Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Hoạt Động Cho Vay Ngân Hàng TP.HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.56 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

DƯƠNG TIẾN DŨNG

LUẬNVĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2001


MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

LỜI MỞ ĐẦU:
I/ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:

01

II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

02

III/ ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

02

IV/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:


03

V/ KẾT CẤU NỘI DUNG LUẬN ÁN:

03
04

CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG.
1.1/ Quan hệ tín dụng.

04

1.2/ Chức năng của tín dụng:

08

1.2.1/ Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả.

08

1.2.2/ Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội.

09

1.2.3/ Kiểm soát các hoạt động kinh tế.

09

1.3/ Vai trò của tín dụng.


10

1.4/ Phân loại tín dụng.

12

1.5/ Rủi ro tín dụng.

14
17

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC
NHTM Ở TP HỒ CHÍ MINH TRONG CÁC NĂM QUA.
2.1/ Tình hình KTXH trên đòa bàn TPHCM :

17

2.2/ Thực trạng tín dụng và một số tín hiệu báo động đỏ về nợ quá

18

hạn ở các NHTM trên đòa bàn TPHCM kể từ năm 1990.
23

2.3/ nh hưởng của nợ quá hạn đến hoạt động ngành ngân hàng và tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.

1



25

2.4/ Các nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn.
2.4.1/ Những nguyên nhân do lỗi chủ quan của ngân hàng.

25

2.4.2/ Những nguyên nhân phát sinh từ phía khách hàng vay vốn.

27

2.4.3/ Những nguyên nhân liên quan đến sự thiết sót trong nội dung

31

các văn bản pháp luật hiện hành.
32

2.4.4/ Những nguyên nhân khác.

32

2.4.4.1/ Sự quản lý của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng
cấp dưới, các ngân hàng cổ phần còn chưa chặt chẽ.
2.4.4.2/ Trình độ dân trí thấp, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế.

33

2.4.4.3/ Xu hướng quốc tế hoá tội phạm.


34

2.4.4.4/ nh hưởng khủng hoảng kinh tế khu vực.

35

2.4.4.5/ Vai trò hạn chế của trung tâm phòng chống rủi ro.

36

2.4.4.6/ Sự thay đổi chính sách quản lý kinh tế.

36

2.4.4.7/ Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn nhiều sơ hở.

37

2.4.4.8/ Bò ảnh hưởng của thiên tai.

38
40

CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
3.1 Nhóm biện pháp liên quan đến yếu tố con người.

40

3.2/ Nhóm biện pháp mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ.


41

3.2.1/ Gia hạn nợ, giãn nợ, ép nợ hoặc khởi kiện.

41

3.2.2/ Quản lý chặt chẽ công tác giải ngân.

44

3.2.3/ Hợp tác trong xử lý nợ quá hạn.

45

3.2.4/ Chấn chỉnh lại hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro.

46

3.2.5/ Hạn chế tình trạng một số doanh nghiệp cố tình vay ở nhiều

48

ngân hàng.
50

3.2.6/ Mạnh dạn áp dụng hình thức đảm bảo “để đương” đối với các

2



tài sản có giá trò ngang bằng với nợ vay và lãi.
50

3.3/ Nhóm biện pháp liên quan đến môi trường pháp lý và sự phối hợp
giữa các cơ quan hữu quan.

50

3.3.1/ Nhanh chóng kiện toàn và đưa vào hoạt động cơ quan
mua bán nợ tín dụng.

53

3.3.2/ Kiện toàn hệ thống Luật pháp liên quan đến nghiệp vụ tín dụng
theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hồi nợ của
ngân hàng.
3.3.3/ Tăng cường sự hợp tác giữa các cơ quan hữu quan.

56

3.3.4/ Giải pháp tranh thủ sức mạnh của thông tin báo chí.

58

3.3.5/ Cần xác lập một thái độ xử lý dứt khoát, rõ ràng trong việc chấn

62

chỉnh hoạt động ở các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém
hiệu quả.

64

KẾT LUẬN

3


LỜI MỞ ĐẦU:
I/ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Sau 01/10/1998, ngày Luật các tổ chức tín dụng chính thức có hiệu lực thi
hành, hệ thống ngân hàng nước ta nói chung và các ngân hàng trên đòa bàn thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng đã có những bước chuyển biến sâu sắc, căn bản và toàn
diện.
Những kết quả đạt được của hoạt động ngành ngân hàng đã góp phần xứng
đáng vào thành tựu đổi mới chung của nền kinh tế. Trong đó, điểm nổi bật nhất
phải kể đến là những cống hiến giúp đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, thúc đẩy sự
tăng trưởng và chuyển dòch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa và
hiện đại hóa. Nhà nước ta cũng trao tặng nhiều huân chương cao q để ghi nhận
công lao đóng góp to lớn này.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ đáng khen ngợi, hoạt động ngân hàng ở
nước ta hiện nay cũng đang gặp nhiều khó khăn và còn không ít các tồn tại, nhất là
ở khâu kinh doanh tín dụng thể hiện qua các khoản vay chất lượng còn chưa an
toàn, có nhiều rủi ro; tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ còn khá cao… Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên bắt nguồn từ các phía:
-Về phía ngân hàng và các tổ chức tín dụng là bên cho vay vốn.
- Về phía các doanh nghiệp, cá nhân là những khách hàng đi vay vốn ngân
hàng.
-Về phía thanh tra, kiểm soát ngân hàng nhà nước là cơ quan quản lý.

