Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Khảo sát rối loạn số lượng nhiễm sắc thể ở phôi 5 ngày tuổi thụ tinh trong ống nghiệm​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.36 MB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

Phùng Thị Mùi

KHẢO SÁT RỐI LOẠN SỐ LƯỢNG NHIỄM SẮC THỂ Ở
PHÔI 5 NGÀY TUỔI THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

Phùng Thị Mùi

KHẢO SÁT RỐI LOẠN SỐ LƯỢNG NHIỄM SẮC THỂ Ở
PHÔI 5 NGÀY TUỔI THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM

Chuyên ngành: Di truyền học
Mã số:

842010121

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Vân
TS. Nguyễn Thanh Tùng



Hà Nội – Năm 2018




LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã may mắn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
quý báu cả về vật chất, tinh thần của các thầy cô, bạn bè.
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị
Hồng Vân (ĐHKHTN - ĐHQGHN) và TS. Nguyễn Thanh Tùng (Học Viện Quân
Y), người đã trực tiếp hướng dẫn và nhiệt tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu. Đồng thời tôi cũng gửi lời cám ơn chân thành tới các cán bộ thuộc
Trung tâm Hỗ trợ sinh sản của Bệnh viện Tâm Anh, Bệnh viện Nam Học và Hiếm
muộn Hà Nội và Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội – Học viện Quân Y đã giúp tôi
sinh thiết và phân loại các mẫu phôi bào sử dụng trong nghiên cứu này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới BS. Đặng Tiến Trường (Học
viện Quân Y) người luôn tận tình hướng dẫn tôi về kinh nghiệm làm việc và tạo điều
kiện thuận lợi cũng như động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian học tập,
và nghiên cứu tại phòng ADN – Bộ môn Giải Phẫu, Học viện Quân Y.
Tôi muốn gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo của bộ môn Di truyền học, Khoa
Sinh học, Trường ĐHKHTN đã tạo điều kiện thuận lợi và động viên tôi trong quá
trình học tập tại Bộ môn. Qua đây, tôi cũng xin cám ơn Bộ môn Giải Phẫu Học viện
Quân Y đã tạo điều kiện thuận lợi về trang thiết bị và cơ sở vật chất cho tôi trong quá
trình học tập và thực hiện luận văn tại phòng thí nghiệm ADN.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cám ơn chân thành tới gia đình, người thân, bạn
bè và các em sinh viên, những đã luôn ở bên cổ vũ và động viên tôi vượt qua mọi khó
khăn trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 11 năm 2018
Học viên

Phùng Thị Mùi

i



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
a-CGH

Nghĩa tiếng Anh
Array Comparative Genomic
Hybridization

Lai so sánh hệ gen

ADN

Deoxyribonucleic acid

Axit deoxyribonucleic

ARN

Ribonucleic acid

Axit ribonucleic

Bp


Base pair

Cặp bazơ nitơ
Bất thường số lượng nhiễm sắc

BT SLNST
dNTP
FISH

thể
Deoxyribonucleotide
triphosphate
Fluorescence in Situ
Hybridization

GTT

Deoxyribonucleotit triphosphat
Lai huỳnh quang tại chỗ
Giải trình tự

IVF

In Vitro Fertilization

Thụ tinh trong ống nghiệm

Mbp

Megabase pair


Triệu cặp bazơ nitơ

NGS

Next Generation Sequencing

Giải trình tự gen thế hệ thứ hai

NST
PCR
PGS

Nhiễm sắc thể
Polymerase Chain Reaction

Phản ứng chuỗi polymerase

Preimplantation Genetic

Sàng lọc di truyền trước chuyển

Screening

phôi

TTTON
WGA




Nghĩa tiếng Việt

Thụ tinh trong ống nghiệm
Whole Genome Amplification

Khuếch đại toàn bộ hệ gen


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ................................................................................... 3
1.1.

Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) .................................................... 3

1.2.

Sự phát triển của phôi trước khi làm tổ .................................................. 3

1.2.1.

Phôi giai đoạn tiền nhân ......................................................................... 3

1.2.2.

Phôi ở giai đoạn phân chia (2-3 ngày sau thụ tinh) ................................ 4

1.2.3.


Phôi dâu .................................................................................................. 4

1.2.4.

Phôi nang ................................................................................................ 5

1.3.

Bất thường số lượng NST và cơ chế hình thành .................................... 6

1.3.1.

Cơ chế phát sinh bất thường số lượng NST ........................................... 6

1.3.2.

Phân loại các dạng bất thường số lượng NST ...................................... 10

1.3.3.

Các bất thường số lượng NST trong giai đoạn phôi............................. 10

1.3.4.

Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể ở phôi và noãn ........................................ 13

1.4.

Các yếu tố ảnh hưởng tới bất thường NST trong TTTON ................... 15


1.5.

Các phương pháp phân tích NST của phôi........................................... 18

1.5.1.

Phương pháp lai huỳnh quang tại chỗ - FISH ...................................... 18

1.5.2.

Phương pháp lai so sánh hệ gen (a-CGH) ............................................ 20

1.5.3.

Phương pháp sàng lọc di truyền truyền trước chuyển phôi sử dụng giải
trình tự gen thế hệ thứ hai NGS. .......................................................... 23

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 27
2.1.

Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 27

2.2.

Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 27

2.2.1.

Thiết kế nghiên cứu .............................................................................. 27


2.2.2.

Cỡ mẫu nghiên cứu .............................................................................. 27

2.2.3.

Hóa chất sử dụng trong nghiên cứu...................................................... 28

2.2.4.

Thiết bị sử dụng trong nghiên cứu ....................................................... 29

2.2.5.

Sinh thiết phôi bào và rửa phôi bào...................................................... 30

iii



2.2.6.

Khuếch đại toàn bộ hệ gen ................................................................... 31

2.2.7.

Kiểm tra nồng độ ADN sau quá trình khuếch đại toàn bộ hệ gen........ 33

2.2.8.


Chuẩn bị thư viện ................................................................................. 33

2.2.9.

Giải trình tự .......................................................................................... 35

2.2.10. Phương pháp phân tích số liệu ............................................................. 35
2.3.

Các chỉ tiêu nghiên cứu ........................................................................ 39

2.4.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................................................ 40

2.5.

Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu. ....................................................... 40

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ........................................................ 41
3.1.

