Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bệnh vẩy nến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.86 KB, 10 trang )

Bệnh vẩy nến
Vẩy Nến (Psoriasis) là một bệnh có tính cách miễn dịch-di truyền với các dấu
hiệu trên da và khớp xương. Đặc điểm của bệnh là những vẩy khô mầu bạc hồng, rất
ngứa, tụ gọn với nhau. Vẩy lớn nhỏ khác nhau, thường có trên khuỷu tay, cánh tay
trước, đầu gối, chân, da đầu và các bộ phận khác trong cơ thể. Bệnh thường kéo dài lâu
ngày và hay tái phát.
Bệnh khá phổ biến. Riêng tại Hoa Kỳ có khoảng trên 7.5 triệu nạn nhân.
Bệnh có bất cứ ở tuổi nào nhưng thường là từ 12 tuổi tới 40 tuổi. Khoảng
từ10%-15% bệnh xảy ra trước 10 tuổi. Dân da trắng thường bị vẩy nến nhiều hơn
người da mầu. Nam nữ đều mắc bệnh nhiều như nhau.
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ra bệnh chưa được biết rõ. Có giải thích cho rằng bệnh gây ra
do một sự nhầm lẫn của hệ miễn dịch, đặc biệt là các bạch cầu loại T. Bình thường,
các tế bào này tuần hành theo máu khắp cơ thể để truy lùng, tiêu diệt các sinh vật hoặc
hóa chất gây bệnh. Trong bệnh vẩy nến, bạch cầu T tấn công nhầm các tế bào biểu bì,
tưởng chúng là thù địch. Bị kích thích, biểu bì tăng sinh rất nhanh trong vòng vài ba
ngày, thay vì cả tháng như thường lệ. Không tróc kịp, các tế bào này và T cell xếp
thành từng lớp vẩy trên da. Nguyên nhân của sự nhầm lẫn vẫn còn trong vòng bí mật
và diễn tiến bệnh tiếp tục nếu không được điều trị. Cũng có giải thích bệnh có tính
cách thừa kế di truyền và nhiều người trong một gia đình có thể cùng bị bệnh.
Một số yếu tố có thể khiến bệnh phát ra là:
-xúc động tâm lý mạnh ảnh hưởng lên hệ miễn dịch, có thể kích thích bệnh xuất
hiện lần đầu hoặc tăng mức trầm trọng của bệnh đang tiến triển.
-chấn thương liên tục trên da như vết trầy, vết cắt, cháy da;
-nhiễm độc da hoặc cuống họng, nhiễm HIV
-tác dụng của một vài dược phẩm như thuốc chống sốt rét, thuốc trị tâm bệnh
lithium, thuốc trị cao huyết áp loại beta blocker.
-tiêu thụ nhiều rượu hoặc thuốc lá
-mập phì
-thời tiết lạnh hoặc do một vài thực phẩm.
Vẩy nến không lây lan vì không phải là bệnh truyền nhiễm.


Mặc dù vẻ dáng vẩy coi “dị hợm”, nhưng người bệnh không là hiểm họa cho
sức khỏe và sự an toàn của người khác.
Triệu chứng.
Bệnh thường xuất hiện từ từ, tồn tại một thời gian rồi thuyên giảm. Sau đó bệnh
tái phát, nhất là khi có chấn thương da, cháy nắng, viêm, dị ứng thuốc. Dấu hiệu đặc
biệt nhất là những mảng vết thương trên da khô, hình bầu dục hoặc tròn, mầu hồng đỏ
phủ lên trên là nhiều lớp vẩy mầu bạc. Các vết này rất ngứa và đau. Ngứa vì da khô và
dây thần kinh dưới da bị một vài hóa chất kích thích, khiến cho não phát ra cảm giác
ngứa, muốn gãi. Ngoài ra, dấu vết trên da có thể là:
-vẩy nến giọt mầu đỏ hình bầu dục.
- vẩy nến đảo ngược ở nếp gấp trên da như cơ quan sinh dục, nách.
- vẩy nến mủ với bóng nước chứa mủ.
- vẩy nến từng mảng lớn mầu đỏ với hậu quả trầm trọng như rối loạn thân nhiệt,
mất cân bằng chất điện giải cơ thể.
-vẩy nến khớp xương, gây trở ngại cho cử động.
Bệnh thường có trên da đầu, sau vành tai, khuỷu tay, đầu gối, hông, vùng cơ
quan sinh dục. Móng tay, lông mày, rốn, hậu môn cũng thường bị ảnh hưởng. Đôi khi
bệnh lan khắp cơ thể.
Khi lành, vết thương thường không để lại sẹo và ở trên đầu, tóc vẫn mọc.
Trong 60% các trường hợp, móng tay móng chân cũng bị bệnh: móng chẻ, mất
mầu dầy cộm nom như bị bệnh nấm.
Khoảng từ 10 tới 30% bệnh nhân bị viêm khớp-vẩy nến, thường thường ở tuổi
30 tới 50.
Định bệnh
Không có thử nghiệm máu hoặc phương thức khoa học nào để chẩn đoán bệnh.
Bác sĩ xác định bệnh qua hình thù, mầu sắc của vẩy trên da, đôi khi lấy một chút mô ở
vùng bệnh để tìm tế bào đặc biệt vẩy nến.
Tiên lượng bệnh - Vẩy nến là bệnh không lây lan. Trừ khi bệnh xâm nhập
xương khớp hoặc nhiễm độc, vẩy nến thường không gây ra ảnh hưởng xấu cho sức
khỏe tổng quát. Nếu có, chỉ là một chút ảnh hưởng tâm lý, buồn phiền lo âu vì da

chẳng giống ai.
Bệnh nhẹ khi dưới 2% da bị ảnh hưởng; trung bình khi da có dấu hiệu bệnh từ 3
đến 10% và nặng khi vẩy bao phủ 10% da.
Tế bào ở các vẩy tăng sinh rất mau, chưa kịp rụng đã ra lớp khác nên các vẩy
chùm đè lên nhau. Bệnh gây khó chịu nhất khi xuất hiện ở da đầu, bìu dái, bàn tay, bàn
chân và móng tay. Vẩy nến ở lòng bàn tay, bàn chân gây nhiều khó khăn cho người
bệnh khi đi đứng, lao động chân tay. Xương khớp cổ tay, cổ chân, đầu gối, lưng quần
và cổ cũng thường bị ảnh hưởng và gây ra trở ngại di động, làm việc cho người bệnh.
Vẩy nến là bệnh mãn tính, tồn tại suốt đời. Bệnh nhân cần thường xuyên điều
trị, đôi khi bệnh trầm trọng, cần nhập viện, y phí khá tốn kém.
Điều trị - Điều trị vẩy nên là cả một thách thức với mục đích chính là gián đoạn
sự tăng sinh quá nhanh của tế bào biểu bì, giảm viêm da, vẩy nến.
Có nhiều phương thức trị liệu khác nhau. Bác sĩ sẽ lựa phương thức thích hợp
cho từng bệnh nhân và tùy theo bệnh nặng hay nhẹ. Hiện nay không có trị liệu dứt
được bệnh vẩy nến, mà chỉ làm dịu tạm thời.
Các phương thức đó là:
1- Thuốc thoa ngoài da:
Với dạng bệnh nhẹ, thuốc thoa trên da có thể giải quyết vấn đề. Bệnh nặng hơn,
cần phối hợp với thuốc uống hoặc chích.
a-Thuốc Corticosteroids như Ultravate, Tenovate, Psorcon, rất công hiệu và
thường được dùng ở trường hợp bệnh nhẹ hoặc trung bình.
b-Thuốc Donovex thuộc nhóm Vitamin D tổng hợp làm giảm viêm và ngăn sự
tăng sinh tế bào da.
c-Thuốc Retinoid từ sinh tố A như Tazorac.
d-Nhựa than đá (Coal Tar) được dùng để trị vẩy nến từ thuở xa xưa để giảm
viêm ngứa. Thuốc khá công hiệu, ít tác dụng phụ nhưng có mùi khó chịu lại dính quần
áo khó coi.
2-
Quang trị liệu với ánh sáng mặt trời, các tia tử ngoại B (UBV), quang hóa trị
liệu PUVA (Psoralen Plus Ultraviolet A),

laser xung nhuộm màu tía (Pulsed Dye
Laser) .
3- Dược Phẩm - Có nhiều dược phẩm đặc trị bệnh vẩy nến:
a- Rheumatrex (Methotrexate). Thuốc này được dùng trong trường hợp bệnh
nặng, tái phát và không bớt sau khi dùng các phương thức khác. Thuốc phải do bác sĩ
quyết định và theo dõi sau khi đã chẩn định bệnh bằng sinh thiết mô bào. Thuốc có
nhiều tác dụng phụ mạnh.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×