4



-Về phía khách quan của nền kinh tế đã tác động đến hoạt động của ngân
hàng.
Hoạt động tín dụng chưa an toàn và chất lượng tín dụng chưa cao đang là mối
quan tâm không chỉ đối với các cấp lãnh đạo, với giới quản lý và điều hành của
hệ thống ngân hàng mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội, bởi vì đây là tín
hiệu tổng hợp, nó vừa phản ánh trình độ hoàn thiện pháp luật theo cơ chế thò
trường trong quản lý kinh tế, vừa phản ánh những mặt còn bất cập trong chiến
lược quản trò và điều hành hệ thống ngân hàng, đồng thời trong chừng mực nhất
đònh nó cũng phản ánh được cả tầm vóc của một quốc gia trước các đối thủ cạnh
tranh trên trường quốc tế.
Do đó, hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thò trường luôn đòi hỏi các nhà
kinh doanh ngân hàng phải đón bắt, hòa nhập với những chuyển biến phức tạp
và sôi động của thò trường sản xuất hàng hóa, môi trường kinh tế, chính trò, xã
hội và luật pháp hiện hành. Chính vì thế, việc phân tích, tổng kết thực tiễn để
kòp thời đưa ra các giải pháp, các sản phẩm và các công cụ quản lý mới nhằm
hạn chế rủi ro là nhiệm vụ cần phải được quan tâm thường xuyên trong công tác
kinh doanh tiền tệ tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Trong thời gian qua, chất lượng tín dụng giữa hệ thống ngân hàng trên đòa
bàn thành phố Hồ Chí Minh và các chủ thể còn quá nhiều hạn chế, nợ quá hạn
có xu hướng gia tăng, năm sau cao luôn hơn năm trước, hệ thống ngân hàng
chưa xứng đáng với vai trò là “hệ thần kinh” hay “mạch máu” cho các hoạt
động kinh tế của một thò trường thương mại sầm uất với hơn 5 triệu dân như ở
khu vực này.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, luận án mạnh dạn đi vào nghiên
cứu đề tài: “Các giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt

5



động cho vay tại các ngân hàng trên đòa bàn TPHCM” với mong muốn đáp
ứng một phần yêu cầu thực tiễn đang là bài toán nan giải cho các ngân hàng
thương mại ở đòa phương.
II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu cơ sở kinh tế – xã hội sản sinh ra quan hệ tín dụng, vai trò của tín
dụng trong quá trình phát triển kinh tế qua từng giai đoạn lòch sử xã hội, từ đó
làm rõ hơn khái niệm rủi ro tín dụng cùng ý nghóa của việc hạn chế rủi tín dụng
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
-

Phân tích tình hình kinh tế xã hội, tìm hiểu nguyên nhân phát sinh nợ
quá hạn tại TPHCM để rút ra những điểm đặc thù về môi trường, xã hội
riêng có trên một đòa bàn dù lòch sử còn non trẻ nhưng lại có một tiềm
lực phát triển mạnh nhất đất nước. Qua đó nhận diện dần các yếu tố bất
lợi làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, xác đònh những tồn tại cần
được tiếp tục khắc phục và hoàn thiện.

-

Xây dựng một số giải pháp nhằm giúp các ngân hàng thương mại thanh
lọc bớt những khoản công nợ khó đòi , khai thông dòng chảy vốn, tạo
nên một hệ thống “kênh truyền” mạnh mẽ sẵn sàng hoàn tất nhiệm vụ
đưa vốn từ ngân hàng đến chi viện những nơi thực sự có tiềm năng, đảm
bảo khả năng hoàn trả đúng hạn.

