........................... 55
3.1.1. Phương thức đối đáp ................................................................................ 55
3.1.2. Phương thức giải câu đố .......................................................................... 60
3.1.3. Phương thức lập mưu, vượt thử thách ..................................................... 63
3.2. Sự phản ánh các giá trị văn hóa qua truyện cổ tích Đức và Việt Nam ...... 67
3.2.1. Sự phản ánh hiện thực ............................................................................. 67
3.2.2. Sự phản ánh các quy tắc ứng xử và giá trị đạo đức ................................ 70
3.2.3. Sự phản ánh ước mơ và khát vọng của con người .................................. 79
Tiểu kết chương 3……………………………… …………………………….82
KẾT LUẬN....................................................................................................... 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 85

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Truyện cổ tích là một bộ phận phong phú và quan trọng trong kho
tàng văn học dân gian của mỗi dân tộc, nó là di sản tinh thần vô giá của cha ông
để lại. Đằng sau những lời kể giản dị là những cuộc đời, những số phận, những
nhân vật và những bài học quý giá. Nó nảy sinh và phát triển trên cơ sở cuộc
sống muôn hình muôn vẻ của các dân tộc và là một trong những tấm gương
trung thành nhất phản ánh cuộc sống đó. Vậy nên thông qua truyện cổ tích, các
nhà nghiên cứu tìm thấy bóng dáng của tính cách con người dân tộc, những
phong tục, tập quán và dấu vết của những giá trị văn hóa cổ xưa.
Là một thể loại văn học dân gian, truyện cổ tích vừa có tính chất quốc tế,
nhưng đồng thời cũng mang tính dân tộc rất riêng. Theo các nhà nghiên cứu nhận
thấy giữa các dân tộc trên thế giới có nhiều truyện cổ tích giống nhau chẳng những
về chủ đề mà cả về kết cấu, về tình tiết, kiểu nhân vật... Có thể thấy rằng một số
truyện như vậy vốn sản sinh ở một nước nào đó, rồi về sau lại đã di chuyển sang
nước khác trong qúa trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Cũng có thể sự giống
nhau đó được tạo nên từ những nét tương đồng về văn hóa.
Nhân vật trong truyện cổ tích rất phong phú, đa dạng, có nhiều kiểu
nhân vật khác nhau: nhân vật quan lại, nhân vật người dì ghẻ, nhân vật mồ
côi, nhân vật đội lốt, nhân vật phù trợ, nhân vật thông minh… Mỗi kiểu nhân
vật lại được khắc họa bởi những yếu tố khác nhau, mang một ý nghĩa tư tưởng
hoàn toàn khác nhau. Nhân vật thông minh là một trong những kiểu nhân vật
phổ biến trong truyện cổ Đức và cổ tích Việt Nam. Qua nhân vật thông minh,
các tác giả dân gian cho thấy quan niệm của mình về vai trò của trí tuệ trong
cuộc sống và việc đề cao loại trí tuệ nào cho thấy điểm tương đồng và khác

biệt giữa hai nền văn hóa.
1.2. Truyện cổ Đức là một phần của văn học, văn hóa Đức và nó cũng là
đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu văn học, văn hóa trên thế giới
1


trong một thời gian rất dài. Truyện cổ Đức đã in sâu vào tâm hồn trẻ thơ và tâm
trí độc giả nhỏ tuổi, lớn tuổi không chỉ ở Đức mà cả độc giả ở các nước trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Nhiều truyện cổ tích Đức mà hầu hết bất cứ đứa trẻ
nào cũng được biết đến gồm có: Nàng Bạch Tuyết và 7 chú lùn, Cô bé Lọ Lem,
Cô bé chăn ngỗng, Cô bé quàng khăn đỏ, Công chúa ngủ trong rừng... hay
những nhân vật rất thông minh, rất đáng yêu như chú mèo (Chú mèo đi hia),
bảy chú dê con (Chó sói và bảy chú dê con)… Những nhân vật này đã để lại
những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Nghiên cứu về truyện cổ Đức trên
thế giới đã có lịch sử dày dặn và phong phú.
Truyện cổ Đức đã được dịch ở Việt Nam từ năm 1960 với bản dịch
truyện kể Mấy nhạc sĩ thành Bơ Rem (The Bremen Town Musicians) từ tiếng
Pháp của Huỳnh Lý. Đã gần 60 năm kể từ bản dịch đầu tiên được xuất bản, đã
có nhiều bản dịch truyện kể Đức dày dặn, công phu nhưng những công trình
nghiên cứu về truyện cổ Đức ở Việt Nam lại vắng bóng.
1.3. Nghiên cứu truyện cổ Việt Nam đã có bề dày với nhiều thành quả
quan trọng. Tuy nhiên nghiên cứu so sánh truyện cổ Việt Nam với truyện cổ
của quốc gia, dân tộc khác từ góc nhìn thi pháp học và văn hóa học vẫn là một
hướng nghiên cứu tiềm năng.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Nhân vật thông minh
trong truyện cổ tích của Đức và Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Tiếp cận truyện cổ tích từ phương pháp nghiên cứu so sánh loại hình đã
được đặt ra từ lâu trên thế giới. Theo V.M.Girmunxki thì nghiên cứu so sánh
loại hình lịch sử nhằm giải thích sự giống nhau của các hiện tượng có cội

nguồn từ những điều kiện giống nhau của sự phát triển lịch sử. Nhiều công
trình xuất bản ở Việt Nam đã vận dụng phương pháp so sánh loại hình trong
nghiên cứu truyện cổ tích như:
- Nguyễn Bích Hà(1998), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong
truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, NXB Giáo dục.
2


