Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Bài viết số 3 đề 4 lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.25 KB, 5 trang )

I.Dàn ý :
I/Mở bài
-Nêu lên đối tượng:Chiếc áo dài VN
VD: Trên thê giới, mỗi Quốc gia đều có một trang phục của riêng mình.Từ
xưa đến nay, chiếc áo dài đã trở thành trang phục truyền thống của phụ nữ
VN...

II/Thân Bài
1.Nguồn gốc, xuất xứ
+Ko ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ
+Bắt nguồn từ áo tứ thân TQuốc
+Căn cứ vào sử liệu, văn chương, điêu khắc, hội hoa, sân khấu dân
gian.....chúng ta đã thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử
- Tiền thân của áo dài VN là chiếc áo giao lãnh , hơi giống áo từ thân , sau
đó qua lao động, sản xuất chiếc áo giao lãnh mới được chính sửa để phù
hợp vs đặc thù lao động -> áo tứ thân & ngũ thân .

- Người có công khai sáng là định hình chiếc áo dài VN là chúa Nguyễn
Phúc Khoát . Chiếc áo dài đầu tiên được thiết kế tại thời điểm này là sự kết
hợp giữa váy của người Chăm và chiếc váy sườn xám của người trung
hoa....==> áo dài đã có từ rất lâu.
2.Hiện tại
+tuy đã xuất hiện rất nhiều nhữg mẫu mã thời trang, nhưng chiếc áo dài
vẫn giữ được tầm quan trọng của nó, và trở thành bộ lêx phục của các bà
các cô mặc trog các dịp lễ đặc biệt..
+đã được tổ chức Unesco công nhận là 1 di sản Văn hoá phi vật thể, là biểu
tượng của người fụ nữ VN.
3.Hình dáng
-Cấu tạo
*Áo dài từ cổ xuống đến chân
*Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở


thik của người mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo.
*Khuy áo thường dùng = khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống
ngang hông.
*Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần
mắt cá chân.
*áo được may = vải 1 màu thì thân trước thân sau sẽ được trang trí hoa văn
cho áo thêm rực rỡ.
*thân áo may sát vào form người, khi mặc, áo ôm sát vào vòng eo, làm nổi
bật những đường cong gợi cảm của người fụ nữ.
*tay áo dài ko có cầu vai, may liền, kéo dài từ cổ áo--> cổ tay.
*tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển
chuyển.
*áo dài thường mặc với quần đồng màu hoặc màu trắng = lụa, satanh, phi
bóng....với trang fục đó, người fụ nữ sẽ trở nên đài các, quý fái hơn.
-Thợ may áo dài phải là người có tay nghề cao, thợ khéo tay sẽ khiến áo
dài khi mặc vào ôm sát form người.
-Áo dài gắn liền tên tuổi của những nhà may nổi tiếng như Thuý An, Hồng
Nhung, Mỹ Hào, ....., đặc biệt là áo dài Huế màu tím nhẹ nhàng...
-Chất liệu vải phong phú, đa dạng, nhưng đều có đặc điểm là mềm, nhẹ,
thoáng mát. Thường là nhiễu, voan, nhất là lụa tơ tằm...
-Màu sắc sặc sỡ như đỏ hồng, cũng có khi nhẹ nhàng, thanh khiết như
trắng, xanh nhạt...Tuỳ theo sở thích, độ tuổi. Thướng các bà, các chị chọn
tiết dê đỏ thẫm...
3.Áo dài trong mắt người dân VN và bạn bè quốc tế
-Từ xưa đến nay, áo dài luôn được tôn trọng, nâng niu....
-phụ nữ nước ngoài rất thích áo dài
4.Tương lai của tà áo dài

III.Kết bài
Cảm nghĩ về tà áo dài, ...

Từ xưa đến nay, chiếc áo dài đã trở thành trang fục truyền thống của phụ
nữ VN...". Xin trả lời là từ Xưa là từ bao giờ, Cái áo dài VN theo kiểu ngày
nay ta vẫn nói - mới chỉ cách tân từ thời Pháp Thuộc thôi, chứ không phải
từ Xưa đâu....

"Ko ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ".... ở trên đã nói rõ, tác giả của
áo dài VN như ngày nay ta vẫn thấy, bạn có thể tìm được tên tuổi chính xác.

"Bắt nguồn từ áo tứ thân TQuốc".... Áo tứ thân là áo có gốc gác của Việt
nam, cùng với áo mớ ba mớ bẩy, chưa bao giờ áo tứ thân là của TQuốc cả.

"chúng ta đã thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử".... xin nói
rõ là chỉ qua hai giai đoạn lịch sử là Pháp thuộc và DCCH mà thôi.

