Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Quy chế pháp lý về công ty luật theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM NGỌC ANH

QUY CHÕ PH¸P Lý VÒ C¤NG TY LUËT
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM NGỌC ANH

QUY CHÕ PH¸P Lý VÒ C¤NG TY LUËT
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRỌNG ĐIỆP

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Ngọc Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP
LÝ VỀ CÔNG TY LUẬT ............................................................. 8
1.1.

Những vấn đề lý luận về công ty luật và quy chế pháp lý về
công ty luật.................................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Công ty luật............................... 8
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quy chế pháp lý về công ty luật .................. 13

1.1.3. Nguồn pháp luật về Công ty luật ................................................... 15
1.2.

Quy chế pháp lý về công ty luật theo pháp luật một số quốc
gia trên thế giới ........................................................................... 16

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................... 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ CÔNG TY
LUẬT Ở VIỆT NAM .................................................................. 23
2.1.

Thực trạng quy chế pháp lý về công ty luật theo pháp luật
Việt Nam..................................................................................... 23

2.1.1. Thực trạng về các loại hình của công ty luật................................... 23
2.1.2. Thực trạng về thủ tục thành lập công ty luật ................................... 28
2.1.3. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của các công ty luật................. 31
2.1.4. Thực trạng về quản trị công ty luật ................................................ 33
2.1.5. Thực trạng về hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi công ty luật .......... 38
2.1.6. Thực trạng về tạm ngừng hoạt động, chấm dứt hoạt động công
ty luật .......................................................................................... 45


2.2.

Đánh giá hoạt động thực hiện quy chế pháp lý về công ty luật
ở Việt Nam hiện nay ................................................................... 48

2.2.2. Những kết quả đạt được ................................................................ 48
2.2.3. Những hạn chế còn tồn tại............................................................. 54

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.......................................................................... 58
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ CÔNG
TY LUẬT Ở VIỆT NAM............................................................. 59
3.1.

Sự cần thiết hoàn thiện quy chế pháp lý về công ty luật ở Việt
Nam hiện nay .............................................................................. 59

3.1.1. Đáp ứng nhu cầu của thực tiễn ở Việt Nam .................................... 60
3.1.2. Đáp ứng nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về luật sư .............. 61
3.2.

Các phương hướng hoàn thiện quy chế pháp lý về công ty luật .... 61

3.3.

Các giải pháp nhằm hoàn thiện quy chế pháp lý về công ty luật ..... 62

3.3.1. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện quy chế pháp lý về công ty luật... 62
3.3.2. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
công ty luật................................................................................... 71
3.3.3. Nhóm giải pháp nhằm tăng cường nhận thức pháp luật về công
ty luật ........................................................................................... 72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.......................................................................... 73
KẾT LUẬN ............................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 75


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


HD

Hợp danh

HĐTV

Hội đồng thành viên

LDN

Luật doanh nghiệp

QTCT

Quản trị công ty

TGĐ

Tổng Giám đốc

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công ty luật là một hình thức tổ chức hành nghề luật sư. Theo quy định
pháp luật của nhiều nước, hình thức tổ chức hành nghề luật sư phổ biến là văn

phòng luật sư cá nhân và công ty luật. Ngoài hai hình thức phổ biến nêu trên
thì ở nhiều nước cho phép luật sư thành lập công ty luật trách nhiệm hữu hạn
như Mỹ, Pháp, Canada, Bỉ, Singapore, Thái Lan, Đức. Bên cạnh đó, một số
nước như Hy Lạp, Arhentina, Italia, Mexico, Đài Loan, Brazil, Thuỵ Sỹ, Nhật
Bản, hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn không được chấp nhận vì
không phù hợp với chế độ trách nhiệm vô hạn đối với luật sư trong hoạt động
nghề nghiệp. Đối với nghề luật sư ở Anh, Mỹ thì hình thức công ty luật hợp
danh lại rất phổ biến. Một số nước còn quy định hình thức luật sư hành nghề
độc lập mà không cần thành lập tổ chức hành nghề như Mỹ, Anh, Singapore,
Canada hoặc cho phép hai hay nhiều luật sư biện hộ có chung văn phòng, chia
sẻ một số chi phí văn phòng nhưng không tham gia hợp danh với nhau như
Italia, Đài Loan, Anh, Pháp, Thuỵ Sỹ, Nhật...
Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Luật sư năm 2006 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012 thì tổ chức hành nghề
luật sư bao gồm: Văn phòng Luật sư do một Luật sư thành lập được tổ chức
và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Luật sư thành lập văn
phòng Luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Trưởng văn phòng là người
đại diện theo pháp luật của văn phòng; Công ty luật bao gồm công ty luật
hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Thành viên của công ty luật
phải là Luật sư. Công ty luật hợp danh do ít nhất hai Luật sư thành lập. Công
ty luật hợp danh không có thành viên góp vốn. Công ty luật trách nhiệm hữu

1


hạn bao gồm công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do ít
nhất hai Luật sư thành lập và công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do một Luật sư thành lập và làm chủ sở hữu. Hiện nay, số lượng tổ
chức hành nghề luật sư ở nước ta ngày càng tăng cho thấy nhu cầu sử dụng

dịch vụ pháp lý của cá nhân, tổ chức cũng đang tăng lên một cách rõ rệt.
Việt Nam cũng không ngừng hoàn thiện mình về phương diện pháp luật về
hình thức tổ chức hành nghề luật sư nói chung và pháp luật về công ty luật
nói riêng nhằm tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển và nâng cao
hiệu quả hoạt động của công ty luật.
Trong những năm gần đây, những quy định pháp luật về công ty luật đã
có những thành quả tích cực mà biểu hiện sinh động là việc sửa đổi, bổ sung
kịp thời các văn bản pháp luật còn khiếm khuyết nhằm hoàn thiện pháp luật.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy các văn bản pháp luật này cũng không tránh khỏi
việc gây nên nhiều khó khăn cho quá trình thực hiện có sự mâu thuẫn, không
thống nhất giữa Luật Luật sư, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Luật sư và
Luật Doanh nghiệp... Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả lựa chọn đề tài
“Quy chế pháp lý về công ty luật theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn
nghiên cứu mong muốn có cái nhìn sâu hơn về vấn đề quan tâm.
2. Tình hình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu ngoài nước về các vấn đề pháp lý của công
ty nói chung và công ty luật nói riêng là rất đa dạng, ở các khía cạnh khác
nhau. Các nghiên cứu để cung cấp một nền tảng lý luận và thực tiễn về các
công ty góp phần làm rõ những vấn đề pháp lý cơ bản, cơ cấu tổ chức nội bộ
của các loại hình công ty. Trong đó, chủ đề nghiên cứu về công ty luật cũng
được các tác giả ngoài nước nghiên cứu sâu sắc, toàn diện do sự ra đời và
phát triển rất sớm của nghề luật sư và các dịch vụ pháp lý. Ở Việt Nam, thì

2


nghề luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư gần đây mới được quan tâm
phát triển trên cơ sở đòi hòi khách quan của sự phát triển kinh tế và xã hội.
Đến nay, các công trình nghiên cứu trong nước tiêu biểu liên quan trực
tiếp đến các vấn đề pháp lý của công ty luật có thể kể đến như:

Đề tài khoa học cấp Bộ của tác giả Nguyễn Văn Thảo (2003): “Cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề
luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” và Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ (năm 2005) do Tác giả Nguyễn Văn Tuân làm chủ nhiệm: “Dịch vụ pháp
lý ở Việt Nam, thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển. Các đề tài
nghiên cứu này đã tiếp cận, phân tích các khía cạnh của hoạt động cung cấp
dịch vụ pháp lý của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trên cả phương diện
lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật. Qua các nghiên cứu
của mình, các tác giả đã đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện các quy
định pháp luật điều chỉnh hoạt động của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư
nhằm đáp ứng đòi hỏi của nhu cầu thực tiễn đặt ra. Mặc dù những công trình
nghiên cứu này đến nay nhiều nội dung đã không còn tính thời sự bởi trên cơ
sở của Pháp lệnh luật sư năm 2001, nhưng một số kiến nghị, đề xuất vẫn còn
giá trị tham khảo cao để hoàn thiện pháp luật hiện hành.
Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Phan Trung Hoài (2003), “Cơ sở lý
luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay”, Học
viện Chính trị Hồ Chí Minh. Các nghiên cứu trong luận án đã phân tích các
cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về luật sư, đồng thời
định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động của luật sư và tổ chức hành
nghề luật sư ở Việt Nam. Công trình đã nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về
pháp luật luật sư trước nhu cầu của thực tiễn và yêu cầu của cải cách tư pháp
ở Việt Nam.

3


Bên cạnh đó, các bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã
đề cập, phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến hoạt động của luật sư và
tổ chức hành nghề luật sư. Như: Nguyễn Hà Trang (2011), “Hình thức hành
nghề luật sư”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề: Pháp luật về luật

sư, tr. 80-81. Gần đây, tác giả Đồng Thái Quang (2018), “Công ty luật hợp
danh trách nhiệm hữu hạn - Một mô hình tổ chức kinh doanh mới của luật
sư”, Tạp chí Pháp luật và phát triển. Tác giả Nguyễn Quý Trọng và Nguyễn
Minh Đức (2017), “Quản trị nội bộ công ty luật hợp danh - góc nhìn từ thực
tiễn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Các công trình trên đã đưa ra và phân
tích những tồn tại của pháp luật hiện hành và đưa ra những định hướng
hoàn thiện như có thể tham khảo kinh nghiệm của các nước để nghiên cứu
và tạo khung khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động của loại hình tổ chức
hành nghề luật sư mới nhằm thu hút được các nguồn vốn đầu tư, vừa đảm
bảo quyền tự do và tăng khả năng lựa chọn hình thức kinh doanh của các
nhà đầu tư đồng thời cũng phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. Một
số kết quả nghiên cứu được đề cập trong các công trình này, được luận văn
kế thừa và phát triển.
Có thể thấy, đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu một cách cụ
thể, sâu sắc, mang tính hệ thống liên quan đến các vấn đề lý luận và thực
trạng pháp luật hiện hành liên quan đến quy chế pháp lý đối với loại hình
công ty luật. Từ đó, tìm ra những tồn tại, bất cập trong các quy định pháp luật
và đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện quy chế pháp lý về công ty luật
nhằm thực thi có hiệu quả trong thực tiễn. Vì thế, tác giả luận văn này, mong
muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra những nguyên nhân của bất cập, tồn tại của
quy chế pháp lý về công ty luật và định hướng, đưa ra giải pháp toàn diện để
hoàn thiện chế định này ở Việt Nam hiện nay.

4


3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ những nội dung cơ bản của
pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, chỉ ra những điểm bất cập cũng như

thực tiễn hoạt động của công ty luật ở Việt Nam trong bối cảnh đất nước hội
nhập như hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty
luật, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty luật ở Việt Nam.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục đích cuối cùng của luận văn, cần phải hoàn thành các
mục tiêu cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ được các vấn đề lý luận về quy chế pháp lý về công ty
luật như: khái niệm công ty luật, đặc điểm công ty luật, khái niệm quy chế
pháp lý về công ty luật, đặc điểm quy chế pháp lý về công ty luật…, những
nội dung cơ bản của quy chế pháp lý về công ty luật, so sánh quy chế pháp lý
về công ty luật ở Việt Nam với một số nước trên thế giới.
- Hệ thống hóa các quy định pháp luật thực định về công ty luật, bình
luận, đánh giá các quy định đó.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện quy chế pháp lý về
công ty luật theo pháp luật Việt Nam.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
4.1. Tính mới của đề tài
Trong những năm qua, có khá nhiều đề tài khoa học cũng như bài viết
liên quan đến vấn đề pháp luật về hình thức tổ chức hành nghề luật sư nói
chung và pháp luật về công ty luật nói riêng. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu khoa học chỉ đề cập nhiều đến các vấn đề lý luận liên quan đến tổ chức
luật sư và hành nghề luật sư. Chính vì vậy đề tài nghiên cứu “Quy chế pháp lý
về công ty luật theo pháp luật Việt Nam” sẽ tập trung nghiên cứu một cách có

5


hệ thống, chuyên sâu, toàn diện nội dung quy chế pháp lý về công ty luật theo
pháp luật Việt Nam.
4.2. Những đóng góp của đề tài

Đề tài nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quy
chế pháp lý về công ty luật ở Việt Nam với tư cách là hành lang pháp lý cho
hình thức hành nghề luật sư. Từ kết quả nghiên cứu vận dụng đưa ra kiến nghị
hoàn thiện pháp luật nhằm điều chỉnh một cách toàn diện các quy định pháp
luật về công ty luật, các quy định của Luật Luật sư, Luật Doanh nghiệp cho
phù hợp với đặc trưng của nghề luật sư cũng như thông lệ trên thế giới, nâng
cao hiệu quả hoạt động của các công ty luật ở Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn đi sâu nghiên cứu các quy chế pháp lý về công ty luật cũng
như thực trạng pháp luật về công ty luật.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đối tượng nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu
các nội dung cơ bản của pháp luật về công ty luật thể hiện trong Luật Luật
sư, Luật Doanh nghiệp, và trong các văn bản pháp luật của một số nước
trên thế giới để từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực này.
6. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những nội dung sau đây:
- Những vấn đề lý luận về quy chế pháp lý về Công ty Luật;
- Thực trạng quy chế pháp lý về công ty luật ở Việt Nam;
- Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về công ty luật ở Việt Nam.

6


6.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sử dụng phương pháp tư duy của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử theo tư tưởng Mác – Lênin nhà nước và pháp luật
và một số các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp suy luận, phương pháp so sánh và phương pháp thống kê
để giúp nghiên cứu đề tài một cách hệ thống và hiệu quả.
7. Kết cấu của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn dự kiến được kết cấu theo nội dung sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quy chế pháp lý về Công ty Luật;
Chương 2: Thực trạng quy chế pháp lý về công ty luật ở Việt Nam;
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về công ty luật ở Việt Nam.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ
VỀ CÔNG TY LUẬT
1.1. Những vấn đề lý luận về công ty luật và quy chế pháp lý về
công ty luật
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Công ty luật
Pháp luật các quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật tại Việt Nam
chưa có quy định cụ thể nào về khái niệm công ty luật. Tuy nhiên để đưa ra
một khái niệm cụ thể về công ty luật thì trước hết phải hiểu rõ khái niệm về
“công ty” cũng như tính chất đặc thù của nghề luật sư.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm công ty, như Luật
Công ty Anh tại phần 1 mục 1 quy định: “Công ty nghĩa là công ty được
thành lập và đăng ký theo luật này…”. Luật công ty của Úc cũng có quy định
tương tự. Luật công ty Nhật Bản lại không đưa ra khái niệm mà quy định
công ty nghĩa là: Công ty cổ phần, Hợp danh thông thường, Hợp danh trách
nhiệm hữu hạn và Công ty TNHH. Còn theo Luật Công ty 1990 Việt Nam

cũng có quy định tương tự khi đưa ra khái niệm chung về hai loại hình Công
ty cổ phần và Công ty TNHH quy định như sau: “là doanh nghiệp trong đó
các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương
ứng phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi phần vốn góp của mình vào trong công ty ”.
Khái quát các khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm công ty như sau:
“Công ty là sự liên kết của hai hay nhiều người (cá nhân hay pháp nhân) bằng
một sự kiện pháp lý trong đó các bên thoả thuận với nhau sử dụng tài sản hay
khả năng của họ nhằm tiến hành các hoạt động để đạt mục tiêu chung”.
Xuất phát từ khái niệm công ty và với tính chất đặc thù của nghề luật
sư đó là: hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề
8


nghiệp của mình; Người muốn thành lập công ty luật phải là Luật sư và
ngành, nghề kinh doanh trong công ty luật phải đáp ứng đủ các điều kiện của
luật định, có thể tổng quát khái niệm công ty luật như sau: Công ty luật là một
loại hình công ty do một hoặc nhiều luật sư tự bỏ vốn hoặc cùng nhau góp
vốn để thành lập một pháp nhân với mục đích chung là kinh doanh dịch vụ
pháp lý. Tùy theo loại hình công ty, thành viên công ty có thể chịu trách
nhiệm về khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn
đã góp vào công ty hoặc chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về các nghĩa
vụ của công ty.
Công ty luật có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, đặc thù của Công ty luật so với các công ty hoạt động trong
lĩnh vực khác đó là cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội. Khác với các công ty
thương mại được thành lập trong Luật Doanh nghiệp có quyền thực hiện các
hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Thì Công ty
luật chỉ được cung cấp dịch vụ pháp lý bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp
luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác như:

giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính;
giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác
nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác
theo quy định của pháp luật.
Cùng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các luật sư trong các công
ty luật dựa trên các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của khách hàng “hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm mục đích góp
phần bảo vệ công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; góp
phần phát triển kinh tế, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh” [11]. Công ty luật đứng giữa khách hàng với các chủ
thể khác trong xã hội và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

9


Thứ hai, Chủ sở hữu Công ty luật hoặc thành viên công ty luật phải là
luật sư đáp ứng các quy định về năng lực hành vi dân sự, về trình độ năng
lực, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp. Tiêu chuẩn này được quy định tùy
thuộc vào luật của từng quốc gia. Sự tham gia của luật sư là điều kiện bắt
buộc đối với việc thành lập công ty luật dù số lượng tối thiểu có thể có sự
khác nhau ở trong từng nền tài phán cũng như đối với từng loại công ty luật.
Ví dụ, công ty luật HD ở Việt Nam phải do ít nhất hai luật sư thành lập. Công
ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do ít nhất hai luật sư thành
lập. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một luật sư thành lập
và làm chủ sở hữu [18, Điều 34].
Thứ ba, công ty luật là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Công ty
luật thường là một pháp nhân đối nhân. Ngay cả khi có yếu tố đối vốn thì
yếu tố này có vai trò khiêm tốn. Công ty luật phải được đăng ký dù cơ quan
đăng ký có thể khác nhau. Ví dụ như ở một số quốc gia, công ty luật được
đăng ký tại tòa án, song ở một số quốc gia như ở Việt Nam, công ty luật

được đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có Đoàn luật sư
mà Giám đốc công ty luật là thành viên [18, Điều 35]. Việc đăng ký hoạt
động của công ty luật khác việc đăng ký thành lập đối với các công ty
thương mại hay các pháp nhân khác.
Thứ tư, các công ty luật thể hiện dưới những hình thức pháp lý nhất
định. Hầu hết pháp luật của các quốc gia và ở Việt Nam đều quy định các
công ty luật phải được thành lập dưới những hình thức nhất định. Đây cũng là
đặc thù trong hoạt động của công ty luật. Có nghĩa các sáng lập viên là các
luật sư buộc phải thành lập loại hình công ty nhất định theo quy định của pháp
luật. Theo pháp luật Việt Nam, công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và
công ty luật trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty luật trách nhiệm hữu hạn
một thành viên và công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên).

10


Thứ năm, Chế độ chịu trách nhiệm của công ty luật cũng phụ thuộc vào
loại hình doanh nghiệp và quy định pháp luật của mỗi quốc gia. Công ty luật
trách nhiệm hữu hạn chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của các thành
viên. Công ty luật hợp danh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình,
nếu nghĩa vụ lớn hơn tài sản công ty, các thành viên hợp danh phải liên đới
chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đó bằng tài sản cá nhân. Trong việc cung cấp
dịch vụ pháp lý, công ty luật là một chủ thể của Hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Công ty luật cung cấp các dịch vụ pháp lý tới khách hàng sau đó giao cho luật
sư thực hiện các dịch vụ đó. Khách hàng là người sử dụng dịch vụ và có trách
nhiệm thanh toán cho công ty luật.
Vai trò của công ty luật trong nền kinh tế thị trường hiện nay
Xuất phát từ đặc thù của hoạt động hành nghề luật sư, vai trò của các
công ty luật trong nền kinh tế cũng có những khác biệt so với các loại hình
công ty thương mại khác. Hành nghề luật sư được hiểu là hoạt động của luật

sư thực hiện cung cấp các dịch vụ pháp lý bao gồm các hoạt động cụ thể như:
tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và
làm các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (bao
gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành
chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật,
xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc
khác theo quy định của pháp luật). Vì thế, vai trò của công ty luật nói riêng và
của các tổ chức hành nghề luật sư nói chung là rất quan trọng trong nền kinh
tế thị trường hiện nay ở Việt Nam.
Thứ nhất, hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý hầu hết là của các tổ
chức hành nghề luật sư. Một luật sư có thể một mình hoặc cùng với các luật
sư khác thành lập tổ chức hành nghề luật sư theo một trong các hình thức sau
đây: Văn phòng luật sư: Do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động

11


theo loại hình thức doanh nghiệp tư nhân; Công ty luật hợp danh: Do ít nhất
hai luật sư thành lập và không có thành viên góp vốn; Công ty luật trách
nhiệm hữu hạn một thành viên: Do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu;
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: Do ít nhất hai luật sư
thành lập và làm chủ sở hữu.
Pháp luật hiện hành ở Việt Nam cũng cho phép luật sư hành nghề với
tư cách cá nhân, tức là làm luật sư theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ
chức không phải là tổ chức hành nghề luật sư (như các doanh nghiệp hoặc
ngân hàng). Tuy nhiên, luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không được
cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức khác ngoài cơ quan,
tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động, trừ trường hợp tham gia tố tụng hình
sự hoặc trợ giúp pháp lý theo chỉ định của cơ quan tố tụng hoặc Đoàn luật sư
mà luật sư là thành viên.

Thứ hai, các công ty luật hiện đang hoạt động hành nghề ở hầu hết các
lĩnh vực đời sống xã hội. Dịch vụ pháp lý của các công ty luật nhằm đáp ứng
các nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý đa dạng của các chủ thể trong xã hội.
Khi nền kinh tế phát triển và hội nhập, thì việc xây dựng và phát triển các
công ty luật có đội ngũ luật sư đông về số lượng, mạnh về chất lượng, có khả
năng đáp ứng các nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của khách hàng và cộng
đồng xã hội là nhu cầu rất cần thiết.
Thứ ba, thông qua hoạt động của mình, các công ty luật với đội ngũ
luật sư nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh. Về bản chất, nghề
luật sư không chỉ đơn thuần thể hiện tinh thần phục vụ khách hàng mà còn thể
hiện mối liên hệ và phối hợp giữa luật sư với các cơ quan nhà nước trong việc
bảo vệ công lý, bảo vệ luật pháp. Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp
lý khác của luật sư “là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập
môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật,

12


đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị
trường dịch vụ, giải quyết việc làm. Sự tham gia tích cực của các luật sư
trong các dự án đầu tư, các giao dịch kinh doanh, thương mại không chỉ góp
phần huy động nội lực mà còn thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” [2].
Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của công ty luật không những có
khả năng giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn kinh tế - xã hội một cách văn
minh, làm cho xã hội ổn định, an toàn cho mọi người mà còn góp phần vào
việc phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra nếu như được sử dụng ngay từ giai
đoạn chuẩn bị đầu tư sản xuất - kinh doanh, hay tham gia vào bất kỳ một quá
trình nào đó của xã hội.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quy chế pháp lý về công ty luật
Thuật ngữ “Quy chế pháp lý” thông thường được dùng để chỉ tổng thể

các quy phạm pháp luật liên quan tới một đối tượng điều chỉnh nhất định.
Theo Đại từ điển tiếng Việt:
Quy chế là những điều đã được quy định thành chế độ để mọi
người theo đó mà thực hiện trong những hoạt động nhất định
nào đó [26, tr.550].
Theo Từ điển Luật học:
Quy chế là một văn bản hoặc toàn thể các văn bản có chứa quy
phạm pháp luật hoặc quy phạm xã hội do cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự nhất định, có hiệu lực
bắt buộc thi hành đối với các thành viên của cơ quan, tổ chức thuộc
phạm vi điều chỉnh của quy chế [25, tr.624].
Qua nghiên cứu cho thấy, quy chế pháp lý là một thuật ngữ được sử
dụng nhiều trong khoa học pháp lý. Quy chế pháp lý có nghĩa khác với nội
quy. Quy chế chính là thuật ngữ chỉ tổng thể các quy định được đặt ra để điều
chỉnh một đối tượng nhất định, có hiệu lực bào trùm toàn bộ một hệ thống

13


pháp luật nhất định. Còn nội quy được dùng để chỉ quy tắc ứng xử mang tính
nội bộ cho một tập thể nhất định liên quan tới một hoạt động nhất định. Như
vậy, có thể hiểu đơn giản Quy chế pháp lý về công ty luật được hiểu là tổng
thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh về các nội dung trong công ty luật
nhằm tạo khung pháp lý cần thiết để công ty luật hoạt động một cách hiệu
quả, bao gồm:
Thứ nhất, các quy định về các loại hình của công ty luật;
Thứ hai, các quy định về trình tự, thủ tục, hồ sơ thành lập công ty luật;
Thứ ba, các quy định về tổ chức và hoạt động của các công ty luật;
Thứ tư, các quy định về quản trị công ty luật;
Thứ năm, các quy định về hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi công ty luật;

Thứ sáu, các quy định về tạm ngừng hoạt động, chấm dứt hoạt động
công ty luật.
Đặc điểm quy chế pháp lý về công ty luật
Quy chế pháp lý về công ty luật được điều chỉnh bởi một hệ thống văn
bản pháp luật điển hình trong đó là Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung
năm 2012) và Luật Doanh nghiệp năm 2014. Pháp luật quy định về các nội
dung trong công ty luật bao gồm: quy định về các loại hình của công ty luật;
quy định về thủ tục thành lập công ty luật; Quy định về tổ chức và hoạt động
của các công ty luật; Quy định về quản trị công ty luật; Quy định về hợp nhất,
sáp nhập và chuyển đổi công ty luật; Quy định về tạm ngừng hoạt động, chấm
dứt hoạt động công ty luật. Các quy định trên đã tạo khung pháp lý cần thiết
để công ty luật hoạt động một cách hiệu quả. Với những quy định mang tính
nguyên tắc thì công ty luật có quyền tự quyết định trong khuôn khổ những
quy định đó. Các quy định của công ty luật rõ ràng, đồng bộ, minh bạch sẽ là
nhân tố thuận lợi cho quá trình phát triển của công ty luật.

14


1.1.3. Nguồn pháp luật về Công ty luật
Nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp căn
cứ pháp lý mà các chủ thể thực hiện hành vi thực tế, nói cách khác, nguồn của
pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lý cho
hoạt động của cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền cũng như các
chủ thể khác trong xã hội [23, tr.238].
Nguồn pháp luật chủ yếu và trực tiếp của chế định công ty luật là Luật
Luật sư. Luật Luật sư năm 2006 được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông
qua ngày 29/6/2006. Luật Luật sư quy định về nguyên tắc, điều kiện, phạm vi,
hình thức hành nghề, tiêu chuẩn, quyền, nghĩa vụ của luật sư, tổ chức hành
nghề luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, quản lý hành nghề luật

sư, hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt
Nam. Luật Luật sư năm 2006 đã kế thừa những điểm tiến bộ được quy định
tại Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện và với
những thay đổi lớn trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, Luật Luật sư
năm 2006 vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, đặc biệt khi Việt Nam tham
gia và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) thì những yêu cầu đổi mới tổ chức hành nghề luật sư là tất yếu. Luật
Luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012 là để đáp ứng yêu cầu đó.
Một nguồn luật quan trọng khác cho chế định công ty luật là Luật
Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành luật này. Luật Doanh nghiệp 2014 quy định các loại hình doanh nghiệp,
cơ cấu tổ chức và cấu trúc phân chia quyền lực trong các doanh nghiệp, vốn
và các phương thức huy động vốn mà doanh nghiệp được quyền thiết kế và
huy động. Các loại hình doanh nghiệp quy định trong Luật Doanh nghiệp năm
2014 được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực. Trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý
và hành nghề luật sư, các luật sư lựa chọn cho mình trong số đó loại hình

15


doanh nghiệp phù hợp để hành nghề luật sư. Do đó, các quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của công ty luật ở nước ta vì chúng
xác định nền tảng tổ chức cho sự tồn tại của công ty luật.
Luật Luật sư và Luật Doanh nghiệp là hai nguồn pháp luật quan trọng
để chế định về công ty luật hoàn thiện theo đúng nghĩa.
1.2. Quy chế pháp lý về công ty luật theo pháp luật một số quốc gia
trên thế giới
Ở Vương quốc Anh. Các cơ sở được công nhận là những công ty luật có
tất cả người quản lý và người góp vốn là luật sư đó là: công ty HD, công ty

HD TNHH, và công ty TNHH:
Trước đây hầu hết các công ty luật được thành lập dưới hình thức công
ty HD. Công ty HD không có sự phân chia giữa tài sản của công ty với các
luật sư HD (luật sư thành viên). Do đó, chủ nợ có thể yêu cầu các luật sư
thành viên dùng tài sản riêng của mình để thanh toán những nghĩa vụ nợ cho
dù nghĩa vụ nợ đó do các luật sư thành viên khác gây nợ. Khi công ty HD giải
thể, các luật sư thành viên sẽ không có bất kỳ sự bảo vệ nào trước những chủ
nợ. Công ty HD TNHH là loại hình công ty được sử dụng phổ biến hiện nay.
Tuy nhiên, khác với công ty HD, công ty HD TNHH phải:
+ Đăng ký với Phòng đăng ký công ty (Companies House).
+ Nộp tờ khai hàng năm cho Phòng đăng ký công ty.
+ Nộp hồ sơ tài khoản với Phòng đăng ký công ty.
Công ty HD TNHH phải được thành lập và đăng ký tại Anh và xứ
Wales, Scotland hoặc Bắc Ailen theo quy định của Luật về công ty HD TNHH
năm 2000.
Công ty TNHH: Cũng giống như công ty HD TNHH, công ty chịu TNHH
trong số vốn góp của mình. Tuy nhiên, cấu trúc của loại công ty này thường

16


có tính phân cấp hơn so với công ty HD TNHH. Công ty TNHH được thành
lập và đăng ký tại Anh và xứ Wales, Scotland hoặc Bắc Ailen theo quy định
Luật công ty năm 2006 [5, tr.75-76]
Ở Hoa Kỳ. Cũng giống như ở Vương quốc Anh, hình thức công ty HD
ở Hòa Kỳ cũng rất phổ biến.
Thành viên công ty HD thì phải có tư cách luật sư. Điều kiện để trở
thành luật sư theo pháp luật Hoa Kỳ cơ bản là thống nhất. Phần lớn các bang
của Hoa Kỳ đều quy định sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học luật muốn hành
nghề luật sư phải trải qua một kỳ thi vào Đoàn luật sư. Pháp luật. Pháp luật

không bắt buộc luật sư phải hành nghề trong một công ty HD. Lý do được
đưa ra đó là, công ty HD chủ yếu xác định tính chịu trách nhiệm vô hạn của
các luật sư thành viên. Tính chịu trách nhiệm vô hạn không chỉ đảm bảo sự
liên kết trách nhiệm giữa các thành viên mà còn đảm bảo hạn chế rủi ro cho
khách hàng khi công ty phá sản. Nghề luật sư là phải chịu trách nhiệm vô hạn
đối với hoạt động nghề nghiệp của mình. Vì vậy, hình thức công ty TNHH
không được chấp nhận vì hình thức này không phù hợp với nghề luật sư.
Quan điểm này tương đồng với quan điểm của các nước như: Ở nhiều nước
như Hy Lạp, Arhentina, Italia, Mexico, Đài Loan, Brazil, Thuỵ Sỹ, Nhật
Bản… Các nước này cho rằng, luật sư là nhà chuyên nghiệp, có trách nhiệm
cao trước khách hàng cho nên hình thức tổ chức hành nghề luật sư chủ yếu
dưới hai hình thức là Công ty HD và Văn phòng cá nhân.
Bên cạnh hình thức HD, luật sư có thể hành nghề dưới tất cả các hình
thức của các công ty kinh doanh như công ty TNHH, công ty CP, công ty liên
doanh… [5, tr.77-78]
Ở Trung Quốc: Theo điều 14 Luật Luật sư của Trung Quốc quy định về
điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư. Theo đó luật sư thành lập, tham
gia thành lập công ty luật phải có số năm kinh nghiệm nhất định là 05 năm.