Kết quả phân tích sự rối loạn nhiễm sắc thể ở phôi 5 ngày tuổi thụ tinh
trong ống nghiệm (TTTON) bằng kỹ thuật giải trình tự gen thế hệ thứ
hai – Next generation sequencing (NGS) ..............................................41

3.2.

Đánh giá mối tương quan giữa rối loạn số lượng nhiễm sắc thể của phôi
5 ngày tuổi thụ tinh trong ống nghiệm và yếu tố tuổi người mẹ ...........52


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................... 61
Kết luận ............................................................................................................. 61
Kiến nghị ........................................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 61




DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1 Sự phát triển của hợp tử từ giai đoạn 2 phôi bào đến giai đoạn phôi nang ... 6
Hình 2 Cơ chế của sự không phân ly hình thành các dạng lệch bội ........................ 8
Hình 3 Cơ chế hình thành thể khảm theo Delhanty ................................................. 9
Hình 4 Sơ đồ giải thích nguyên lý cơ bản của kỹ thuật FISH ................................ 19
Hình 5 Sơ đồ minh họa các bước cơ bản trong kỹ thuật array CGH ..................... 22
Hình 6 Giới thiệu về công nghệ giải trình tự gen thế hệ thứ hai của hãng Illumina ........ 24
Hình 7 Kết quả khuếch đại toàn bộ hệ gen của 603 mẫu nghiên cứu .................... 41
Hình 8 Chất lượng dữ liệu giải trình tự trên máy Miseq ........................................ 42
Hình 9 Kết quả kiểm định Binomial test về tỷ lệ bất thường NST ở phôi 5 ngày tuổi
TTTON ..................................................................................................... 43
Hình 10 Mức độ lệch bội NST của phôi TTTON 5 ngày tuổi ............................... 48
Hình 11 Phôi TTTON 5 ngày tuổi không phát hiện bất thường NST .................... 49
Hình 12 Phôi TTTON 5 ngày tuổi phát hiện lệch bội ở 1 NST ............................. 49
Hình 13 Phôi TTTON 5 ngày tuổi phát hiện lệch bội ở 2 NST ............................. 50
Hình 14 Phôi TTTON 5 ngày tuổi phát hiện lệch bội ở 3 NST ............................. 50
Hình 15 Phôi TTTON 5 ngày tuổi phát hiện lệch bội ở nhiều NST ...................... 50
Hình 16 Phôi TTTON 5 ngày tuổi phát hiện bất thường cấu trúc NST ................. 51
Hình 17 Tần suất bất thường cấu trúc NST của 578 mẫu phôi TTTON ................ 52
Hình 18 Mối tương quan giữa tuổi mẹ và tỷ lệ bất thường số lượng NST ............ 56
Hình 19 Đường hồi quy tuyến tính thể hiện mối tương quan giữa tuổi mẹ và tỷ lệ bất

thường số lượng NST ............................................................................... 57
Hình 20 Đặc điểm rối loạn số lượng NST phân bố theo độ tuổi của người mẹ ..... 59

v



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1 Kết quả sàng lọc phôi sử dụng kỹ thuật CGH của E. Fragouli và D. Wells 11
Bảng 2 Tần suất bất thường NST phát hiện ở phôi 5 ngày tuổi sử dụng kỹ thuật CGH
theo nghiên cứu của E. Fragouli D. Wells ................................................ 12
Bảng 3 Hóa chất sử dụng trong nghiên cứu ............................................................ 29
Bảng 4 Thiết bị sử dụng trong nghiên cứu .............................................................. 30
Bảng 5 Thành phần phản ứng ly giải tế bào ............................................................ 32
Bảng 6 Thành phần phản ứng tiền khuếch đại toàn bộ hệ gen ................................ 32
Bảng 7 Thành phần phản ứng khuếch đại toàn bộ hệ gen ....................................... 32
Bảng 8 Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể của 578 mẫu nghiên cứu ........................... 43
Bảng 9 Đặc điểm bất thường của phôi 5 ngày tuổi TTTON ................................... 44
Bảng 10 Tỷ lệ rối loạn số lượng nhiễm sắc thể của phôi 5 ngày tuổi TTTON ....... 45
Bảng 11 Đặc điểm rối loạn cấu trúc nhiễm sắc thể ở phôi TTTON 5 ngày tuổi ..... 51
Bảng 12 Sự phân bố số lượng phôi ngày 5 trong TTTON theo độ tuổi của người mẹ
.................................................................................................................. 53
Bảng 13 Kết quả phân tích 578 phôi phân chia theo độ tuổi của người mẹ ............ 54
Bảng 14 Đặc điểm bất thường NST phân chia theo độ tuổi của người mẹ ............. 58




ĐẶT VẤN ĐỀ
PGS (Preimplantation genetic screening) - sàng lọc di truyền trước chuyển phôi,

là một kỹ thuật di truyền được thực hiện trên phôi trong các quy trình thụ tinh trong
ống nghiệm (TTTON – In Vitro Fertilization). Kỹ thuật này giúp phát hiện và sàng
lọc để lựa chọn các phôi bình thường về mặt di truyền giúp làm tăng cơ hội thụ thai
và sinh ra các trẻ bình thường.
Tất cả phụ nữ đều có nguy cơ tạo ra phôi bất thường nhiễm sắc thể (NST). Đặc
biệt khi phụ nữ trì hoãn việc sinh con cho tới khi ngoài 30 tuổi, xác suất cho phôi bất
thường nhiễm sắc thể tăng lên đáng kể, bất kể số lượng phôi được tạo ra, dẫn tới làm
tăng tỷ lệ thất bại trong TTTON sau khi chuyển phôi [7].
Trước những thách thức và cơ hội mang lại, có rất nhiều kỹ thuật PGS ra đời.
Đầu tiên phải kể đến kỹ thuật FISH - fluorescence in situ hybridization, đây là kỹ
thuật rất phổ biến với việc sử dụng các đầu dò (probe) có gắn huỳnh quang gắn với
một số vị trí trên một vài nhiễm sắc thể. Do số lượng màu huỳnh quang hạn chế, FISH
chỉ sàng lọc được một vài nhiễm sắc thể trong một lần thực hiện. Tuy nhiên, tình
trạng lệch bội (aneuploidy) có thể xảy ra ở bất kỳ nhiễm sắc thể nào với tỷ lệ xấp xỉ
nhau [16, 20, 72]. Do đó, FISH không phải là một kỹ thuật toàn diện để lựa chọn các
phôi tốt nhất cho việc chuyển.
Trong số các công nghệ PGS tiên tiến khác, việc kỹ thuật lai so sánh hệ gen
(array CGH - Comparative Genomic Hybridization) là công nghệ đầu tiên có thể kiểm
tra toàn bộ 24 nhiễm sắc thể người (nhiễm sắc thể bình thường, X và Y) [18, 20].
Cách đây vài năm, a-CGH đã phổ biến và trở thành tiêu chuẩn vàng cho PGS trên
toàn thế giới.
Ngày nay, sự phát triển của công nghệ giải trình tự (GTT) gen thế hệ thứ hai
(NGS- Next Generation Sequencing) và ứng dụng của chúng có thể mang lại những
giải pháp hữu hiệu. Thừa hưởng những tính năng của a-CGH, NGS có các tính năng
vượt trội hơn trong việc sàng lọc bất thường số lượng NST của phôi với độ phân giải

1




và độ chính xác cao cũng như cung cấp thêm thông tin cho các phân tích sâu hơn về
gene liên quan tới các hội chứng hoặc bệnh. Bên cạnh đó, có thể phân tích cùng lúc
nhiều mẫu trong một lần chạy giúp giảm chi phí cho người bệnh. Đáng chú ý là theo
hai nghiên cứu của Yang và cộng sự năm 2012 và 2015, cho thấy nếu sử dụng phương
pháp đánh giá hình thái kết hợp với kỹ thuật giải trình tự gen để đánh giá và lựa chọn
phôi sẽ làm tăng tỷ lệ thành công của TTTON lên 74,7% và cao hơn nhiều so với các
phương pháp khác [73, 74].
Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu: “Khảo sát rối loạn số lượng nhiễm
sắc thể ở phôi 5 ngày tuổi thụ tinh trong ống nghiệm” với mục tiêu:
• Xác định tỷ lệ rối loạn số lượng nhiễm sắc thể của phôi thụ tinh
trong ống nghiệm 5 ngày tuổi bằng kỹ thuật PGS-NGS.
• Đánh giá mối tương quan giữa rối loạn số lượng nhiễm sắc thể của
phôi thụ tinh trong ống nghiệm 5 ngày tuổi và yếu tố tuổi người mẹ.
Nghiên cứu này nằm trong đề tài “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ
tiên tiến phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng” mã số KC.10.09/16-20
được thực hiện tại Phòng phân tích ADN – Bộ môn Giải phẫu – Học viện Quân Y.




CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1.

Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON)
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART - assisted reproductive technology) theo Trung

tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ - CDC(Centers for Disease Control
and Prevention) được định nghĩa là tổ hợp các công cụ giúp điều trị sinh sản bằng
cách can thiệp vào noãn và tinh trùng của người. Các thủ thuật hỗ trợ sinh sản nói
chung liên quan đến phẫu thuật lấy noãn từ buồng trứng của phụ nữ, kết hợp chúng

với tinh trùng trong phòng thí nghiệm và đưa chúng trở lại cơ thể của người phụ nữ
hoặc tặng chúng cho người phụ nữ khác.
Một trong những công cụ hỗ trợ sinh sản được biết đến và áp dụng rộng rãi
ngày nay đó là công nghệ In – vitro fertilization (IVF – Thụ tinh trong ống nghiệm).
Theo đó, noãn và tinh trùng sẽ gặp nhau bên ngoài cơ thể người, quy trình này bao
gồm hàng loạt các bước phức tạp để điều trị trong sinh sản hoặc các vấn đề di truyền
và hỗ trợ sinh ra một em bé khỏe mạnh. Ban đầu, noãn trưởng thành được lấy ra từ
buồng trứng của người phụ nữ; tinh trùng có thể được lấy từ người chồng hoặc một
người hiến tặng. Hợp tử được tạo thành sau quá trình thụ tinh giữa noãn và tinh trùng
ở một môi trường đặc biệt giống trong cơ thể dưới sự hỗ trợ của các thiết bị trong
phòng thí nghiệm. Hợp tử này sau đó được cấy ngược lại tử cung của người phụ nữ
để tiếp tục các quá trình phát triển của phôi, thai và các giai đoạn biệt hóa khác sau
đó.
1.2.

Sự phát triển của phôi trước khi làm tổ

1.2.1. Phôi giai đoạn tiền nhân
Tiền nhân là giai đoạn đầu tiên của hợp tử ngay sau khi noãn được thụ tinh bởi
tinh trùng. Tiền nhân đực và tiền nhân cái mang bộ nhiễm sắc thể đơn bội, bằng một nửa
số nhiễm sắc thể của tế bào thân. Tiền nhân đực được hình thành gần vị trí tinh trùng
thâm nhập vào noãn tiền nhân cái được hình thành ở cực bào tương có thoi phân bào [7].
Sự hình thành tiền nhân đực thường xảy ra chậm hơn do tinh trùng phải trải qua một số

3



thay đổi trong cấu trúc ở phần đầu, dưới tác dụng của một số chất có trong bào tương
noãn. Hai tiền nhân từ từ tiến lại gần nhau ở giữa hợp tử và hợp nhất thành hợp tử.