III/ ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đề tài lấy thực trạng vận động vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại
trên đòa bàn TPHCM làm cơ sở nghiên cứu. Tuy nhiên, so với nghiệp vụ cho vay
thì khối lượng rủi ro xuất hiện trong mảng nghiệp vụ huy động vốn tỏ ra không

đáng kể nên đề tài không đi sâu vào phân tích tất cả các dạng rủi ro tín dụng nói
chung mà chỉ đề cập đến những rủi ro phát sinh kể từ thời điểm ngân hàng đã

6


tập trung đủ nguồn, sẵn sàng cung ứng đến các thành phần kinh tế có nhu cầu,
cho đến khi đồng tiền cho vay được hoàn trả (kèm theo tiền lãi) để ngân hàng
hoàn thành thủ tục tất toán nợ.
IV/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Luận án được nghiên cứu trên sở phương pháp luận của chủ nghóa duy vật
biện chứng và chủ nghóa duy vật lòch sử; lôgic học; phương pháp hệ thống, thống
kê, phân tích hoạt động có kết hợp với sự trừu tượng hóa khoa học.
V/ KẾT CẤU NỘI DUNG LUẬN ÁN:
Toàn bộ luận án gồm 3 chương và phần mở đầu, kết luận với khối lượng 65
trang. Cấu trúc cụ thể gồm:
-

Lời mở đầu.

-

Chương 1

: Khái niệm về tín dụng và rủi ro tín dụng.

-

Chương 2


: Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM ở TP Hồ

Chí Minh trong các năm qua.
-

Chương 3

-

Kết luận.

: Các biện pháp kiến nghò.

7


CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG VÀ
RỦI RO TÍN DỤNG.
1.1/ Quan hệ tín dụng:
Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất là cơ sở ra đời của tín dụng. Thông thường, cơ chế hình thành của quan hệ tín
dụng được giải thích như sau:
Khi của cải, tiền tệ bò hút đổ dồn vào vào một nhóm người, nhóm người khác
vì có thu nhập thấp nên không đủ khả năng trang trải cho nhu cầu tối thiểu cần thiết
của mình, nhất là trong hoàn cảnh buộc họ phải đối đầu với các biến cố bất thường.
Mâu thuẫn nội tại xã hội đòi hỏi tín dụng phải ra đời để điều hòa bớt những thiếu
hụt tạm thời xảy ra trong cuộc sống.
Tín dụng nặng lãi là hình thức tín dụng ra đời đầu tiên.
Vào thời kỳ cổ đại, điều kiện sản xuất thấp kém, phụ thuộc nhiều vào môi
trường tự nhiên, lại thêm gánh nặng sưu thuế và các tệ nạn xã hội khác, những

người sản xuất nhỏ khi phải đối phó với những rủi ro xảy ra trong cuộc sống buộc
phải vay mượn để trang trả nợ nần… Bên cạnh đó, cũng có một số người đi vay là
để giải quyết các nhu cầu xa xỉ tạm thời.
Đặc điểm của tín dụng nặng lãi:
- Lãi suất cao:
Trong thời cổ đại La Mã người vay phải trả theo lãi suất bình quân là 40%100% năm. Dưới chế độ phong kiến ở Đức lãi suất từ 21-43% năm, trong nhiều
trường hợp có thể lên đến trên 100%. Thời kỳ phong kiến nước ta lãi suất cho vay
vào giai đoạn “giáp hạt” cũng thường xấp xỉ vài trăm phần trăm.

8


Lãi suất cao do hai nguyên nhân sau đây:
+ Cầu tín dụng vượt nhiều so với cung.
+ Nhu cầu đi vay thường là cấp bách không thể trì hoãn.
- Mục đích đi vay là tiêu dùng:
Cho vay nặng lãi có đặc điểm là lãi suất cao nên phần lãi phải trả thường lớn
hơn cả phần lợi nhuận thu được nếu sử dụng tiền vay vào mục đích đầu tư phục vụ
sản xuất.
- Hình thức biểu hiện của vốn trong quan hệ tín dụng nặng lãi rất đa dạng.
* Có thể là, cho vay bằng hiện vật; thu nợ bằng hiện vật, chẳng hạn như cho
vay thóc trong thời kỳ “giáp hạt” khi đến vụ thu hoạch thu nợ bằng thóc.
* Hoặc, cho vay bằng tiền và thu nợ bằng hiện vật.
* Hoặc, cho vay bằng hiện vật, bằng tiền và trả nợ bằng ngày công lao động.
Các loại cho vay trên thường áp dụng rộng rãi ở nông thôn.
* Cho vay bằng tiền và thu nợ bằng tiền.
Hình thức cho vay này thường phát triển ở chợ, khu thò tứ, các thành phố.
Là một hình thức cho vay phổ biến trong chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ
phong kiến, tín dụng nặng lãi đã góp phần quan trọng vào quá trình làm tan rã
"kinh tế tự nhiên", mở rộng quan hệ hàng hóa - tiền tệ và tạo tiền đề vật chất cho

chủ nghóa tư bản ra đời. Tuy nhiên, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghóa được
hình thành và phát triển, giai cấp tư sản đã nhanh chóng tự tạo lập cho riêng mình
một hình thức tín dụng mới - tín dụng tư bản chủ nghóa thay thế tín dụng nặng lãi
mà lúc này đã lỗi thời và bắt đầu trở thành rào cản cho sự phát triển, mở rộng sản
xuất hàng hóa. Hiện nay, ở các nước có nền sản xuất nhỏ, tín dụng nặng lãi còn tồn
tại ở mức độ khác nhau nhưng không được pháp luật cho phép.
Nguyên nhân của sự tồn tại này là do:

9


- Ảnh hưởng của chế độ phong kiến cũ.
- Mức thu nhập của người lao động còn thấp , vì vậy mỗi khi có khó khăn về
tài chính họ cần phải có vốn vay bổ sung thêm.
- Hệ thống tín dụng chưa phát triển.
Còn đối với các nước kinh tế thò trường phát triển cao, tín dụng nặng lãi vẫn
tồn tại song phạm vi hoạt động bò giới hạn rất nhiều.
Nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của tín dụng tư bản:
Trong nền kinh tế thò trường các tổ chức kinh doanh hoạt động với tư cách độc
lập và giữa chúng có mối quan hệ với nhau thông qua trao đổi - mua và bán để hình
thành hệ thống kinh tế thống nhất.
Để thực hiện mối liên hệ trên, mỗi một tổ chức kinh doanh phải có vốn tiền tệ
và phải sử dụng thước đo bằng tiền để tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của
mình. Xuất phát từ tính chất hoạt động như vậy mà vốn của xí nghiệp luôn liên tục
trải qua các giai đoạn và biểu hiện dưới các hình thái khác nhau. Quá trình tuần
hoàn vốn được thể hiện như sau:

T - H - SX - H’ - T’

Giai đoạn 1: Vốn tiền tệ ứng ra để mua tư liệu sản xuất. Trong giai đoạn này

vốn từ hình thái tiền tệ chuyển thành hình thái hàng hóa.
Giai đoạn 2: Tiến hành tổ chức sản xuất, tức là quá trình kết hợp giữa lao động
sống và lao động vật để tạo ra sản phẩm mới. Ở giai đoạn này vốn từ hình thái
hàng hóa chuyển thành hình thái chi phí sản xuất và cuối cùng sau khi sản phẩm
mới đã được tạo ra, vốn lại trở về hình thái hàng hóa.

10


Giai đoạn 3: Sản phẩm được đưa ra tiêu thụ, vốn lại trở về hình thái ban đầu
của nó tức là vốn bằng tiền.
Riêng đối với các xí nghiệp chuyên doanh trong lónh vực lưu thông thương mại,
tuần hoàn vốn chỉ trải qua hai giai đoạn: mua sản phẩm và bán sản phẩm, do đó
vốn cũng chỉ biểu hiện dưới hai hình thái: hàng hóa và tiền tệ.

T - H - T’

Từ đặc điểm tuần hoàn vốn, ta dễ dàng thấy rằng mỗi khi có sự không ăn khớp
về thời gian và khối lượng giữa việc mua vật tư hàng hóa phục vụ cho sản xuất với
việc tiêu thụ hàng hóa thì tất yếu xảy ra hiện tượng:
- Hoặc có vốn hàng hóa chưa tiêu thụ, hoặc đã tiêu thụ và thu được tiền,
nhưng chưa cần thiết phải mua vật tư nguyên liệu dự trữ cho sản xuất.
- Hoặc có nhu cầu mua vật tư hàng hóa phục vụ cho sản xuất nhưng không có
tiền.
Hiện tượng thừa, thiếu vốn này thể hiện khá rõ nét đối với các xí nghiệp hoạt
động thời vụ vì khi đến kỳ tập trung sản xuất họ sẽ có nhu cầu rất lớn, nhưng
ngược lại, sau vụ thu hoạch chưa đến kỳ sản xuất mới thì vốn tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi. Đối với các loại hình xí nghiệp khác thì hiện tượng thừa thiếu vốn cũng thường
xuyên xảy ra; bởi vì,mặc dù sản xuất vẫn được tiến hành liên tục nhưng việc mua
bán vật tư nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm được tiến hành theo đònh kỳ, vì vậy tất

yếu sẽ xuất hiện sự không ăn khớp giữa hai quá trình mua bán. Tuy nhiên đối với
các xí nghiệp không thời vụ, việc thừa thiếu vốn tiền tệ trong thời gian ngắn hơn và
số lượng nhỏ hơn so với xí nghiệp thời vụ, chỉ trừ những xí nghiệp có chu kỳ sản
xuất dài.

11


Do ở mỗi một xí nghiệp có lúc thiếu vốn, có lúc thừa vốn, nên đối với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân thì tại một thời điểm nhất đònh sẽ có hiện tượng.
- Một nhóm những xí nghiệp có vốn tạm thời chưa sử dụng.
- