Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

VĂN BẢN CÔNG CHỨNG VÀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.27 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

A.

Mở đầu

I.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu

II. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu

III. Cơ cấu của bài báo cáo

B.

Nội dung

I. Quy định của pháp luật về công chứng và văn bản công chứng
giá trị pháp lý của văn bản công chứng

II. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng

III. Giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật đối với văn
bản công chứng

C.

Kết luận

D.

Danh mục tài liệu tham khảo



1


A. MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài

Tại Việt Nam hiện nay, cùng với sự đi lên và phát triển của đất nước thì vai trò và vị trí
của pháp luật trong đời sống cũng ngày một được nâng cao. Các giao dịch dân sự về mua
bán, tặng cho, chuyển nhượng ngày càng được phổ biến mang lại các nguồn lợi, đồng thời
cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro, dẫn đến những hậu quả bất lợi, những tranh chấp xâm hại
đến quyền lợi ích của các bên tham gia giao dịch và cũng đẩy gánh nặng về phía cơ quan
chức năng trong việc giải quyết những hậu quả này. Khi đã xảy ra tranh chấp, một loạt các
vấn đề phát sinh mà hậu quả của nó chính là việc làm mất thời gian, chi phí, gây tổn hại đến
uy tín, danh dự của tổ chức cá nhân tham gia giao kết, đồng thời gây mất ổn định trong xã
hội. Công chứng chính là một giải pháp hiệu quả và được nhiều người lựa chọn để có thể
phòng ngừa, ngăn chặn tranh chấp phát sinh trong giao lưu dân sự, kinh tế và thương mại.
Với chức năng tham gia vào quá trình thỏa thuận, giao kết các hợp đồng, giao dịch, công
chứng viên có trách nhiệm giúp các bên tham gia giao kết thể hiện ý chí của mình một cách
vô tư, khách quan, đúng pháp luật, giải quyết các xung đột về mặt lợi ích giữa các chủ thể
này, qua đó loại bỏ những nguyên nhân gây ra tranh chấp. Việc tham gia vào quá trình giao
kết hợp đồng của công chứng viên như được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau
nhưng kết quả cuối cùng của quá trình đó được thể hiện dưới một hình thức chung nhất là
những hợp đồng, giao dịch đã được công chứng hay còn gọi là văn bản công chứng. Vì thế,
việc quy định về văn bản công chứng và xác định giá trị pháp lý của loại văn bản này luôn
được coi là một trong những vấn đề mang tính cốt lõi trong pháp luật về công chứng.
Để tìm hiểu kỹ hơn về văn bản công chứng và giá trị pháp lý của chúng, em xin chọn
đề tài “Văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng” làm bài báo cáo kết
thúc học phần.
II.


Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
1. Mục đích, nhiệm vụ:
Công chứng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

trong việc xác nhận tính hợp pháp, xác thực của các hợp đồng giao dịch mua bán, chuyển
nhượng nhằm tránh những rủi ro pháp lý cho các bên cũng như giúp đảm bảo sự thực hiện
2


pháp luật đúng đắn. Vì vậy, với bài báo cáo này, em sẽ trình bày về khái niệm, kết cấu văn
bản công chứng, giá trị pháp lý của loại văn bản này..., đề cập về thực trạng quy định của
pháp luật của loại văn bản này, làm rõ giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong xu thế
phát triển của loại hình dịch vụ công này, từ đó kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật và các biện pháp bảo đảm đối với giá trị của văn bản công chứng.
2. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của bài báo cáo này là văn bản công chứng và giá trị pháp lý
của văn bản công chứng, trong đó tập trung vào một số nội dung chủyếu như: xác định rõ
khái niệm công chứng, văn bản công chứng; hình thức, yêu cầu về bố cục và những nội
dung cơ bản của văn bản công chứng, làm rõ giá trị chứng cứ không phải chứng minh và
hiệu lực thi hành của văn bản công chứng, đề xuất một vài định hướng nhằm tiếp tục hoàn
thiện các quy định của pháp luật về văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công
chứng.
III. Kết cấu bài báo cáo:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài báo cáo
gồm 3 chương:
Chương I: Quy định của pháp luật về công chứng và văn bản công chứng giá trị pháp lý của
văn bản công chứng
Chương II: Giá trị pháp lý của văn bản công chứng

Chương III: Giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật đối với văn bản công chứng

3


B. NỘI DUNG

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VỀ CÔNG CHỨNG, VĂN

I.

BẢN CÔNG CHỨNG
1. Công chứng

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật công chứng năm 2014 thì công chứng được
định nghĩa như sau: “ Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công
chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn
bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã
hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”
Khái niệm công chứng ở Việt Nam hiểu một cách đơn giản nhất, "công chứng" chính
là việc "công" quyền đứng ra làm "chứng", là hành vi do các công chứng viên chịu trách
nhiệm về tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch được công chứng.
2. Văn bản công chứng
a. Khái niệm

Văn bản là một loại hình phương tiện để ghi nhận, lưu giữ và truyền đạt các thông tin
từ chủ thể này sang chủ thể khác bằng ký hiệu gọi là chữ viết. Nó gồm tập hợp các câu có
tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức, có tính liên kết chặt chẽ và hướng tới

một mục tiêu giao tiếp nhất định. Hay nói khác đi, văn bản là một dạng sản phẩm của hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ được thể hiện ở dạng viết trên một chất liệu nào đó (giấy, bia
đá,...).
Theo khoản 1 Điều 4 Luật Công chứng năm 2006, quy định văn bản công chứng là:
“Hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công chứng theo quy định của Luật này gọi là
văn bản công chứng”.
Theo khoản 4 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014: “Văn bản công chứng là hợp đồng,
giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của Luật này.”

4


Điểm mới về khái niệm văn bản công chứng có thêm phần bản dịch do vì trong Luật
Công chứng năm 2014 đã thêm một số chức năng mới cho công chứng viên trong đó có
chứng nhận bản dịch.
b. Đặc điểm của văn bản công chứng

- Văn bản công chứng là văn bản hợp đồng, giao dịch được công chứng viên công
chứng nhận và là kết quả hoạt động của công chứng viên
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014: “Công chứng là việc
công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp
pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác….”. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của văn bản
công chứng, là căn cứ quan trọng nhất để phân biệt văn bản công chứng với các giấy tờ
mang tính chất hành chính của các cơ quan công quyền. Theo đó, công chứng được xác định
là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch
khác, lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại chính xác ngày, tháng, năm, địa điểm giao
kết và ý chí, nguyện vọng, giao kết của các bên khi tham gia hợp đồng, giao dịch phù hợp
với quy định của pháp luật. Do đó văn bản công chứng có giá trị pháp lý cao.
- Văn bản công chứng được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ về nội
dung và hình thức, bảo đảm tính xác thực, tính hợp pháp

Ngoài những điểm mới trong quy định của Luật Công chứng về văn bản công chứng
so với các văn bản quy phạm pháp luật trước đó về vấn đề này như đã nêu trên, trên cơ sở
kế thừa quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, Luật Công chứng bằng nhiều quy định
khác nhau cũng đã thể hiện một trong những đặc điểm quan trọng nhất của văn bản công
chứng đó là văn bản này được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ về nội dung và
hình thức theo quy định của pháp luật, bảo đảm về tính xác thực, tính hợp pháp của văn bản.
Theo quy định tại các Điều 40 và 41 của Luật Công chứng năm 2014 thì việc công
chứng có thể được thực hiện theo hai cách: công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn
thảo sẵn hoặc công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo theo đề nghị
của người yêu cầu công chứng. Tuy nhiên, dù làm theo cách nào thì văn bản công chứng
cũng đều được công chứng viên xem xét theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ cả về nội dung
5


và hình thức theo quy định của pháp luật trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên. Đặc biệt, để
có thể đi đến việc hoàn thành văn bản công chứng thông qua việc công chứng viên ký vào
văn bản công chứng thì một trong những thủ tục bắt buộc đối với công chứng viên là phải
đọc văn bản công chứng cho các bên cùng nghe và việc ký công chứng chỉ được thực hiện
khi các bên đã hoàn toàn đồng ý về tất cả các nội dung đã có trong văn bản công chứng.
Chính vì vậy, văn bản công chứng có nội dung trong văn bản công chứng phù hợp với pháp
luật và đạo đức xã hội, ý chí của hai bên giao kết và thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
các bên khi hợp đồng có hiệu lực.
- Văn bản công chứng có tính phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội
Một văn bản công chứng phải đúng với quy định pháp luật, không trái quy định pháp
luật, phù hợp với đạo đức xã hội. Để đảm bảo điều đó, khi thực hiện việc công chứng, công
chứng viên phải có trách nhiệm xem xét các nội dung của hợp đồng, giao dịch có phù hợp
với quy định hiện hành và đạo đức xã hội hay không.
c. Nội dung của văn bản công chứng
- Hợp đồng, giao dịch
Nội dung của văn bản công chứng trước hết là hợp đồng, giao dịch hay nói cách khác

là các thỏa thuận, cam kết mà các bên đã đưa ra và được ghi nhận trong hợp đồng, giao dịch
đó. Tùy thuộc loại hợp đồng, giao dịch mà nội dung các thỏa thuận, cam kết có thể khác
nhau nhưng nhìn chung phải bao gồm một số nội dung chủ yếu đã được pháp luật dân sự
quy định như thong tin về các bên giao kết hợp đồng, giao dịch; đối tượng của hợp đồng
giao dịch là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm; số lượng chất
lượng; giá, phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
quyền, nghĩa vụ các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;phạt vi phạm hợp đồng và một
số nội dung khác...Trên cơ sở nội dung các bên thỏa thuận, công chứng viên có trách nhiệm
xem xét về các quy định pháp luật có vi phạm phát luật không, xem xét về năng lực hành vi
dân sự của người tham gia hợp đồng, giao dịch, về sự tự nguyện giao kết của họ, qua đó
giúp các bên thể hiện ý chí của mình đúng pháp luật và bảo đảm sự công bằng của hai bên.

- Bản dịch
6


Theo như khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 đã giao cho công chứng viên có
thẩm quyền chứng nhận “tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các bản
dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang
tiếng Việt”
Trình tự thủ tục và các nguyên tắc để công chứng bản dịch được quy định tại Điều 61
Luật Công chứng năm 2014:
“1. Việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài
sang tiếng Việt để công chứng phải do người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành
nghề công chứng thực hiện. Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc
đại học khác mà thông thạo thứ tiếng nước ngoài đó. Cộng tác viên phải chịu trách nhiệm
đối với tổ chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do
mình thực hiện.
2. Công chứng viên tiếp nhận bản chính giấy tờ, văn bản cần dịch, kiểm tra và giao cho
người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình thực hiện. Người phiên dịch phải ký vào

từng trang của bản dịch trước khi công chứng viên ghi lời chứng và ký vào từng trang của
bản dịch. Từng trang của bản dịch phải được đóng dấu chữ “Bản dịch” vào chỗ trống phía
trên bên phải; bản dịch phải được đính kèm với bản sao của bản chính và được đóng dấu
giáp lai.
3. Lời chứng của công chứng viên đối với bản dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công
chứng, họ tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng; họ tên người phiên
dịch; chứng nhận chữ ký trong bản dịch đúng là chữ ký của người phiên dịch; chứng nhận
nội dung bản dịch là chính xác, không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội; có chữ
ký của công chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.
4. Công chứng viên không được nhận và công chứng bản dịch trong các trường hợp sau
đây:
a) Công chứng viên biết hoặc phải biết bản chính được cấp sai thẩm quyền hoặc không hợp
lệ; bản chính giả;
b) Giấy tờ, văn bản được yêu cầu dịch đã bị tẩy xoá, sửa chữa, thêm, bớt hoặc bị hư hỏng,
cũ nát không thể xác định rõ nội dung;
c) Giấy tờ, văn bản được yêu cầu dịch thuộc bí mật nhà nước; giấy tờ, văn bản bị cấm phổ
biến theo quy định của pháp luật.
5. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết mẫu lời chứng của công chứng viên đối với bản
dịch.”
7


d. Lời chứng của công chứng viên
Lời chứng của công chứng viên là một bộ phận cấu thành của văn bản công chứng, thể

hiện trách nhiệm của công chứng viên đối với việc công chứng.
- Đối với hợp đồng, giao dịch
Lời chứng của công chứng viên là một bộ phận cấu thành của văn bản công chứng, thể
hiện trách nhiệm của công chứng viên đối với việc công chứng.
Lời chứng được quy định tại Điều 46 Luật công chứng 2014: “Lời chứng của công

chứng viên đối với hợp đồng, giao dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ, tên
công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng; chứng nhận người tham gia hợp đồng,
giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp
đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, chữ ký hoặc dấu điểm
chỉ trong hợp đồng, giao dịch đúng là chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của người tham gia hợp
đồng, giao dịch; trách nhiệm của công chứng viên đối với lời chứng; có chữ ký của công
chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng”.
- Đối với bản dịch
Khoản 3 Điều 61 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Lời chứng của công chứng
viên đối với bản dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ tên công chứng viên,
tên tổ chức hành nghề công chứng; họ tên người phiên dịch; chứng nhận chữ ký trong bản
dịch đúng là chữ ký của người phiên dịch; chứng nhận nội dung bản dịch là chính xác,
không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội; có chữ ký của công chứng viên và
đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.”
e. Về hình thức, văn bản công chứng phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
- Yêu cầu về chữ viết, ngôn ngữ trong văn bản công chứng
Để bảo đảm tính xác thực của văn bản công chứng, Luật Công chứng quy định chữ
viết trong văn bản công chứng phải rõ ràng, dễ đọc, không được viết tắt hoặc viết bằng ký
hiệu, không được viết xen dòng, viết đè dòng, không được tẩy xóa, không được để trống;
thời điểm công chứng phải được ghi cả ngày, tháng, năm, có thể ghi giờ, phút nếu người yêu
cầu công chứngđề nghị hoặc công chứng viên thấy cần thiết; các con số phải được ghi
cảbằng số và chữ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; trừ trường hợppháp luật có
8


quy định khác. Ngôn ngữ trong văn bản công chứng được quy định tại Điều 6 Luật Công
chứng 2014 thì “Tiếng nói và chữ viết dùng trong công chứng là tiếng Việt”.
- Yêu cầu về ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng
Một yêu cầu quan trọng trong hoạt động công chứng đó là phải bảo đảm chữ ký
trong hợp đồng, giao dịch là đúng chữ ký của người tham gia hợp đồng, giao dịch đó

được quy định tại Điều 48 Luật Công chứng 2014:
“1. Người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch phải ký vào hợp
đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên.
Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh
nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì người đó có thể
ký trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với
chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.
2. Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người
làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm
chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ
phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái;
trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải
ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào.
3. Việc điểm chỉ cũng có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong các trường hợp sau
đây:
a) Công chứng di chúc;
b) Theo đề nghị của người yêu cầu công chứng;
c) Công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng.”
- Yêu cầu về việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng
Để bảo đảm văn bản công chứng không bị thay trang, thay tờ làm ảnh hưởng đến nội
dung văn bản, phòng ngừa các hành vi gian dối, vi phạm pháp luật, việc ghi trang, tờ trong
9


văn bản công chứng được quy định tại Điều 49 Luật Công chứng năm 2014: “Văn bản công
chứng có từ hai trang trở lên thì từng trang phải được đánh số thứ tự. Văn bản công chứng
có từ hai tờ trở lên phải được đóng dấu giáp lai giữa các tờ”.
g. Hiệu lực của văn bản công chứng

Theo khoản 1 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Văn bản công chứng có

hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công
chứng”. Tuy nhiên, tùy từng trường hợp cụ thể, tùy từng đối tượng cụ thể của hợp đồng để
xác định về hiệu lực của hợp đồng. Căn cứ theo khoản 1 Điều 401 Bộ Luật Dân sự năm
2015 quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”. Có thể có trường hợp
hợp đồng được Công chứng viên chứng nhận nhưng hiệu lực của văn bản công chứng và
hợp đồng không cùng thời điểm.
Đối với bên thứ ba, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chia làm hai thời điêm:
Đối với hợp đồng liên quan đến tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở
hữu, quyền sử dụng thì thời điểm có hiệu lực với bên thứ ba được quy định như sau:
+ Mua bán nhà ở, thuê nhà thì thời điểm bên mua, bên thuê đã thanh toán đủ tiền mua,
tiền thuê nhà và nhận bàn giao nhà ở.
+ Quyền sử dụng đất kể từ thời điểm hoàn tất thủ tục đăng ký chuyển quyền sử dụng
đất.
Đối với hợp đồng còn lại thì thời điểm có hiệu lực với bên thứ ba là từ thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng (Công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công
chứng).
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng có ý nghĩa rất quan trọng
trong hoạt động công chứng vì chỉ khi hợp đồng, giao dịch có hiệu lực, các bên mới có cơ
sở thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trước khi hợp
đồng có hiệu lực có thể gây ra các thiệt hại, tranh chấp cho các bên tham gia hợp đồng và
cho chính Công chứng viên chứng nhận hợp đồng, giao dịch đó.Vì vậy, Công chứng viên
cần giải thích cho các bên tham gia giao dịch về thời điểm hợp đồng có hiệu lực để các bên
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, tránh những tranh chấp, thiệt hại.
II. GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG
10


1. Khái niệm


Giá trị pháp lý của văn bản công chứng được quy định tại Điều 5 Luật Công chứng
2014: “1. Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng
dấu của tổ chức hành nghề công chứng. 2. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu
lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác. 3. Hợp
đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp
đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án
tuyên bố là vô hiệu. 4. Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản
được dịch”
Giá trị pháp lý của văn bản công chứng chính là yếu tố quyết định sự tồn tại của
hoạt động công chứng. Căn cứ theo điểm g khoản 2 Điều 17 Luật công chứng 2014:
“Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công
chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công
chứng mà mình là công chứng viên hợp danh”
2. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng
a. Giá trị thi hành

Theo khoản 2 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 thì: “Hợp đồng, giao dịch được
công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch
có thỏa thuận khác”
Trong hợp đồng, giao dịch có những điều khoản giữa hai bên được hai bên cam kết
và phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm công chứng. Công chứng viên là người chịu trách
nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng của mình chứng nhận, do đó công chứng
11


viên đảm bảo thực hiện theo đúng những nguyên tắc và thủ tục công chứng để đảm bảo

tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch, bảo đảm sự công bằng, đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của hai bên giao kết thực hiện. Vì vậy, những gì đã thoả thuận trong
văn bản công chứng thì có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên trong hợp đồng,
giao dịch đồng thời đối với cả các chủ thể liên quan, bắt buộc các chủ thể liên quan phải
tôn trọng và thi hành. Ví dụ: một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được
các bên ký kết và đã được công chứng thì các cơ quan (Tài nguyên và môi trường) và các
cá nhân có liên quan cũng phải công nhận và làm các thủ tục liên quan (trước bạ, sang
tên), cũng như cơ quan thuế (kê khai, đóng thuế)…
Văn bản công chứng là những hợp đồng, giao dịch trong đó có quy định quyền lợi
và nghĩa vụ của các bên. Khi mang hợp đồng, giao dịch đi yêu cầu công chứng, các bên sẽ
được công chứng viên giải thích, nêu rõ quyền và nghĩa vụ của các bên phải thực hiện.
Việc công chứng viên ký và đóng dấu vào văn bản công chứng cũng là việc xác nhận các
bên đã hoàn toàn đồng ý và tình nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Vì vậy, khi một bên
không thực hiện nghĩa vụ như trong hợp đồng, giao dịch nêu, thì bên còn lại hoàn toàn có
đủ căn cứ để yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, đòi lại quyền lợi cho
mình.
b. Giá trị chứng cứ

Giá trị chứng cứ không phải chứng minh của văn bản công chứng quy định tại
khoản 3 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014. “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có
giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng
không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.”
Trong các nghị định về công chứng trước đây cũng xác định rất rõ điều này như:
Nghị định số 45-HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và
hoạt động của công chứng nhà nước đã quy định: “Các hợp đồng và giấy tờ đã được
công chứng có giá trị chứng cứ”. Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về
tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước quy định: “ Các hợp đồng và giấy tờ đã
12



được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng
thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu”
Tại khoản 2 Điều 6 Luật Công chứng năm 2006 cũng đã xác định: “ Văn bản công
chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải
chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu”
Về giá trị của bản dịch, khoản 4 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 chỉ nêu một giá
trị: “Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch”. Như
vậy, đều là văn bản công chứng nhưng chỉ có hợp đồng, giao dịch mới được công nhận có
giá trị thi hành và giá trị chứng cứ.
Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công
chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu. Khi có tranh
chấp xảy ra, tính xác thực và hợp pháp của văn bản công chứng là cơ sở khiến văn bản
công chứng trở thành một chứng cứ, chứng minh giúp quá trình giải quyết tranh chấp đơn
giản hơn. Bởi vì, khi công chứng, người thực hiện công chứng phải tuân theo các quy
định của pháp luật về công chứng, trung thực, khách quan, nếu biết việc công chứng hoặc
nội dung công chứng là trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì không được thực hiện công
chứng. Công chứng viên là chức danh tư pháp, được ví như một “thẩm phán phòng
ngừa”, nhân danh Nhà nước chứng nhận tính xác thực của các hợp động, giao dịch về cả
thời gian, địa điểm, tư cách chủ thể của người tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch (hình
thức của hợp đồng) cũng như tính hợp pháp của các điều khoản hợp đồng, sự tự do ý chí
của các bên (nội dung của hợp đồng). Tính xác thực do Công chứng viên chứng nhận biến
các tình tiết, sự kiện có trong hợp đồng, giao dịch trở thành chứng cứ hiển nhiên trước
Tòa. Do đó các tình tiết sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng hiển nhiên là
chứng cứ. Tuy nhiên,văn bản công chứng không có giá trị như một chứng cứ khi văn bản
đó được công chứng một cách không đúng với quy định của pháp luật, trong văn bản
công chứng có những tình tiết giả tạo,… do đó bị Tòa án tuyên là vô hiệu.

13



Hay nói cách khác, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cho đến khi có ý kiến
phản bác đứa ra được chứng cứ ngược lại và phải tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự.
Nhưng như vậy cũng không có nghĩa là Tòa án có thể tuyên vô hiệu một cách tùy tiện.
Một người muốn yêu cầu Tòa án tuyên bố một văn bản công chứng là vô hiệu thì phải
chứng minh được văn bản công chứng đó được lập một cách trái pháp luật. Nếu không
chứng minh được điều đó thì văn bản công chứng sẽ được công nhận là chứng cứ hiển
nhiên trước Tòa án. Như vậy, vai trò phòng ngừa của Công chứng viên thể hiện ở chỗ:
ngay khi lập hợp đồng, các bên giao kết hợp đồng đã củng cố chứng cứ về việc ký kết hợp
đồng đó để đề phòng các tranh chấp về sau.
III. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐỐI
VỚI VĂN BẢN CÔNG CHỨNG
1. Hoàn thiện các quy định về giá trị chứng cứ không phải chứng minh của văn
bản công chứng
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, kiện tụng có liên quan đến văn bản, giấy tờ đã
được công chứng, chỉ khi có yêu cầu hoặc phát hiện thấy nội dung văn bản, giấy tờ đó vi
phạm pháp luật hoặc có những căn cứ pháp lý mới chưa được xác định trong văn bản khi
công chứng viên thực hiện hành vi công chứng thì Tòa án mới có quyền tuyên bố bác bỏ
một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản, giấy tờ đó. Mặt khác, nếu không có yêu cầu
xem xét lại tính hợp pháp của văn bản công chứng thì Tòa án phải thừa nhận và coi đó là
một căn cứ để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trên thực tế trong hầu hết các vụ án, Tòa
án thường không công nhận giá trị này của văn bản công chứng mà đều yêu cầu xem xét
lại toàn bộ quá trình công chứng viên đã thực hiện công chứng, xem công chứng viên có
thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định hay không, có vận dụng đúng quy định của pháp
luật hay không... Như vậy, vô hình chung giá trị không phải chứng minh của văn bản công
chứng đã bị vô hiệu hóa.
Việc xem xét lại của Tòa án là không cần thiết, gây mất thời gian, công sức. Để khắc
phục tình trạng này, cần thiết phải sửa quy định tại khoản 2 Điều 6 của Luật Công chứng
theo hướng bỏ cụm từ "trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu". Việc yêu cầu Tòa
án xem xét lại văn bản công chứng cần được quy định theo hướng chỉ được thực hiện
14



trong trường hợp có căn cứ cho rằng việc công chứng hợp đồng, giao dịch không thực
hiện đúng quy định của pháp luật, các thỏa thuận trong hợp đồng, giao dịch vi phạm điều
cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc một bên trong hợp đồng bị nhầm lẫn, lừa dối
hoặc đe dọa. Quy định như vậy cũng là phù hợp, theo đó trường hợp muốn tuyên bố một
văn bản công chứng vô hiệu thì người có yêu cầu cần thực hiện theo một trình tự, thủ tục
riêng. Cùng với việc xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, cần phân biệt rõ
giá trị pháp lý của từng loại văn bản này tương ứng với bản chất và chế độ trách nhiệm.
Theo đó, đối với văn bản công chứng, những tình tiết, sự kiện trong văn bản này thì
không phải chứng minh; đối với văn bản chứng thực thì chỉ những tình tiết, sự kiện được
cơ quan có thẩm quyền chứng thực mới có giá trị này và cũng cần rà soát, đề xuất sửa đổi
một số quy định của Bộ luật Dân sự để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Công
chứng và Bộ luật Tố tụng dân sự về giá trị chứng cứ của văn bản công chứng trong mối
quan hệ với văn bản tư chứng khác.
2. Hoàn thiện các quy định về giá trị thi hành của văn bản công chứng
Để khắc phục tính hình thức trong quy định về giá trị thi hành của văn bản công
chứng, đã đến lúc cần mạnh dạn quy định một cách cụ thể hơn về giá trị thi hành của văn
bản công chứng, theo đó cần xác định trách nhiệm của các bên trong việc thi hành các
hợp đồng, giao dịch đã được công chứng như thế nào; trong trường hợp một bên không tự
nguyện thi hành thì bên còn lại được làm gì để bảo đảm quyền lợi của mình, cũng như
phương thức xử sự của nhà nước ra sao... để trên cơ sở đó hình thành cơ chế đảm bảo cho
việc thi hành văn bản công chứng một cách hiệu lực, hiệu quả.
3. Hoàn thiện quy định về ký và điểm chỉ trong văn bản công chứng
Khoản 2 Điều 48 Luật Công chứng năm 2014 quy định “Việc điểm chỉ được thay
thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên
dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công
chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ
được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ
bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng

ngón nào, của bàn tay nào”. Quy định này vẫn chưa bao quát hết trường hợp nếu người
15


yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch bị cụt cả hai bàn tay không thể
ký được và cũng không thể điểm chỉ được thì công chứng viên sẽ phải giải quyết tình
huống này như thế nào khi mà Luật Công chứng vẫn chưa quy định cho trường hợp này.
Do đó, đây được xem là “khoảng trống” trong quy định của Luật Công chứng.
Người bị cả hai tay đều có quyền công dân như mọi người khác, đều có nhu cầu giao dịch
trong các lĩnh vực đời sống, xã hội bình thường hằng ngày. Do đó, đảm bảo quyền cho
những người bị cụt hai tay thực hiện được ý chí của mình trong giao dịch dân sự, Luật
Công chứng nên hoàn thiện theo hướng sau: Đối với những người không thể ký hoặc
điểm chỉ do khuyến khuyết của cơ thể thì phải có 02 người làm chứng ký hoặc điểm chỉ
vào văn bản công chứng để xác nhận ý chí của người yêu cầu công chứng trong giao dịch
dân sự.
4. Hoàn thiện quy định về công chứng bản dịch
Khoản 3 Điều 61 Luật Công chứng năm 2014 quy định “Lời chứng của công chứng
viên đối với bản dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ tên công chứng viên,
tên tổ chức hành nghề công chứng; họ tên người phiên dịch; chứng nhận chữ ký trong bản
dịch đúng là chữ ký của người phiên dịch; chứng nhận nội dung bản dịch là chính xác,
không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội; có chữ ký của công chứng viên và
đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng”. Rõ ràng, quy định này vô hình chung đã
“trói” trách nhiệm công chứng viên đối với nội dung bản dịch phải đảm bảo nội dung bản
dịch là chính xác, không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Quy định chưa khả
thi và rất khó cho công chứng viên vì trên thực tế không phải công chứng viên nào cũng
hiểu nội dung ngôn ngữ tiếng nước ngoài để xác định rằng có hay không nội dung bản
dịch là chính xác, không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Vì thế, nhằm đảm bảo tính thực tiễn và khả thi của quy định, Luật Công chứng nên sửa
đổi quy định tại khoản 3 Điều 61 Luật Công chứng theo hướng công chứng viên chịu
trách nhiệm chứng thực chữ ký của người dịch và nội dung bản dịch thì người dịch phải

chịu trách nhiệm.
5. Hoàn thiện quy định pháp luật về chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp
đồng, giao dịch
16