- Nguyễn Thị Huế (1999), Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích
Việt nam, NXB khoa học xã hội.
Đề cập đến kiểu nhân vật thông minh hay trí xảo trong truyện cổ tích
Việt Nam, tác giả Đặng Thị Thu Hà (2008) đã chỉ ra một vài đặc điểm của kiểu
nhân vật này trong bài viết Nhân vật trí xảo trong truyện cổ tích Việt Nam,
đăng trên Thông báo Văn hóa (NXB. KHXH, H, tr. 170 – 185). Trong luận văn
thạc sĩ hoàn thành năm 2011, tác giả Phạm Thị Thu Huyền đã tìm hiểu Kiểu
truyện nhân vật thông minh trong tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt người Việt,
chỉ ra một vài đặc điểm của nhân vật thông minh, từ đó tìm hiểu kết cấu cốt
truyện và vấn đề xây dựng kiểu nhân vật thông minh trong truyện cổ tích sinh
hoạt của người Việt.
Nghiên cứu so sánh truyện cổ tích Việt Nam với truyện cổ tích các quốc
gia, dân tộc khác cũng được chú ý với các đề tài nghiên cứu khoa học, luận
văn, luận án như:
- Park Yeon Kuan (2002), Nghiên cứu so sánh một số típ kể truyện cổ
tích Việt Nam và Hàn Quốc, Luận án TSKH Ngữ văn.
- Nguyễn Thị Bích Thủy (2011), So sánh một số kiểu truyện cổ tích của
các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam đảo ở Việt Nam và Indonesia, Luận văn
thạc sĩ văn học.
Trước bộ sưu tập Kinder-und Hausmaerchen của anh em nhà Grimm,
truyện cổ tích Đức đã từng được sưu tầm và xuất bản. Tuy nhiên, với tính chất
công phu, dày dặn, hệ thống, khoa học, bộ sưu tập của anh em nhà Grimm đã

được coi là đại diện của truyện cổ tích Đức. Kể từ mốc thời gian năm 1812, năm
bộ sưu tập Truyện kể trong nhà và cho trẻ nhỏ được xuất bản lần đầu tiên, truyện
cổ Grimm đã thu hút được sự chú ý của nhiều học giả trên thế giới.
Truyện cổ tích Đức đã được nghiên cứu bởi nhiều trường phái và phương
pháp trên thế giới: lịch sử- địa lý, tâm lý học, nhân học văn hóa, lịch sử- xã hội,
ngôn ngữ và văn học, nữ quyền.

3


Ở Việt Nam, mặc dù truyện cổ tích Đức được dịch từ những năm 1960
với vai trò của dịch giả Huỳnh Lý (Mấy nhạc sĩ thành Bơ Rem) và sau đó là
Hữu Ngọc (Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn), Lương Văn Hồng (Truyện cổ
Grimm)…Tuy nhiên, các bài viết nghiên cứu về truyện cổ tích Đức còn ít ỏi.
Trong các bản dịch của mình, các dịch giả như Huỳnh Lý, Hữu Ngọc, Lương
Hồng đã đưa ra những nhận xét sơ lược về đặc điểm của truyện cổ tích Grimm.
Năm 1985, Đặng Thị Hạnh và Lê Hồng Sâm cũng đề cập tới truyện cổ Grimm
như là một thành tựu quan trọng của văn học Đức thời kì lãng mạn. Năm 2011,
Đào Duy Hiệp đã tìm hiểu về truyện cổ Grimm từ lí thuyết hiện đại trong bài
viết “Nghiên cứu truyện cổ Grimm từ lí thuyết hiện đại (trường hợp Chim Ưng
thần), tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3 năm 2011.
Năm 2014, trong đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên, tác giả Dương
Ngọc Minh đã tìm hiểu, khái quát quá trình dịch truyện cổ Grimm ở Việt Nam;
quá trình tiếp nhận truyện cổ Grimm ở Việt Nam; Từ đó thấy được xu hướng
dịch và xu hướng tiếp nhận truyện cổ Grim ở Việt Nam.
Nghiên cứu truyện cổ tích Đức và truyện cổ tích Việt Nam từ góc nhìn so
sánh văn hóa từng được đề cập đến trong cuốn sách Nhân vật nữ trong truyện
cổ và các mã giá trị xã hội: phân tích so sánh một số truyện cổ Đức và Việt
Nam (Female Characters in Folktales and the Code of Social Values: A
Comparative Analysis of German and Vietnamese Tales (2013), tác giả Ôn Thị

Mỹ Linh đã phần nào đề cập tới quá trình dịch thuật, tiếp nhận cũng như ảnh
hưởng của truyện cổ Grimm ở Việt Nam; so sánh 10 cặp truyện cổ tích Đức và
Việt Nam có sự tương đồng về cốt truyện, từ đó thấy được điểm tương đồng và
khác biệt trong sự phản chiếu các giá trị văn hóa.
Trong cuốn Anh em Grim (Grimm Jacob&Grimm Wilhelm) (2006), tác
giả Lê Nguyên Cẩn đã điểm qua một số bài viết về truyện cổ Grimm. Đây là
công trình nghiên cứu nằm trong bộ sách Tác gia tác phẩm văn học nước ngoài
trong nhà trường, đối tượng độc giả mà nhà nghiên cứu hướng tới có cả học

4


sinh trung học phổ thông với mục tiêu dễ đọc dễ hiểu nên những nhận xét đánh
giá được trích dẫn tương đối sơ sài, chưa có tính hệ thống.
Như vậy vấn đề nhân vật thông minh trong truyện cổ tích của Đức và
truyện cổ tích Việt Nam từ góc nhìn so sánh hầu như chưa được đề cập đến
trong công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khi tiến hành thực hiện đề tài này, mục đích của chúng tôi là khảo sát và
phân tích truyện cổ Đức và truyện cổ tích Việt Nam, chỉ ra các kiểu nhân vật
thông minh, đặc điểm của kiểu nhân vật thông minh với sự tương đồng và khác
biệt; từ đó thấy được những phương diện văn hóa được phản ánh trong truyện cổ
tích của hai dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát, tìm ra những kiểu nhân vật thông minh (nhân vật con người
thông minh) trong truyện cổ Đức và cổ tích Việt Nam.
- Phân tích những đặc điểm của nhân vật thông minh trong truyện cổ
Đức và cổ tích Việt Nam.
- Nhận diện các giá trị văn hóa thông qua các điểm tương đồng và khác

biệt được phản ánh trong truyện cổ tích Đức và Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Về nhân vật thông minh trong truyện cổ tích Đức và Việt Nam xuất hiện
cả nhân vật con người thông minh và con vật thông minh. Trong đề tài này thì
đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là nhân vật con người thông minh, gọi tắt là
nhân vật thông minh trong truyện cổ tích Đức và Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Như đã nói ở trên, truyện cổ tích Đức và Việt Nam đều rất phong phú
với nhiều bộ sưu tập khác nhau. Tuy nhiên, trong luận văn này, chúng tôi lựa
chọn nghiên cứu trên 02 văn bản:
5