17


Công ty luật phải có tên gọi, trụ sở hoạt động và có Điều lệ công ty... Tổ chức
hành nghề luật sư do một nhóm luật sư thành lập phải có từ 03 luật sư trở lên
và chỉ cần có từ 03 năm kinh nghiệm hành nghề luật sư. Bên cạnh đó, điểm
khác biệt là để thành lập công ty luật ở Trung Quốc phải có vốn pháp định.
Mức vốn này theo quy định hiện hành là 10.000 nhân dân tệ, tương đương
khoảng 350.000.000 VNĐ. Đồng thời, các quy định về kinh nghiệm hành
nghề, điều kiện thành lập công ty do 01 luật sư thành lập có yêu cầu cao hơn
so với công ty do nhiều luật sư thành lập nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của

khách hàng trong quá trình công ty này cung cấp dịch vụ pháp lý trên thị
trường (về vốn pháp định và số năm kinh nghiệm hành nghề luật sư).
Về quản lý, điều hành công ty luật theo quy định của Trung Quốc chủ
yếu được dẫn chiếu và áp dụng các quy định về doanh nghiệp được quy định
tại luật doanh nghiệp. Theo đó, công ty luật được tổ chức, quản lý bởi hội
đồng gồm các luật sư thành viên.
- Các luật sư thành viên chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với
nghĩa vụ tài sản và khoản nợ công ty. Trong quá trình hoạt động của luật sư,
nếu luật sư vi phạm pháp luật hay cam kết với khách hàng trong việc thực
hiện nghĩa vụ thì có thể bị áp dụng các hình thức kỷ luật. Thực tế cho thấy,
thẩm quyền áp dụng kỷ luật đối với luật sư thuộc về cơ quan hành chính tư
pháp thuộc Bộ Tư pháp [21, tr.23]. Cơ quan hành chính tư pháp sau khi nhận
được đơn khiếu nại từ khách hàng, hoặc biết được luật sư hoặc văn phòng luật
sư vi phạm luật hoặc các quy định khác họ sẽ điều tra cụ thể việc cáo buộc và
sau đó quyết định áp dụng hình phạt. Nếu luật sư không đồng ý với quyết
định đó, luật sư có thể kiện lên cơ quan hành chính cấp cao hơn, nếu vẫn
không đồng ý với quyết định đó thì luật sư hoặc hãng luật có quyền yêu cầu
tòa hành chính tư pháp xem xét theo thủ tục tố tụng. Sau khi nhận được đơn
yêu cầu, tòa hành chính tư pháp sẽ thành lập một hội đồng lâm thời để xem

18


xét vụ việc trong một thời gian nhất định. Khi xét xử, cán bộ điều tra vụ việc
sẽ làm nhiệm vụ như một công tố viên, còn luật sư và hãng luật ở vị trí như
luật sư bào chữa. Cuối cùng hội đồng xét xử sẽ cung cấp một bản báo cáo chi
tiết bao gồm cả đề xuất phương án giải quyết vụ việc. Trên cơ sở bản đề xuất
này, tòa hành chính tư pháp sẽ ra quyết định cuối cùng [21, tr.23].
Qua nghiên cứu quy chế pháp lý về công ty luật của một số quốc gia
nói trên, so sánh với quy chế pháp lý công ty luật ở Việt Nam cho thấy:

* Về điều kiện thành lập công ty luật
Nhìn chung các quốc gia đều quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, điều kiện
trở thành luật sư, điều kiện hành nghề luật sư. Đa số pháp luật các nước đều
quy định tiêu chuẩn người muốn trở thành luật sư bao gồm: Thứ nhất, Tiêu
chuẩn về chuyên môn pháp lý là phải có bằng cử nhân luật, được đào tạo nghề
luật sư, trải qua thời gian tập sự hành nghề luật sư và qua kỳ thi công nhận đủ
điều kiện hành nghề luật sư; Thứ hai, Tiêu chuẩn về đạo đức, sức khỏe. Đa số
pháp luật các nước cũng thống nhất quy định điều kiện hành nghề luật sư bao
gồm hai điều kiện: Có chứng chỉ hành nghề luật sư (hoặc chứng chỉ đủ điều
kiện hành nghề luật sư); Là thành viên một Đoàn luật sư. Tuy nhiên, ở mỗi
nước cũng có những quy định khác nhau: Về đào tạo nghề, thời gian đào tạo
nghề luật sư, thời gian tập sự hành nghề luật sư. Đây là những quy định ảnh
hưởng trực tiếp đến tiêu chuẩn, điều kiện trở thành luật sư. Ví dụ: Ở Anh, thời
gian đào tạo 12 tháng, tập sự 24 tháng; Hoa Kỳ, thời gian đào tạo luật và nghề
luật sư là 03 năm, không phải tập sự hành nghề luật sư; (ii) Anh và Hoa Kỳ
cho phép người có bằng cử nhân chuyên ngành khác, không phải cử nhân luật
được đào tạo nghề luật sư.
Ở Việt Nam, pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư đã từng bước
quy định cụ thể hóa các tiêu chuẩn, điều kiện trở thành luật sư, điều kiện hành
nghề luật sư. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì công dân Việt Nam

19


×