Điều 51 Luật Công chứng năm 2014 quy định “công chứng việc sửa đổi, bổ sung,
hủy bỏ hợp đồng, giao dịch” là chưa tương thích với quy định tại Điều 422 Bộ luật Dân
sự năm 2015 chỉ quy định sửa đổi, chấm dứt hợp đồng và việc hủy bỏ hợp đồng chỉ là
một trong những trường hợp thuộc chấm dứt hợp đồng. Hay nói cách khác, phạm vi và
nội hàm khái niệm “chấm dứt hợp đồng” bao quát hơn so với khái niệm “hủy bỏ hợp
đồng”. Cụ thể, Điều 422 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định chấm dứt hợp đồng trong các
trường hợp sau: “1. Hợp đồng đã được hoàn thành; 2. Theo thỏa thuận của các bên; 3.
Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp
đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; 4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn
phương chấm dứt thực hiện; 5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp
đồng không còn; 6. Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này; 7.
Trường hợp khác do luật quy định”. Mặt khác, Bộ luật Dân sự cũng không quy định “bổ
sung hợp đồng”. Do đó, quy định tại Điều 51 Luật Công chứng chưa phù hợp với bộ luật
dân sự năm 2015.
Luật Công chứng năm 2014 quy định “bổ sung, hủy bỏ hợp đồng” là chưa phù hợp
và chưa bao quát so với quy định của bộ luật dân sự năm 2015 vì hủy bỏ hợp đồng chỉ là
một trong những trường hợp thuộc chấm dứt hợp đồng theo quy định tại Điều 422 bộ luật
dân sự năm 2015. Mặt khác, bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định “sửa đổi hợp đồng”
mà không quy định “bổ sung hợp đồng”. Do đó, nhằm đảm bảo sự thống nhất với bộ luật
dân sự năm 2015, Điều 51 Luật Công chứng cần được sửa đổi như sau: công chứng việc
sửa đổi, chấm dứt hợp đồng.

C. KẾT LUẬN
17



Từ những nội dung đã phân tích nêu trên, chúng ta có thể khẳng định văn bản công chứng
và giá trị pháp lý của văn bản công chứng có giá trị quan trọng trong việc trong việc đảm
bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, đồng thời, văn bản công chứng có giá trị
thi hành cao đối với các bên có lên quan. Công chứng viên cần tư vấn rõ cho các bên
tham gia giao dịch về những quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình giao kết hợp
đồng, giao dịch để các bên đảm bảo thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mình. Bên
cạnh đó, các nhà làm luật cần tập trung nghiên cứu, hoàn thiện cả về lý luận và quy định
của pháp luật thực định về vấn đề giá trị pháp lý của văn bản công chứng, nhằm xác định
chính xác và nâng cao giá trị của văn bản công chứng, bảo đảm văn bản công chứng có
hiệu lực thi hành, giảm thiểu những gánh nặng cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch, hợp đồng công chứng. Song
song với việc đó, để bảo đảm giá trị đích thực của các văn bản công chứng, cần thiết phải
đổi mới, hoàn thiện đồng bộ các thiết chế bảo đảm cho tổ chức và hoạt động công chứng,
nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước và phát triển các tổ chức xã hội nghề nghiệp
công chứng để phát huy vai trò tự quản của các tổ chức này trong việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công chứng viên và quản lý hoạt động công chứng hiệu quả hơn. Công
chứng viên tại các tổ chức hành nghề công chứng cũng cần phải thường xuyên tham gia
các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao kiến thức, cũng như rèn luyện kỹ năng của bản
thân trong những vấn đề xác nhận giấy tờ giả, người giả …. để đảm bảo an toàn pháp lý
cho các bên khi tham gia giao dịch cũng như bảo vệ cho chính bản thân Công chứng viên
trong việc thực hiện giao kết hợp đồng, giao dịch.

18


D. DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình kỹ năng hành nghề công chứng tập 1 - Nhà xuất bản tư pháp.
2. Luật Công chứng năm 2006.

3. Luật Công chứng năm 2014.
4. Bộ luật dân sự 2005.
5. Bộ luật dân sự 2015.
6. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
7. Nghị định số 45-HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt
động của công chứng Nhà nước.
8. Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng
thực.
9. Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công
chứng mà Nhà nước.

19



×