Sự tiếp xúc của cả hai tiền nhân được thực hiện qua trung gian các ống vi thể
được thành lập từ các trung thể của tinh trùng. Khi sự biệt hóa tiền nhân hoàn tất,
màng nhân rã ra và vật liệu di truyền của hai tiền nhân hợp lại với nhau.
Trong thụ tinh nhân tạo, sự xuất hiện của hai hạt nhân là dấu hiệu đầu tiên của sự
thụ tinh thành công [56] được quan sát trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm, và
thường được đánh giá trong khoảng thời gian từ 12 - 20 giờ sau khi thụ tinh hoặc tiêm
tinh trùng vào bào tương của noãn (ICSI - Intra-cytoplasmic Sperm Injection) [66].
Việc quan sát sự thay đổi của tế bào chất từ giai đoạn hình thành tiền nhân tới
giai đoạn phân chia đầu tiên luôn được chú ý và quan sát bởi yếu tố này có thể ảnh
hưởng tới tỷ lệ thành công nếu chuyển phôi ngày 1 hoặc chọn phôi trữ đông [45].
1.2.2. Phôi ở giai đoạn phân chia (2-3 ngày sau thụ tinh)
Ngay sau khi tiền nhân đực và tiền nhân cái hợp nhất, thoi phân bào xuất hiện,
thể nhiễm sắc được sắp xếp trên thoi phân bào. Mỗi thể nhiễm sắc con tiến về một cực
tế bào, đồng thời rãnh phân chia xuất hiện và ngày càng sâu trên mặt noãn. Kết quả,
noãn thụ tinh đã phân làm 2 phôi bào, ở người, hai phôi bào này to nhỏ không đều nhau
[1]. Trong suốt quá trình phân chia tế bào chất trong giai đoạn này được kiểm soát chủ
yếu bởi trung thể của tinh trùng [12]. Quá trình phân chia này hợp tử gần như không có
sự thay đổi về kích thước do không có sự lớn lên về tế bào chất. Điều này có nghĩa sau
mỗi lần phân chia thì tỷ lệ hạt nhân với tế bào chất ngày càng tăng lên.
Quá trình phân chia lần đầu để từ 1 tế bào hợp tử thành 2 tế bào con (phôi bào)
sau 30 giờ thụ tinh; và thành 4 tế bào sau 40 giờ sau thụ tinh [44].
1.2.3. Phôi dâu
Sau một vài lần phân chia, phôi chứa từ 16 - 32 phôi bào có hình dáng như trái
dâu nên gọi là phôi dâu. Sau lần phân chia thứ ba, trong phôi diễn ra quá trình kết
dính tế bào. Hiện tượng kết đặc tế bào xảy ra vào khoảng ngày thứ 3 – 4 làm cho các




tế bào áp sát vào nhau và ranh giới giữa các tế bào lúc này trở nên khó phân biệt. Quá

trình kết đặc tế bào rất quan trọng trong sự biệt hoá khối tế bào trong và tế bào lá
nuôi, quyết định đến sự hình thành phôi thai. Màng trong suốt ở giai đoạn phôi dâu
vẫn nguyên vẹn tạo điều kiện cho sự kết đặc tế bào và ngăn hai phôi (nếu có) nhập
vào nhau. Nếu lớp tế bào trong phân chia ở giai đoạn sớm này, có thể phát triển thành
song thai cùng hợp tử.
Cấu tạo của phôi dâu gồm: một nhóm tế bào nằm ở vị trí trung tâm có kích
thước lớn hơn gọi là đại phôi bào, còn những tế bào tạo thành một lớp bao quanh phía
ngoài có kích thước nhỏ hơn gọi là tiểu phôi bào. Những đại phôi bào sau này sẽ tạo
phôi và một số bộ phận phụ của phôi như màng ối, túi noãn hoàng, niệu nang. Tiểu
phôi bào sẽ tạo lá nuôi, sau này sẽ phát triển thành rau thai và màng bọc thai [44].
Sự phân chia noãn thụ tinh xảy ra trong quá trình noãn di chuyển từ vòi trứng
đến tử cung. Các tế bào nang vây quanh noãn bị thoái hóa dần dần, màng trong suốt vẫn
tồn tại trong thời gian phân chia noãn và giai đoạn phôi dâu rồi cuối cùng biến mất.
1.2.4. Phôi nang
Ở người, vào khoảng ngày thứ 4 sau thụ tinh, hợp tử (ở giai đoạn phôi dâu) đã
lọt vào khoang tử cung và bị vùi trong chất dịch do nội mạc tử cung tiết ra. Chất dịch
thấm qua màng trong suốt vào các khoảng gian bào của đại phôi bào để nuôi trứng.
Dần dần các khoảng gian bào hợp lại và cuối cùng tạo thành một khoang xen giữa
lớp tiểu phôi bào và khối đại phôi bào, khoang này dần dần lớn lên và gọi là khoang
phôi nang hay khoang dưới mầm vì mầm phôi được tạo ra nằm phía trên nó. Màng
trong suốt hoàn toàn biến mất. Khối tế bào trung tâm của phôi dâu, các đại phôi bào
bị khoang phôi nang đẩy dần về một cực của trứng và lồi vào khoang dưới mầm được
gọi là cúc phôi. Cúc phôi chính là mầm của phôi và cực đó gọi là cực phôi vì ở đó
phôi sẽ phát triển. Còn cực đối lập gọi là cực đối phôi. Tiểu phôi bào của lớp ngoại
vi của phôi dâu dẹt lại tạo nên thành của khoang phôi nang, trứng thụ tinh ở giai đoạn
này giống như một cái túi nên gọi là phôi nang và giai đoạn phát triển này của noãn
gọi là giai đoạn phôi nang [44].

5




Thông thường tổng số phôi bào của phôi nang là trên 60 phôi bào. Ở người,
phôi nang ngày 5 có khoảng 60 phôi bào, tăng đến 160 vào ngày 6 và trên 200 sau
khi thoát màng vào ngày 7; 40% số phôi bào tạo mầm phôi [27].

Hình 1 Sự phát triển của hợp tử từ giai đoạn 2 phôi bào đến giai đoạn phôi nang [78]
1.3.

Bất thường số lượng NST và cơ chế hình thành

1.3.1. Cơ chế phát sinh bất thường số lượng NST
Cơ chế gây ra bất thường số lượng NST được bàn đến nhiều nhất là hiện tượng
không phân ly (non-disjunction) của một vài NST hay toàn bộ NST trong phân bào
làm thay đổi số lượng nhiễm sắc thể.
Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bất thường số lượng nhiễm sắc thể của
phôi tạo ra trong ống nghiệm và phôi hình thành trong tự nhiên bao gồm:
• Bất thường số lượng nhiễm sắc thể sai sót bên trong tế bào sinh dục gốc: Những sai lệch
trong quá trình tế bào sinh dục gốc phân chia dẫn đến tình trạng lệch bội nhiễm sắc thể




ở tế bào gốc dẫn đến hình thành lệch bội nhiễm sắc thể ở giao tử. Trong tất cả các trường
hợp, kết quả là tạo ra giao tử có nhiều hoặc ít hơn về số lượng nhiễm sắc thể.
• Bất thường số lượng nhiễm sắc thể sinh ra trong quá trình phân bào: Các nhà khoa
học cho rằng có hai cơ chế chính về sự không phân ly NST dẫn tới lệch bội NST,
Zenzes và Casper cho rằng sự không phân ly dẫn đến lệch bội nhiễm sắc thể là do bất
thường trong phân tách các nhiễm sắc thể tương đồng ở giảm phân I, dẫn đến thế hệ
của các tế bào con không đồng đều, thừa hoặc thiếu vật chất di truyền. Angel và cộng

sự năm 1993 cũng cho rằng sự hình thành nhiễm sắc thể đơn ở giảm phân II phát sinh
bởi sự phân ly sớm của các nhiễm sắc tử ở kỳ sau của giảm phân I và đây có thể là
cơ chế chính cho sự hình thành bất thường số lượng nhiễm sắc thể dạng tam nhiễm ở
người [6]. Trong trường hợp này tế bào gốc bình thường nhưng nhiễm sắc thể bị thay
đổi xảy ra trong quá trình phân bào. Trong phân bào giảm nhiễm, những sai lệch trong
việc phân ly nhiễm sắc thể trong giai đoạn này sẽ tạo ra giao tử bị lệch bội nhiễm sắc
thể và sự hợp nhất giao tử bị lệch bội nhiễm sắc thể sẽ tạo ra phôi bị lệch bội nhiễm
sắc thể (hình 2). Có ba giả thiết về cơ chế gây nên lệch bội nhiễm sắc thể trong phân
bào nguyên nhiễm: (1) thiếu nhiễm sắc thể do sự chậm trễ của kỳ sau (anaphase); (2)
sự nhân lên của một nhiễm sắc thể (cơ chế vẫn chưa được hiểu rõ); (3) mất hoặc thêm
nhiễm sắc thể tương ứng do nhiễm sắc thể không phân ly hoặc giai đoạn kỳ sau bị
ngừng trệ tạo nên một phôi bào thiếu nhiễm sắc thể và một phôi bào thừa nhiễm sắc
thể tương ứng.

7



Hình 2 Cơ chế của sự không phân ly hình thành các dạng lệch bội [9]
Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của Magli và cộng sự năm 2009 cho thấy sự bất
thường trong phân chia trong hình thành giao tử ở người cha không có tinh trùng
không do tắc nghẽn (non-obstructive azoospermia) có thể dẫn tới 95% hiện tượng thể
khảm ở phôi, và tần xuất xuất hiện cao hơn hẳn so với các phôi khác [38]. Ở người,
những sai lệch trong quá trình phân bào nguyên nhiễm cũng thường xảy ra khi phôi
ở giai đoạn phân chia sớm, các phôi bào còn có xu hướng phân chia sai lệch. Hầu hết
sự sai lệch trong phân bào nguyên nhiễm ở phôi giai đoạn đầu (hình 3) sẽ dẫn đến tạo
ra phôi thể khảm nghĩa là phôi có ≥ 2 dòng phôi bào có thành phần nhiễm sắc thể
khác nhau.





Hình 3Cơ chế hình thành thể khảm theo Delhanty [38]
• Bất thường nhiễm sắc thể trong và sau thụ tinh: Khoảng 1% thai có bộ nhiễm sắc thể
lớn hơn 2n do bộ nhiễm sắc thể được tăng một số chẵn hoặc lẻ lần và được gọi là đa
bội. Có 3 cơ chế dẫn đến hiện tượng đa bội (1) tinh trùng hoặc noãn lưỡng bội tham
gia vào quá trình thụ tinh; (2) hai hay nhiều tinh trùng tham gia vào quá trình thụ tinh;
(3) sự tồn lại của thể cực thứ 2. 60% các trường hợp đa bội là do thụ tinh với nhiều
tinh trùng [16].
Một số nghiên cứu cho rằng gần một nửa noãn người là bị lệch bội nhiễm sắc
thể, tỷ lệ này tăng lên đáng kể khi người phụ nữ trên 35 tuổi [42, 59]. Ngược lại, tỷ
lệ lệch bội nhiễm sắc thể ở tinh trùng của nam giới có khả năng sinh sản bình thường
là tương đối thấp 4 - 7% [40, 61]. Tuy nhiên, tỷ lệ này có thể tăng đáng kể trong một
số trường hợp vô sinh nam nặng.

9



1.3.2. Phân loại các dạng bất thường số lượng NST
Bất thường số lượng NST bao gồm hai dạng: lệch bội và đa bội.
v Lệch bội nhiễm sắc thể là hiện tượng số lượng nhiễm sắc thể của tế bào tăng lên hoặc
giảm đi một hoặc vài nhiễm sắc thể so với bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội.
Lệch bội NST ở NST thường: Do sự không phân ly ở giảm phân I kết quả tạo
ra 4 giao tử mất cân bằng về số lượng NST và sự không phân ly ở giảm phân II kết
quả tạo ra 2 giao tử bình thường và 2 giao tử bất thường về bộ NST [28].
Lệch bội NST giới tính: thường ít gây nguy hiểm hơn và có nhiều dạng thể ba
khác nhau có thể xảy ra [28].
Thể khảm (Mosaisicm) là hiện tượng cá thể được tạo thành từ 2 hoặc nhiều
hơn 2 loại tế bào khác nhau trong bộ NST. Tuy nhiên các tế bào này chỉ được tạo ra

từ cùng một và chỉ một hợp tử [28].
Các dạng lệch bội NST thường gặp: Thể không (2n-2); thể một (2n-1), thể một
kép (2n-1-1), thể ba (2n+1), thể bốn (2n+2), thể bốn kép (2n+2+2). Ở người dạng
lệch bội hay gặp nhất là dạng thể ba (2n+1) có 3 nhiễm sắc thể số 21dẫn tới hội chứng
Down. Ngoài ra còn phát hiện các trường hợp khác như: ba nhiễm sắc thể số 18; ba
nhiễm sắc thể số 13; 45,X (Hội chứng Turner); 47,XXY (Hội chứng Klinefelter);
47,XYY và 47,XXX [23].
v Đa bội nhiễm sắc thể là hiện tượng số lượng nhiễm sắc thể của tế bào tăng lên 3 hoặc
nhiều hơn 3 lần so với bộ nhiễm sắc thể đơn bội. Thể đa bội có hai dạng là thể tự đa
bội và dị đa bội. Tự đa bội là hiện tượng tăng số NST đơn bội của cùng một loài lên
nhiều hơn 2 lần bao gồm tự đa bội lẻ (3n, 5n,…) và tự đa bội chẵn (4n, 6n,…). Dị đa
bội do bộ NST 2n của hai hay nhiều loài khác nhau cùng tồn tại trong một tế bào.
Tuy nhiên, dạng thể đa bội ít gặp ở động vật bậc cao.
1.3.3. Các bất thường số lượng NST trong giai đoạn phôi
Đối với những người mẹ ở độ tuổi từ 35 trở lên, nguy cơ có bất thường trong
quá trình phân chia càng cao dẫn tới tỷ lệ bất thường số lượng xảy ra ở NST càng lớn.
Theo nghiên cứu của E. Fragouli và D. Wells thử nghiệm trên 1.290 phôi
trong giai đoạn phôi nang. Kết quả cho thấy sự bất thường NST xảy ra ở tất cả nhiễm