- Minh Đức (2014), Truyện cổ Grim, NXB Văn học.
- Nguyễn Đổng Chi (2014), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, NXB Trẻ.
Luận văn sẽ tiến hành khảo sát hệ thống nhân vật thông minh trong truyện
cổ tích Đức và Việt Nam, các phương thức biểu hiện và sự phản ánh các giá trị văn
hóa qua kiểu nhân vật thông minh trong truyện cổ tích Đức và Việt Nam.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh
- loại hình là phương pháp chính, phối hợp với phương pháp nghiên cứu xã hội
- văn hóa; đồng thời sử dụng các thao tác nghiên cứu như khảo sát, thống kê,
đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn
Với việc hệ thống, so sánh, phân tích, đối chiếu đặc điểm và giá trị văn
hóa được phản chiếu thông qua các nhân vật thông minh trong truyện cổ tích
Đức và Việt Nam, luận văn “Nhân vật thông minh trong truyện cổ tích Đức và
Việt Nam” góp thêm một tiếng nói trong nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam từ

góc nhìn so sánh; đồng thời, thấy được vẻ đẹp văn hóa của mỗi dân tộc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục đề tài tham khảo, luận văn của
chúng tôi gồm ba chương :
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Hệ thống nhân vật thông minh trong truyện cổ tích Đức và
Việt Nam
Chương 3: Các phương thức biểu hiện và sự phản ánh các giá trị văn hóa
qua kiểu nhân vật thông minh trong truyện cổ tích Đức và Việt Nam

6


Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Truyện cổ tích Đức
1.1.1. Bối cảnh thời đại anh em Grimm
Truyện cổ tích Grimm là đối tượng nghiên cứu của luận văn trong kho
truyện cổ tích Đức. Luận văn sẽ tập trung đề cập đến bối cảnh mà anh em
Grimm sinh ra, lớn lên và có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng và việc sưu
tầm truyện cổ tích của họ.
Anh em nhà Grimm sinh ra và lớn lên vào khoảng cuối thế kỉ 18 đến
những năm giữa của thế kỉ 19, thời kì nước Đức có nhiều biến động về kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội. Đây cũng được coi là thời kì của nước Đức lãng
mạn và bắt đầu mạnh nha ý thức hệ tư sản. Vào cuối thế kỉ 18, tình hình kinh tế
và xã hội Đức lạc hậu và phát triển chậm chạp. Thời kì này, nước Anh và Pháp
đã trở thành những quốc gia tập trung thì Đức vẫn còn là nước phong kiến cát
cứ gồm 360 công quốc nhỏ bé. Giai cấp tư sản Đức còn quá yếu ớt, bạc nhược.
Bóng dáng của cuộc cách mạng tư sản ở Đức còn mờ mịt. Ăngghen viết: “Đấy

chỉ là một đống thối tha và đang tan rã một cách đáng tởm… Mọi cái đều mục
nát, lung lay, sắp sụp đổ và ngay cả đến một tia hi vọng về sự thay đổi có lợi
cũng không có nữa, thậm chí trong nước cũng không đủ sức quét sạch những
thây ma độc hại của các chế độ đã bị diệt vong” [3, tr. 174]. Ăngghen gọi nước
Đức bấy giờ là sự “cùng khổ Đức” [19, tr. 331].

Năm 1814, Napoleon bị lật

đổ. Các nước thắng trận đã họp ở Viên để chia lại bản đồ Châu Âu. Bấy giờ,
nước Đức nhiều bang còn theo chế độ quân chủ phân chia đẳng cấp từ thời
trung đại. Giai cấp địa chủ quý tộc ở Đức kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản trong nước. Giai cấp tư sản Đức không có tính chất cách mạng như giai
cấp tư sản Pháp. Trong lúc đó, chính giai cấp công nhân Đức đã trưởng thành
và bước lên vũ đài chính trị.
7


Nếu thế kỉ 18 ở Đức được Ăngghen nhận định là “…một đống thối tha
và đang tan ra một cách đáng tởm” thì đến thế kỉ 19, nước Đức đã có những
tiến bộ nhất định mặc dù còn chậm chạp [19, tr 431]. Vào giai đoạn này, nước
Đức với sự chia cắt thành hàng trăm bang, vẫn chưa thực sự là một quốc gia
hoàn toàn thống nhất. Trước khi sự chiếm đóng của Pháp trên các vùng lãnh
thổ của Đức bị phá vỡ vào năm 1814, Napoleon đã nỗ lực thống nhất các bang
này từ con số hàng trăm bang xuống thành ba mươi chín bang. Tuy nhiên, đến
khi Napoleon đã bị đánh bại, nước Đức, mặc dù đã thống nhất về chính trị và
rngôn ngữ, nhưng vẫn chưa có sự kết nối và thống nhất về văn hóa.
Trước khi chủ nghĩa lãng mạn được định hình ở Đức, các học giả đã đặt
ra câu hỏi về cá tính dân tộc và sự thống nhất. Một cuộc vận động về xã hội và
văn học như Sturm und Drang (Cơn bão và Xung kích) diễn ra vào thập niên
60 và 80 của thế kỉ XVIII, kêu gọi hồi sinh ý thức dân tộc thông qua hồi sinh