"Tiền thân của áo dài VN là chiếc áo giao lãnh , hơi giống áo từ thân , sau
đó qua lao động, sản xuất chiếc áo giao lãnh mới được chính sửa để phù
hợp vs đặc thù lao động -> áo tứ thân & ngũ thân .". Đây cũng là điều
không đúng, Áo dài VN được thay đổi theo diễn trình của cuộc sống và xã
hội chứ không phải trải qua Lao động - sản xuất và cũng không phải là loại
áo bảo hộ lao động.

"Người có công khai sáng là định hình chiếc áo dài VN là chúa Nguyễn
Phúc Khoát " đây là điều không thể có được trong thời điểm phong kiến
cực thịnh, không có vị chúa Nguyễn nào ngồi khai sáng ra được bất kỳ
chiếc áo dài nào.

"chiếc áo dài vẫn giữ được tầm quan trọng của nó, và trở thành bộ lêx phục
của các bà các cô mặc trog các dịp lễ đặc biệt..". Ôi, ngày nay chiếc áo dài
không còn được ưa thích mặc trong các lễ phục bằng Váy Ngắn đến
bẹn...và ngay cả trong các nghi lễ quan trọng nhất người ta vẫn dùng bộ lễ

phục thời Hồng hoang ( như trong nghi lễ của FPT mới đây hay cuộc thi
hoa hậu Việt nam với trang phục áo tắm... ).

Ôi chao, chiếc áo dài VN còn nhiều gian truân lắm....

II.Bài viết cho chiếc áo dài :
Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra
sao vì không có tài liệu ghi nhận. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo
những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài
nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia
Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là
tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế
kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo
theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng
trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước
người Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải"[1].

Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ
thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo
mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà
các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về
sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân
xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng
hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân
(gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải,
vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện
cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.

Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn
chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn

có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao
động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân
với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con;
thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân
hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn)
tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là
thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ
cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan
điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học
Đông phương
Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài
Việt Nam vừa truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ
này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi
nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi hay mặc
để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này
không hề rườm rà hay cầu kỳ, "phụ tùng lệ bộ" cũng đơn giản: mặc với một
quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu
cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn
đóng truyền thống đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây
chính là điểm đặc sắc của thứ trang phục truyền thống có một không hai
này.

Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên
ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai
tà xẻ chí trên vòng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo
dáng thướt tha, tôn bật nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa
mềm, lại cũng vừa hở hang. Nó cho thấy thấp thoáng sống eo giữa hai tà vạt
rất gợi cảm và quyến rũ.

Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng

cho một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản
xuất đại trà" cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi
may xong phải qua một lần mặc thử để vi chỉnh nữa mới hoàn thiện.

Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai
ống và khăn đội đầu cũng là quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng
mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng,
hoặc lam thẫm. Suy cứ này có cơ sở vì từ chiếc áo dài ngũ thân trang trọng
cho phụ nữ tỉnh thành chắc chắn phải tồn tại bên cạnh đó một thứ áo trang
trọng cho giới nam để cân xứng. Tuy nhiên theo sắc dụ ban hành từ thời
Chúa Nguyễn Vũ Vương thỉ sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó
và thoáng hơn, "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn
tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống
phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ
tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này). Từ thập
niên 1930 trở đi mới xuất hiện áo dài nữ phục hai vạt, vậy về lý, áo dài nam
phục hai vạt cũng phải xuất hiện khoảng thời gian đó.

Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành
sắc dụ về quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái
nam cho khác biệt với lối ăn mặc của người khách trú. Cơ sở chính của
cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái thay vì bên phải giống như
người Hoa kiều (theo sách Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giả Đào Duy Anh, đã
chú dẫn trên phần đầu mục Lịch Sử Áo Dài). Sự khác biệt thứ hai là trên
chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với
phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có thể
ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của nam giới đã chỉ có hai vạt và được
biến cách trên chiếc áo Tàu "nhà Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ hai
bên từ hông trở xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài
thì được thay đổi chút ít cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục.


Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính chiếc áo dài nữ phục
mới đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa
Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định
của vua Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục). Do đó
khi nói đến áo dài Việt Nam, người trong lẫn ngoài nước thường nghĩ đến
chiếc áo dài nữ phục.

Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ
phục. Ngày nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một
ông cụ già Việt Nam, vận chiếc áo dài nam phục truyền thống. Áo dài nam
phục chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội mang đậm nét truyền thống Việt
Nam. Đặc biệt tại tuần lễ cấp cao APEC (2006) được tổ chức tại Việt Nam,
trong lễ công bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC
đều mặc trang phục truyền thống của nước chủ nhà.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×