sắc thể trong giai đoạn phát triển của phôi sau 3 - 5 ngày thụ tinh. Tỷ lệ bất thường
số lượng NST chiếm 56% tổng số phôi nghiên cứu. Bất thường số lượng NST có thể
xảy ra ở 1 NST hoặc một vài NST trong cùng một phôi. Và sự bất thường ở các NST
22, 16, 15, 21 và X là thường xuyên xảy ra nhất trên tổng số cặp 23 NST ở người.
Những kết quả này được tóm tắt trong các bảng 1 và bảng 2 [20, 21].
Bảng 1Kết quả sàng lọc phôi sử dụng kỹ thuật CGH của E. Fragouli và D. Wells [21]
Tổng số bệnh nhân


191

Tuổi trung bình

38,1 (từ 29 đến 50 tuổi)

Số phôi sinh thiết

1.290

Các mẫu phôi lưỡng bội

519

Các mẫu phôi lệch bội

660

Các mẫu phôi không phân tích được

111

Mẫu phôi có 1 NST bất thường

398

Mẫu phôi có 2 NST bất thường

162


Mẫu phôi có 3 NST bất thường

100

Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng lệch bội nhiễm sắc thể có thể xảy
ra ở bất kỳ nhiễm sắc thể nào trong hệ gen người với tỷ lệ khác nhau [16, 20, 21, 72].

11



Bảng 2 Tần suất bất thường NST phát hiện ở phôi 5 ngày tuổi sử dụng kỹ thuật
CGH theo nghiên cứu của E. Fragouli D. Wells [21]



NST

Thêm NST

Thêm 1
phần NST

Mất NST

Mất 1
phần NST

Tổng số


1

12

8

6

2

28

2

8

3

15

4

30

3

7

3


8

6

24

4

10

2

25

4

41

5

10

2

8

3

23


6

9

2

10

0

21

7

15

0

14

4

33

8

13

1


13

2

29

9

9

3

13

2

27

10

10

1

9

2

22


11

13

1

20

6

40

12

12

0

9

1

22

13

12

0


48

0

60

14

13

0

14

0

27

15

53

0

41

0

94


16

56

2

46

1

105

17

23

0

11

0

34

18

14

0


33

1

48

19

32

0

14

0

46

20

14

1

22

1

38


21

21

0

46

0

67

22

95

0

42

0

137

X

21

1


46

2

70

Y

12

0

1

0

13

Tổng số

494

30

514

41

1079



1.3.4. Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể ở phôi và noãn
v

Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể ở noãn

Tỷ lệ rối loạn ở nhiễm sắc thể ở noãn tương đối cao và tăng dần ở phụ nữ lớn
tuổi. Theo nghiên cứu của Munne và cộng sự trên 226 bệnh nhân tuổi từ 26 - 47 sử
dụng kỹ thuật FISH sàng lọc cho 7 nhiễm sắc thể ( 13, 15, 16, 18, 21, 22, XY) cho
thấy: Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể ở nhóm tuổi dưới 35 là 50%, 35 - 39 tuổi là 60%
và trên 40 tuổi là 66.7% [42].
Thêm vào đó, Sher và cộng sự khi sử dụng phương pháp a-CGH cho noãn của
phụ nữ 35 tuổi thấy 64% bị rối loạn nhiễm sắc thể [59]. Noãn bị rối loạn nhiễm sắc
thể khi kết hợp với tinh trùng tạo ra phôi bị rối loạn nhiễm sắc thể. 80% noãn bình
thường sẽ dẫn tới phôi bình thường và 87% phôi không phát triển thành phôi nang là
bị rối loạn nhiễm sắc thể [55].
v

Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể ở tiền nhân

Giannaroli và cộng sự 2003, dùng phương pháp FISH 8 đầu dò (X, Y, 13, 15,
16, 18, 21, 22) trên 496 phôi thấy tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể là 70%. Các phôi có tiền
nhân nằm cách xa nhau, có kích thước khác nhau hoặc có nhiều hạt nhân nhỏ nằm rải
rác có liên quan đến tốc độ phát triển chậm và tăng tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể [30].
Balaban và cộng sự năm 2004 sử dụng phương pháp FISH với 5 đầu dò (13,
18, X, Y) kiểm tra 267 phôi thấy tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể nói chung là 69,2% và
kết luận hình thái tiền nhân có giá trị tiên lượng khả năng phát triển của phôi và là
chỉ báo rối loạn nhiễm sắc thể. Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể ở phôi có tiền nhân bình
thường là 25,6%, Tỷ lệ này là 73% và 83% tương ứng tỷ lệ lần lượt với phôi có 1 tiền
nhân bất thường và phôi có hai tiền nhân bất thường [8].

v

Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể ở phôi ngày 3

Sau khi thụ tinh phôi trong môi trường nhân tạo, phôi thường được nuôi cấy
thêm từ 3 - 5 ngày trước khi chuyển phôi. Trên 50% phôi tạo ra trong ống nghiệm ở
giai đoạn phân chia có rối loạn nhiễm sắc thể, tỷ lệ này tăng lên đến 80% ở phụ nữ
lớn tuổi. Năm 2012, Alasma và cộng sự dùng phương pháp FISH 9 đầu dò (13, 15,

13



16, 17, 18, 21, 22, X, Y) đánh giá 393 phôi ngày 3 của 70 bệnh nhân có tuổi trung
bình 34,6 có tiền sử sẩy thai bị rối loạn nhiễm sắc thể (thai tự nhiên hay thai nhân tạo
trong TTTON), tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể là 67,8%. Nhiễm sắc thể có tỷ lệ rối loạn
cao nhất là 16 và 22 [4].
Năm 2012, Rabinowitz và cộng sự sử dụng phương pháp a-SNP đánh giá 274
phôi ngày 3 của 32 phụ nữ tuổi từ 26 tới 47, cho thấy tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể là
72,3%; tỷ lệ này là 65,7% và 76,2% tương ứng lần lượt với phụ nữ tuổi ≤ 36 tuổi và
> 36 tuổi. Trong đó có 19,7% là bị rối loạn ở 1 nhiễm sắc thể và 52,5% là rối loạn
trên nhiều nhiễm sắc thể [48].
Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên của Rubio và cộng sự năm 2013
sử dụng phương pháp FISH với 9 đầu dò 13, 15, 16, 17, 18, 21, 22, X, Y nghiên cứu
265 phôi ngày 3 của 91 phụ nữ có phôi không làm tổ liên tiếp ở độ tuổi trung bình
35,2 và 485 phôi của 91 phụ nữ có phôi không làm tổ ở độ tuổi 41 đến 44, tỷ lệ rối
loạn nhiễm sắc thể tương ứng là 57,3% và 69,2% [49].
Đặc biệt, cả hai nghiên cứu trên của Rabinowitz và Rubio đều cho thấy rằng,
nhiễm sắc thể bị ảnh hưởng nhiều nhất ở phụ nữ có phôi không làm tổ liên tiếp lần
lượt là 22, 13, 16, 21, 18, XY, 15 và 17; ở nhóm phụ nữ lớn tuổi là 22, 16, 21, 15, 13,

18, 17 và XY [48, 49].
Trong một nghiên cứu khác năm 2013, khi sử dụng phương pháp a-CGH kiểm
tra phôi của 556 bệnh nhân có tiền sử xảy thai liên tiếp, phôi không làm tổ liên tiếp,
vô sinh nam và phụ nữ lớn tuổi thấy tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể là 73,5% [50].
v

Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể ở phôi nang

Đối với các phôi có bất thường số lượng nhiễm sắc thể thường ngừng phát
triển từ giai đoạn ngày 3 nhưng phần lớn vẫn phát triển tới giai đoạn phôi nang. Ở
giai đoạn phôi nang, trên 40% phôi bị rối loạn nhiễm sắc thể; và tỷ lệ này sẽ tăng
cùng với tuổi người mẹ.
Năm 2010, Schoolcraft và cộng sự sử dụng phương pháp a-CGH để đánh giá
trên 269 phôi nang của 45 bệnh nhân có tuổi trung bình 37,7 và đưa ra tỷ lệ rối loạn
nhiễm sắc thể là 51,3% [54]. Một nghiên cứu khác của Fragouli cùng năm đó cũng




đưa ra tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể là 45,2% khi khảo sát trên nhóm bệnh nhân có độ
tuổi trung bình 39,8 sử dụng phương pháp a-CGH [19]. Trong số 43% các phôi bị bất
thường số lượng nhiễm sắc thể từ các phụ nữ có độ tuổi trung bình 37,7 có tới 55%
rối loạn nhiễm sắc thể xảy ra ở một nhiễm sắc thể và 41% ở hai nhiễm sắc thể, 7%
phức tạp hơn xảy ra ở ≥ 3 nhiễm sắc thể [67] .
1.4.

Các yếu tố ảnh hưởng tới bất thường NST trong TTTON
Theo Fasolino và cộng sự, nguyên nhân gây vô sinh có liên quan đáng kể

với những rối loạn phân bào giảm phân dẫn đến lệch bội nhiễm sắc thể ở phôi [15].

Tỷ lệ lệch bội nhiễm sắc thể tăng đáng kể trong các trường hợp: thai phụ bị lạc nội
mạc tử cung, tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phóng noãn và ở những
phụ nữ có tiền sử sẩy thai. Lạc nội mạc tử cung làm ảnh hưởng đến chất lượng của
noãn do làm thay đổi thành phần khung tế bào [37]. Tác giả cho rằng, lạc nội mạc tử
cung ảnh hưởng xấu tới thoi phân bào và nhiễm sắc thể và điều này phù hợp với
những ý kiến cho rằng có mối liên quan giữa lạc nội mạc tử cung và sự hình thành
giao tử bị lệch bội nhiễm sắc thể. Weghofer và cộng sự thấy có mối quan hệ âm tính
giữa các yếu tố gây phóng noãn và số lượng noãn bị lệch bội nhiễm sắc thể, chứng tỏ
buồng trứng đã trải qua quá trình già hóa sinh học [71]. Ở phụ nữ có tiền sử bị sẩy
thai, khả năng phôi bị lệch bội nhiễm sắc thể cao hơn. Điều này có thể giải thích là
do ở những phụ nữ này, buồng trứng có xu hướng bị già hóa, dẫn đến giảm số lượng
noãn ở giai đoạn trưởng thành [33]. Điều này phù hợp với kết quả của Warburton
[70] là phụ nữ có thai bị thể tam nhiễm sẽ mãn kinh sớm hơn so với phụ nữ trẻ và
giảm tỷ lệ sinh ra trẻ bình thường. Nhận định này cũng tương đồng với kết quả nghiên
cứu của Munne [42] là tỷ lệ lệch bội nhiễm sắc thể ở phôi cao hơn ở phụ nữ có tiền
sử sinh con bị rối loạn nhiễm sắc thể.
Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ảnh hưởng đến tỷ lệ lệch bội nhiễm sắc
thể ở phôi thụ tinh trong ống nghiệm. Ở giai đoạn phân chia, có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến bộ nhiễm sắc thể của phôi, đặc biệt tỷ lệ phôi bị lệch bội nhiễm sắc thể
khác nhau giữa các trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm, nhưng đến nay có rất ít các
nghiên cứu đi sâu về vấn đề này.

15



Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến lệch bội nhiễm sắc thể ở phôi thụ tinh trong
ống nghiệm. Yếu tố môi trường bao gồm các tác nhân gây ra rối loạn nhiễm sắc thể và
đột biến gen trong quá trình tạo giao tử, từ đó dẫn tới lệch bội nhiễm sắc thể ở phôi.
Các tác nhân quan trọng bao gồm: thuốc lá, coain, phóng xạ tia X. Năm 2001, Shi và

cộng sự công bố là các chất trong thuốc lá làm tăng tổn thương ADN của tinh trùng và
làm giảm chất lượng tinh trùng [60]. Ở người mẹ hút thuốc lá, các tế bào sinh dục gốc
có xu hướng bị nhiễm sắc thể không phân ly dẫn đến hình thành thể khảm và lệch bội
nhiễm sắc thể ở bào thai và gây sẩy thai sớm [69]. Các nhà khoa học cũng nhận thấy
mối liên quan giữa thai phụ sử dụng cocain và thai nhi bị dị tật về tim phổi và thần kinh
do đột biến gen và rối loạn nhiễm sắc thể [4]. Phóng xạ; tia X; tia α, tia tử ngoại cũng
là các tác nhân liên quan đến dị tật bẩm sinh và rối loạn nhiễm sắc thể.
Tuổi mẹ và tỷ lệ lệch bội nhiễm sắc thể: Một số nghiên cứu cho rằng ít nhất
20% noãn người là bị lệch bội nhiễm sắc thể, tỷ lệ này tăng lên đáng kể khi người
phụ nữ trên 35 tuổi [32].
Năm 2006, trong nghiên cứu của Delhanty về di truyền trên noãn và thể cực
thứ nhất tạo ra trong ống nghiệm sử dụng kỹ thuật a-CGH, thấy rằng 22% noãn của
bệnh nhân có độ tuổi trung bình 32,5 (dải tuổi từ 18 đến 42) tuổi là bị lệch bội nhiễm
sắc thể [22]. Theo nghiên cứu của Franck Pellestor năm 1990, tỷ lệ bất thường về
nhiễm sắc thể trong noãn bào trưởng thành là 24,0% với phần lớn là các bất thường
về số lượng nhiễm sắc thể (chiếm 22,8%) và một phần nhỏ bất thường về cấu trúc
nhiễm sắc thể (1,2%) [46]. Tỷ lệ noãn bị lệch bội nhiễm sắc thể tăng đáng kể cùng
với tuổi của người phụ nữ. Đối với phụ nữ lớn tuổi, tỷ lệ này trung bình khoảng 70%
[25, 35, 57], tuy nhiên các tác giả này cho rằng bất thường loại thể khảm thường
không phụ thuộc vào tuổi, trong khi Munne lại cho rằng thể khảm là do cơ chế không
phân ly và có thể tăng lên cùng với tuổi mẹ tăng [41].
Năm 2011, bằng cách sử dụng kỹ thuật a-CGH Alfarawati và cộng sự đã phát
hiện hơn một nửa số mẫu phôi nang nghiên cứu có lệch bội nhiễm sắc thể với nhiều
dạng khác nhau (283/500 chiếm 56,7%). Các bất thường trên liên quan chặt chẽ với
tuổi của người mẹ, tỷ lệ này tăng từ 51% đến 60,7% tương ứng với nhóm tuổi mẹ từ




31 - 37 và 38 - 47 tuổi. Nhìn chung, hầu hết các NST đều cho thấy sự xác suất mang

lệch bội nhiễm sắc thể tăng khi tuổi người mẹ tăng, tuy nhiên nhiễm sắc thể bị ảnh
hưởng nhiều nhất khi tuổi mẹ tăng cao đó là NST số 21. Cụ thể tỷ lệ lệch bội này tăng
gấp 10 lần ở NST 21, khoảng 5 - 6 lần ở NST 12, 14, 18 trong khi trung bình các NST
khác chỉ tăng khoảng 2 - 3 lần [5].
Năm 2007, Munne và cộng sự kiểm tra 8 nhiễm sắc thể (13, 15, 16, 17, 18, 21,
22, X, Y) trên hơn 6000 phôi TTTON. Trong đó, phôi có hình thái và phát triển tốt
nhất là 44% mang số lượng nhiễm sắc thể bình thường ở bệnh nhân dưới 35 tuổi,
giảm xuống còn 21% ở bệnh nhân từ 41 tuổi trở lên. Mặt khác, có tới 20% phôi mang
lệch bội nhiễm sắc thể và lên tới 32% phôi mang lệch bội kèm theo những bất thường
khác về mặt di truyền. Cả hai tuổi của mẹ và các thông số hình thái và tốc độ phát
triển phôi đều có tác động rất lớn đến tỷ lệ phôi bình thường, những yếu tố này tác
động mang tính độc lập. Đặc biệt, tuổi mẹ ảnh hưởng tới tỷ lệ lệch bội NST rất rõ rệt
(p <0,001) [41].
Năm 2003, nhóm nghiên cứu của Rubio và cộng sự đánh giá 7 nhiễm sắc thể
(13, 16, 18, 21, 22, X và Y) sử dụng phương pháp FISH. Kết quả cho thấy trong
55,6% phôi ở nhóm đối tượng có tiền sử sảy thai dưới 37 tuổi được phân tích mang
lệch bội nhiễm sắc thể (237/455) trong khi con số này ở nhóm đối tượngtrên 37 tuổi
là 59,4%. Kết quả này cũng tương đồng khi đánh giá trên các phôi của nhóm đối
tượng tham chiếu là các bệnh nhân điều trị bằng TTTON mà chưa có tiền sử sảy thai.
Cụ thể đối với nhóm tuổi dưới 37, tỷ lệ phôi mang lệch bội NST chiếm 21,6% và tăng
lên 47,1% khi người mẹ có tuổi trên 37 [51].
Trước đó trong nghiên cứu của Munne năm 2002 cũng chỉ ra rằng tuổi người
mẹ càng cao thì tỷ lệ phôi mang bộ nhiễm sắc thể bình thường càng giảm. Đối với
nhóm tuổi nhỏ hơn 35 tuổi, có tới 57,2% phôi bất thường về bộ nhiễm sắc thể bao
gồm cả lệch bội và thể khảm. Con số này là 58,9% ở nhóm tuổi từ 35 tới 40 tuổi và
tăng lên tới 65,1% khi tuổi người mẹ trên 40 tuổi [43].
Theo nghiên cứu của Zev Rosenwaks năm 2004 cho thấy tỷ lệ sẩy thai sau khi
kiểm tra thấy có hoạt động của thai nhi trong 2014 ca TTTON là 11,6% (233/2014).

17




×