tinh thần nhân văn của thời kì Phục hưng và trở về với những giá trị của quá
khứ. Carol Lisa Tully, nhà nghiên cứu chuyên sâu về chủ nghĩa lãng mạn đã
tìm thấy mối liên hệ giữa sự phát triển của chủ nghĩa lãng mạn Đức với bối
cảnh lịch sử chia cắt các tiểu bang của Đức. Theo Tully, trong thời kì đầu tiên
của chủ nghĩa lãng mạn Đức, các học giả mong muốn tái thiết lại một bối cảnh
ổn định thống nhất bằng cách tạo ra sự thống nhất văn hóa dân tộc. Nhà
folklore học Giuseppe Cocchiara cho rằng đối tượng được quan tâm của chủ
nghĩa lãng mạn là văn học trung cổ, các bài hát và đặc biệt là truyện cổ - những
phương tiện giúp khẳng định sức mạnh của truyền thống dân tộc. Như vậy, chủ
nghĩa lãng mạn Đức đã được bắt đầu với cuộc vận động của các học giả và
nghệ sĩ nhằm xây dựng một ý thức dân tộc thống nhất thông qua việc phục sinh
truyền thống tốt đẹp của quá khứ. Chủ nghĩa lãng mạn muốn khôi phục tinh
thần dân tộc toàn vẹn đã bị đánh mất bằng cách quay trở lại với các giá trị cổ
xưa và các tín ngưỡng truyền thống. Chủ nghĩa lãng mạn Đức có thể chia ra
làm ba

giai đoạn: Fruhromantik (thời kì manh nha), từ 1797 tới 1802,

8


Hochromantik (thời kì đỉnh cao), tiếp theo tới 1815, và Spatromantik (thời kì
cuối) tiếp theo tới 1830.
Việc sưu tầm truyện cổ tích nổi lên như một trào lưu dựa trên bối cảnh
lịch sử xã hội văn hóa nêu trên. Khởi nguồn cho trào lưu đó là Johann Gottfried
Herder. Herder coi thơ ca dân gian là nơi quy tụ trí tuệ nhân dân và ông coi sự
trở về với thơ ca dân gian là vô cùng cần thiết cho sự phát triển của nền văn học
của quốc gia. Archim von Arnim (1781- 1831) và Clemens Brentano (17781842) đã thể hiện tinh thần dân tộc Herder trong bộ sưu tập ca dao Đức, Des
Knaben Wunderhorn (Chiếc tù và thần kì) (1805). Theo các nhà sưu tầm này
thì ý thức về cá tính dân tộc và bản sắc văn hóa đặc trưng có thể tìm thấy trong

văn học dân gian và mục đích của Von Arnim và Brentano là tạo ra một bộ sưu
tập ca dao của riêng dân tộc mình, chứ không phải của thế giới.
Có thể nói chính tinh thần thời đại đã đưa anh em Grimm đến với con
đường sưu tầm truyện cổ và cống hiến cuộc đời của mình cho việc sưu tầm,
nghiên cứu các thể loại văn hóa dân gian. Nối tiếp cảm hứng dân tộc, tham
vọng khôi phục các giá trị truyền thống của Herder, theo bước chân của Arnim
và Brentano, anh em nhà Grimm đã bắt đầu sưu tầm truyện cổ với mục đích
ban đầu là gửi chúng cho Brentano để Brentano tập hợp và xuất bản. Dù rằng, ý
thức dân tộc này lại được thể hiện ra trong thành quả sưu tầm của Grimm với
màu sắc khác biệt. Nếu Arnim và Brentano dùng trí tưởng tượng của mình để
thay đổi những tư liệu dân gian mà họ thu thập được thì hai anh em Grimm lại
chú trọng sự nguyên gốc và thuần khiết của tư liệu. Sự thuần khiết này gợi nhắc
tới quan niệm của chủ nghĩa lãng mạn về tính chất đơn giản của thơ ca.
Nói về giai đoạn đầu, anh em Grimm bị ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng
lãng mạn, nhưng về sau này họ lại chịu tác động bởi ý thức hệ tư sản. Như nhà
nghiên cứu Regina Bendix từng chỉ ra rằng Lời mở đầu của lần tái bản Truyện
kể trong nhà và cho trẻ nhỏ đã phản ánh tinh thần thay đổi của thập kỉ này, thể
hiện sự chuyển tiếp tư tưởng từ thời Herder, chủ nghĩa lãng mạn với cảm hứng

9


thuần khiết tới quan điểm hoài cổ, bi quan và ý thức giai cấp của những học giả
- những người hi vọng gìn giữ được những vết tích còn lại của giá trị nhân văn
chưa bị xã hội làm tha hóa. Vào đầu thế kỉ 19, tầng lớp tư sản đã phát triển
mạnh về số lượng trong xã hội Đức và thể hiện vai trò ngày càng quan trọng
của mình. Jack Zipes, nhà cổ tích học và Grimm học, đã giải thích thuật ngữ
“tư sản” như là một hệ thống các giá trị, trạng thái tâm lý, và phong cách sống
đặc trưng. Trong hệ giá trị này, gia đình tồn tại, thống nhất bởi các mắt xích
tinh thần, cảm xúc chứ không phải bởi các mối quan hệ cạnh tranh giống như

môi trường xã hội. Anh em nhà Grimm bằng cách nhấn mạnh vào các quy tắc
ứng xử trong gia đình, đã thổi vào kho tàng truyện cổ của mình bầu không khí
tư sản của nước Đức thế kỉ 19.
Sinh ra trong gia đình có sáu người con, Jacob và Wilhelm còn có bốn
người em: Carl Friedrich, Ferdinand Philipp, Ludwig Emil, Charlotte Amelie.
Người cha, người chủ của gia đình - Philipp Wilhelm Grimm là một luật sư có
tài, đầy tham vọng và hào phóng. Mẹ của Jacob và Wilhelm, Dorothea née
Zimmer (1755-1808) là người phụ nữ tận tụy và hi sinh, dành toàn bộ thời gian
cho việc nội trợ và chăm lo gia đình. Lúc đầu, gia đình nhà Grimm sống trong
một ngôi làng nhỏ ở Hanau, đến năm 1791, chuyển tới Steinau, một thị trấn gần
Kassel, nơi ông Philipp được giao chức vụ thẩm phán và một thời gian ngắn
sau đó, ông trở thành một trong những nhân vật lãnh đạo uy tín trong thị trấn. Ở
thời điểm đó, điều kiện của gia đình Grimm khá tốt: một ngôi nhà rộng với
nhiều người hầu. Jacob và Wilhelm đã được dạy học bởi một gia sư tại nhà và
khi họ đến tuổi đi học, ông Philipp đã gửi họ tới học ở một trường phổ thông
của địa phương. Cuộc sống ở thị trấn nhỏ, gần gũi với thiên nhiên, với nông trại
và người nông dân, với những phong tục thôn quê đã có ảnh hưởng quan trọng
tới xu hướng sưu tầm truyện cổ tích của Jacob và Wilhelm.
Năm 1796, gia đình Grimm bất ngờ đối mặt với nỗi đau, mất mát và to
lớn khi người cha Philipp Grimm mất đột ngột vì bệnh viêm phổi. Sau đó, gia

10


đình Grimm phải chuyển ra khỏi ngôi nhà lớn đang sống, đối mặt với cuộc
sống túng thiếu, nghèo khổ cộng thêm sức khỏe của Wilhelm lại không tốt và
những gánh nặng tài chính do phải trang trải học phí. Jacob buộc phải trở thành
trụ cột cho mẹ và năm người em. Ngoài ra không thể không nhắc đến sự giúp
đỡ cả tài chính và tinh thần của người dì Henriette Zimmer, vợ lãnh chúa vùng
Kassel, người đã giúp Jacob và Wilhelm có cơ hội được vào học ở trường trung

học phổ thông Lyzeum, Kassel và khoa luật, đại học Marburg. Mặc dù có tài
năng và học tập chăm chỉ, Jacob và Wilhelm vẫn phải nếm trải thực trạng bất
bình đẳng xã hội ở Lyzeum và đại học Marburg. Hai nhà sưu tập truyện cổ tích
đã chứng kiến chuyện phân biệt đối xử của một số giáo viên đối với học sinh
xuất thân trong gia đình thường dân nghèo. Do vậy, dù hai anh em là hai trong
số những học sinh xuất sắc nhất, họ chỉ có thể bước chân vào giảng đường của
đại học Marburg. Những trải nghiệm cuộc sống đã khiến hai anh em nhà
Grimm đồng cảm hơn với giấc mơ thay đổi mang đậm màu sắc lãng mạn của
tầng lớp dân nghèo, và sau này hướng tới phản ánh những giá trị tư sản trong
truyện cổ họ sưu tầm: có thể thay đổi địa vị xã hội thông qua tình trạng học vấn
và những phẩm chất đạo đức như chăm chỉ, mộ đạo và hết lòng vì gia đình.
Thời đại, gia đình và những yếu tố cá nhân có tác động lớn, là tiền đề để
anh em Grimm tiến hành sưu tầm truyện cổ tích Đức và làm nên tên tuổi của họ
trong nền văn học Đức cũng như trên thế giới.
1.1.2. Văn hóa dân gian Đức
Về văn hóa Đức, nước Đức thế kỷ 19 từ một dân tộc thất trận, lạc hậu đã
làm một cuộc vươn lên thần kỳ bằng ba cuộc cách mạng ngoạn mục nhất trong
lịch sử: công nghiệp, giáo dục và khoa học, để trở thành một người khổng lồ
trong lòng châu Âu, có những cống hiến to lớn cho thế giới.
Nước Đức cũng mở ra cho các dân tộc đi sau một khả năng to lớn là có
thể trở thành một quốc gia công nghiệp hùng cường ngang bằng với Anh mà
con đường tiến lên có thể khác. Sức bật của dân tộc Đức có nền văn hóa cao,
11


sau khi được cởi trói về chính trị, của lòng ái quốc, của những đam mê xem
khoa học, văn hóa là những loại “tôn giáo” thiêng liêng trong đời thường, là
một cuộc hóa thân thần kỳ rất đáng ngưỡng mộ.
Nước Đức có cả những thiên hà tài năng đa dạng trong văn hóa, triết học,
âm nhạc, nhưng cũng có nhiều thiên hà khác trong mọi lĩnh vực khoa học tự

nhiên và tinh thần, toán học, công nghệ, và một thiên hà các “đế chế công
nghiệp” hùng mạnh chưa bao giờ có trong lịch sử.
Đức là nước có nền văn hóa truyền thống lâu đời và phong phú bậc nhất
châu Âu. Đầu tiên phải nói đến “Văn hóa đọc” là điểm đặc trưng của nền văn
hóa Đức. Các hội chợ sách được tổ chức quanh năm, thư viện Đức là nơi tuyệt
vời nhất cho những người cần nghiên cứu. Đây cũng là nơi sản sinh ra nhiều
nhạc sỹ tài năng như Goeth, Beethoven. Các buổi hòa nhạc hay lễ hội âm nhạc
lớn được tổ chức hằng năm. Về lịch sử và nghệ thuật, Đức bảo tồn nhiều di
tích, nhiều bảo tàng nghệ thuật. Thị trường sách của Đức lớn thứ ba trên thế
giới, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc (2014). Hội chợ Sách Frankfurt có vị thế quan
trọng nhất trên thế giới về giao dịch và mua bán quy mô quốc tế, có truyền
thống kéo dài hơn 500 năm. Hội chợ Sách Leipzig cũng duy trì một vị thế quan
trọng tại châu Âu.
Về tôn giáo, từ khi thống nhất vào năm 1871, khoảng 2/3 dân số Đức
theo Tin Lành và 1/3 dân số theo Công giáo, cùng một cộng đồng thiểu số Do
Thái giáo đáng kể. Các giáo phái khác cũng hiện diện tại Đức, song không có
tác động nhiều về văn hóa như ba nhóm trên. Thành phần tôn giáo của Đức
cũng biến đổi dần trong các thập niên sau năm 1945, khi Tây Đức trở nên đa
dạng hơn về tôn giáo do nhập cư còn Đông Đức trở thành quốc gia không tôn
giáo áp đảo do chính sách của nhà nước. Tôn giáo tại Đức tiếp tục đa dạng sau
khi Đức tái thống nhất vào năm 1990, về tổng thể là tính mộ đạo giảm đi nhiều
trên toàn quốc song tín đồ Phúc Âm và Hồi giáo lại tăng lên.

12


Tôn giáo ở mội quốc gia đều có ảnh hưởng nhất định đến mọi mặt của
đất nước đó trong đó có văn học. Trong truyện cổ tích, loại truyện xuất hiện ở
thời kì sớm cũng đã có mầm mống tôn giáo. Truyện cổ tích chuyên chở niềm
tin vào các thế lực như chúa trời, đồng thời tin vào sức mạnh, ma thuật của

những thế lực như yêu ma, quỷ quái. Trong truyện Ba sợi tóc vàng của qủy [20,
tr. 458) thì “Qủy” có sức mạnh lớn lao, có thể biết hết được mọi truyện, có
nhiều phép thuật. Yêu cầu của nhà vua dành cho anh chàng muốn lấy được
công chúa là phải mang được 3 sợi tóc của quỷ về mới gả công chúa. Đây
chính là một thử thách lớn lao dành cho chàng trai. Nhưng nhờ sự dũng cảm, trí
thông minh mà chàng trai đã giành được chiến thắng. Đây cũng chính là sự
chiến thắng thế lực siêu nhiên của con người. Từ những điều nói trên có thể
nhận thấy rằng sự sùng bái giới tự nhiên của nhân dân thể hiện qua truyện cổ
tích là vô cùng phổ biến. Bởi thông qua sự phản ánh sùng bái giới tự nhiên thì
người dân phần nào đó thể hiện được ước mơ, khát vọng mà họ không thực
hiện được trong thực tế. Và cũng qua sự phản ánh này, ở những chi tiết con
người chiến thắng những thế lực siêu nhiên ngày càng khẳng định con người sẽ
là người làm chủ không bị chi phối bởi thế lực siêu nhiên.
Tiếp đến là sự sùng bái vạn vật, cả nhân dân Đức, Việt Nam đều có quan
niệm về vạn vật hữu linh, vạn vật tương giao bởi cuộc sống luôn gắn bó với
thiên nhiên, với muôn loài. Với những rừng núi mênh mông, sông suối dày đặc
và biển cả rộng lớn đã tạo điều kiện thuận lợi cho con người phát triển, các tín
ngưỡng dân gian cũng từ đó mà hình thành. Vì thế khi đọc truyện cổ tích của
Đức thường xuất hiện những cuộc đối thoại rất sinh động. Trong truyện Ông
lão đánh cá và bà vợ [20, tr. 44], thì cuộc trò chuyện giữa nhân vật ông lão với
các con vật mà ông ta cứu được diễn ra rất thú vị và có tình có nghĩa. Sau khi
các con vật được con người cứu giúp thì chúng đều tỏ ra biết ơn. Về sau, con cá
giúp ông già rất nhiều lần. Người và vật qua đó thể hiện sự hiểu biết, cảm
thông chia sẻ với nhau.

13


Truyện cổ Grimm từ lâu rồi đã quen thuộc với trẻ thơ và độc giả nhỏ tuổi
không chỉ ở Đức mà còn lan rộng ra các quốc gia, vùng lãnh thổ khác trên thế

giới trong đó có Việt Nam. Những người có công kiến tạo lại kho tàng cổ tích
Đức chính là của anh em nhà Grimm. Những yếu tố về văn hóa xã hội của nước
Đức đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của họ. Ngoài ra, các yếu tố gia đình
và yếu tố cá nhân cũng có tác động lớn và là tiền đề để anh em Grimm tiến
hành sưu tầm truyện cổ tích Đức.
1.2. Truyện cổ tích Việt Nam
1.2.1. Bối cảnh thời đại Nguyễn Đổng Chi
Nguyễn Đổng Chi là một trong những nhà nghiên cứu tiên phong về văn
học dân gian nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Với sự khảo dị so sánh
rất dày công với kho tàng truyện cổ đồ sộ. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam là
kho tàng mang rõ nét tâm hồn Việt Nam, kết tinh những gì tiêu biểu của tư duy
nghệ thuật tự sự dân gian Việt Nam.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho ở xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh
Hà Tĩnh, ông là con thứ ba của cụ Nguyễn Hiệt Chi. Nguyễn Đổng Chi sinh ra
ở Phan Thiết, nhưng lại lớn lên giữa những ngày sôi động và dồn dập phong
trào cách mạng ở Nghệ Tĩnh. Ảnh hưởng của các phong trào khởi nghĩa Yên
Bái, Xô viết Nghệ Tĩnh, Mặt trận dân chủ thấm sâu trong ông. Khi được theo
người anh lên làm y sĩ ở Buôn Mê Thuột và Kon Tum, Nguyễn Đổng Chi đã có
dịp chứng kiến tấm gương của các tù nhân chính trị bị đày ải nơi đây, và mối
quan hệ giữa hai ông với những người tù nhân chính trị này nảy nở nhanh
chóng. Sau này khi tham gia Mặt trận Việt minh, Nguyên Đổng Chi hăng hái
dấn mình vào mọi hoạt động cách mạng. Những ngày này dường như ở trong
Nguyễn Đổng Chi đã có hai con người cùng gắn bó làm một: con người cách
mạng và con người văn hóa. Say mê, xông xáo, ông dồn hết sức trẻ vào hoạt
động, với niềm mong muốn chân thành xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.

14


Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đổng Chi ra Vinh nhận công tác

văn hóa, tuyên truyền. Ông làm Trợ bút báo Kháng địch (1945), Chủ bút báo
Truyền thanh (1946) rồi Chủ tịch Hội văn hóa cứu quốc Nghệ An (1946).
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các cơ quan ở Hà Nội lần lượt tản cư, Nguyễn
Đổng Chi tình nguyện ở lại gia nhập Đội tự vệ khu Bảy Mẫu và chiến đấu ở các
khu phố chợ Hôm, Nhà máy diêm, chợ Đuổi, Nhà thương Cống Vọng, Trường
bay Bạch Mai [6, tr. 16].
Ông được kết nạp Đảng vào cuối năm 1947, những năm tháng hoạt động
sôi nổi trên đây đã nung nấu trong ông ý muốn cầm bút ghi lại cuộc kháng
chiến của dân tộc, và vào mấy năm sau, khi đã trở về công tác ở vùng xuôi
Nam Đàn, ông bắt tay thực hiện. Vào năm1957, Nguyễn Đổng Chi cho ra đời
cuốn Gặp lại một người bạn nhỏ. Viết về đề tài Hà Nội kháng chiến trong một
khoảng thời gian rất ngắn và diễn ra mãnh liệt trong những ngày cuối năm
1946 đầu năm 1947. Nguyễn Đổng Chi đã dùng thể truyện ký, nhằm giữ được
đến mức tối đa chất liệu thực vô cùng quý của mảng sống mà ông từng chứng
kiến, nắm bắt. Ông không muốn uốn nắn, đẽo gọt, làm mất đi cái hồn của nó là
bản sắc lịch sử. Và tất cả những yếu tố đáng kể ấy, hợp lại, đã giúp người viết
tạo thành một bức tranh chính xác, như được đẽo bằng những nhát rìu sắc mà
thô, về hình ảnh của một Hà Nội anh hùng, đã sống, đã chiến đấu, đã dũng cảm
hy sinh, trong những ngày một đi không trở lại. Nhưng thực ra, không phải Gặp
lại một người bạn nhỏ là cuốn sách chững chạc đầu tiên của Nguyễn Đổng Chi
về văn nghệ. Từ những năm 1934 đến 1935, khi đang làm phóng viên cho các
tờ báo Thanh Nghệ Tĩnh tuần báo, Tiểu thuyết thứ hai, Bạn trẻ, ông đã có dịp
thử thách năng khiếu sáng tác của mình. Cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội Yêu đời
(1935), gồm hai truyện vừa của ông đã được giải thưởng của báo Tiểu thuyết
thứ hai. Đặc biệt, trong phong trào Mặt trận dân chủ, ông đã để lại được một
tập văn xuất sắc. Đó là tập phóng sự Túp lều nát gồm 13 chương phơi bày

15



không chút thương xót bộ mặt đểu cáng, quỷ quyệt, những thủ đoạn cướp bóc
tinh vi cũng như hèn hạ của bọn tổng lý, cường hào. Nguyễn Đổng Chi còn là
một trong những tác giả chính các cuốn Nguyễn Trãi, nhà văn học và chính trị
thiên tài (1957), Thời đại Hùng Vương (1973), Nông thôn Việt Nam trong lịch
sử, 2 tập (1977 - 1978),...
Có sự say mê văn hoá dân gian từ những ngày còn rất trẻ trong đó có
tình cảm gắn bó với đời sống nông dân, với tâm hồn dân tộc, Nguyễn Đổng Chi
đã viết lại Hát giặm Nghệ Tĩnh (3 tập, trong đó có một tập là chuyên luận, và
hai tập là sưu tầm), chủ biên Vè Nghệ Tĩnh (2 tập), Viết Ca dao Nghệ Tĩnh,
Văn học dân gian sưu tầm ở Ích Hậu, (4 tập, 1962 - 1969, chưa in) [6, tr. 29].
Đặc biệt 2 công trình nghiên cứu được nhiều người biết tiếng cũng khẳng
định uy tín nổi bật của ông trong nghiên cứu văn hoá dân gian, là Lược khảo về
thần thoại Việt Nam và bộ sách 5 tập Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam.
Nguyễn Đổng Chi đã tham khảo các trường phái thần thoại học châu Âu cũng
như châu Á, nhưng ông không bắt chước họ một cách máy móc. Tuy vậy, đọc
ông sẽ thấy ông đã khéo dẫn dắt để thần thoại Việt Nam được nhìn nhận như
một hệ thống, tuy đã vỡ đi và chỉ là những mảnh còn sót lại nhưng vẫn mang
bóng dáng của một hệ thống có bản sắc, trong quan hệ giao thoa phức hợp với
các hệ thống thần thoại láng giềng, với thần thoại các dân tộc anh em. Bộ sách
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam cũng được xây dựng trên một nguyên tắc gần
giống với cuốn Lược khảo về thần thoại Việt Nam . Nguyễn Đổng Chi rất tâm
đắc với anh em Grimm người Đức trong khi xây dựng hệ thống truyện cổ. Ông
không hề sa vào quan điểm máy móc, đôi khi hiện đại hóa một cách lộ liễu,
như vẫn thường thấy trong một số bộ cổ tích xuất bản những năm sáu mươi trở
về trước. Và hơn hai trăm truyện cổ mà ông tìm tòi, xây dựng, sàng đi lọc lại,
với một phong cách ngôn ngữ riêng, giản dị, truyền cảm, với sự khảo dị so sánh
rất dày công với kho tàng truyện cổ đồ sộ trên thế giới. Cuốn sách là kho tàng
mang rõ nét tâm hồn Việt Nam, kết tinh những gì tiêu biểu của tư duy nghệ
16



thuật tự sự dân gian Việt Nam, qua phong cách kể chuyện truyền cảm, sinh
động, dí dỏm.
Sau 1975, ông từng là Trưởng ban Hán Nôm (tiền thân của Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, 1978), rồi Quyền Viện trrưởng Viện nghiên cứu Hán Nôm, cho
đến 1981 thì xin chuyển sang làm chuyên viên nghiên cứu của Ban Văn hóa
dân gian (tiền thân của Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian). Chỉ trong hai năm
1982 - 1983, sau nhiều chuyến đi khảo sát thực địa giữa gió Lào và nắng gắt,
bộ sách Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh dày hơn 900 trang đã hoàn thành
với sự phong phú về tài liệu. Ông còn hoàn thành phần lớn bộ Từ điển thuật
ngữ văn hóa dân gian mà ông được Viện Văn hóa dân gian tín nhiệm giao
trọng trách chủ biên.
Rõ ràng sức làm việc dẻo dai không biết mệt và sự say mê tìm tòi phát
hiện đã đưa Nguyễn Đổng Chi lên vị trí một nhà nghiên cứu khoa học xã hội có
uy tín và một trong những nhà folklore học bậc nhất của nước ta.
1.2.2. Văn hóa dân gian Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có một nền văn hóa phong phú và đa dạng.
Nền văn hóa đó được gộp bởi 54 dân tộc anh em trên khắp cả nước. Trải qua
bao thế kỷ, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã gắn bó, đoàn kết đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành độc lập tự do và xây dựng đất
nước. Mỗi dân tộc trong 54 dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự
thống nhất và đa dạng của văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa của các dân tộc
được thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, văn hóa vật thể và phi vật thể của
cộng đồng tộc người. Một trong những đặc trưng chung tạo nên phẩm chất con
người và văn hóa Việt Nam là lòng yêu nước, đức tính cần cù, chịu thương,
chịu khó, sáng tạo trong lao động sản xuất, gắn bó, hòa đồng với thiên nhiên,
cộng đồng làng xóm và đức tính nhân hậu, vị tha của mỗi con người. Điều đó
đã được cộng đồng bạn bè trên khắp thế giới công nhận.

17



Về tôn giáo, trong quá trình giao lưu văn hóa, nhân dân ta tiếp nhận
nhiều tôn giáo, tư tưởng triết học khác nhau, đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Ở
Việt Nam không những không có chiến tranh tôn giáo mà ngược lại, mọi tôn
giáo (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo...) đều được tiếp nhận
[59, tr. 24.]. Bởi vậy, nội dung văn học ảnh hưởng tôn giáo không thuần nhất,
đôi khi mang nhiều yếu tố: khi thì mang yếu tố của tôn giáo này, lúc lại chứa
yếu tố của tôn giáo khác. Là một phần trong đời sống tinh thần của nhân dân,
tín ngưỡng, tôn giáo đi vào truyện kể dân gian như một lẽ tự nhiên. Truyện cổ
tích là nơi lưu giữ, ẩn chứa những yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng dân gian.
Tín ngưỡng về Luân Hồi và Nhân quả có sẵn trong tư tưởng người Việt
Nam từ thời thượng cổ. Điều đó càng rõ rệt hơn khi Ðạo Phật được truyền sang
Việt Nam. Người ta tin rằng kẻ làm lành sẽ gặp lành, làm ác sẽ gặp ác. Hành
động của con người quá ác có thể làm cho họ đầu thai thành thú vật. Luật luân
hồi và nhân quả liên hệ nhau như sợi dây xích, chi phối vận mệnh con người ở
cõi trần cũng như ở cõi vô hình sau khi chết (truyện Kéo cày trả nợ, Sinh con
rồi mới sinh cha, Con muỗi, Ở hiền gặp lành, Cây cân thủy ngân...) Ở đây
thuyết luân hồi của đạo Phật đã trở thành chỗ dựa và phương tiện nghệ thuật,
giúp cho tác giả dân gian thực hiện ước mơ công bằng xã hội và liên tưởng
thẩm mỹ của mình một cách thuận lợi trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng
tượng sáng tạo. Trong truyện cổ tích, nhân vật Tiên, Bụt xuất hiện khá nhiều.
Có thể nói trong những khái niệm vốn có của nhà Phật, dân gian chỉ giữ lại một
điều đơn giản nhưng có ý nghĩa nhất: Bụt có sức mạnh vô biên, thần thông
quảng đại, thường xuyên giúp đỡ những người hiền lành. Vai trò của Bụt là vai
trò của yếu tố thần kỳ, một thủ pháp nghệ thuật quan trọng và quen thuộc của
truyện cổ tích trong việc giải quyết số phận nhân vật và sự phát triển của cốt
truyện. Bụt xuất hiện nhiều nhưng không phải để tuyên truyền giáo lý mà chỉ
tạo điều kiện cho nhân vật giành lại hạnh phúc ngay trong cõi trần, ngay trong
chính cuộc đời. Như thế, biểu hiện của Phật giáo trong truyện cổ tích là biểu


18


hiện có ích cho nghệ thuật xây dựng truyện, là một trong nhiều cách để chuyện
kết thúc có hậu. Những cảm quan khát vọng của con người trước lẽ sống ít
nhiều mang tinh thần màu sắc Phật giáo (Sự tích cái chân sau con chó, Sự tích
cá he, Sự tích cây huyết dụ...).
Tư tưởng của Nho giáo cũng len lỏi vào từng truyện cổ tích. Con người
và vạn vật cũng như quỷ thần có sự liên hệ với nhau. Mỗi hành động của con
người đều có sự đồng thanh tương ứng. Một tư tưởng kiêu căng tự cao hay một
lời bất kính của con người đối với quỷ thần thì chư vị khuất mặt này đều biết
hết. Tính tình và tư tưởng của con người sẽ quyết định sự thành công hay thất
bại; như vậy, số mệng do Trời mà cũng do ta nữa (Người học trò và con chó
đá). Vì sự tương ứng đó nên con người trọng quỷ thần, chỉ trọng chứ không
thờ, vì những vị này là những nhân vật ở cõi vô hình cũng có những tánh tầm
thường như con người vậy. Ngoài việc trọng quỉ thần, người Việt nam thời xưa
còn nhớ ơn tổ tiên, vì tin tưởng rằng linh hồn ông bà, tổ tiên còn phảng phất
xung quanh để giúp đỡ con cháu. Những bậc anh hùng dân tộc cũng được dân
chúng thờ kính và thần thánh hóa lên (Phù Ðổng Thiên Vương). Mặc dù con
người bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên, nhưng người ta tin rằng con
người cũng có những người có khả năng siêu việt. Từ thuở xưa, người Việt
nam đã có ý thức về năng lực của con người cũng như của muôn loài (Con Cóc
là Cậu Ông Trời, Cường bạo đánh Thiên Lôi). Một số tác phẩm chịu ảnh
hưởng của tư tưởng nho giáo như truyện Lưu Bình Dương Lễ (đề cao tình bằng
hữu trong Ngũ Luân), Trầu Cau (tình vợ chồng anh em).
Về Đạo giáo, đó là một trong ba tôn giáo có ảnh hướng lớn ở Việt Nam.
Từ khi du nhập vào Việt Nam, Đạo giáo nhanh chóng có vị trí trong đời sống
tâm linh người Việt Nam. Truyện cổ tích có yếu tố của Đạo giáo là những
truyện liên quan tới việc tu tiên, lạc vào động tiên, cõi tiên, lấy tiên...Thế giới

thần tiên trong truyện cổ tích là thể giới bất tử, một năm cõi tiên có thể bằng
trăm năm cõi trần. Thế giới đó được xây dựng không hẳn chỉ xuất hiện từ quan

19


×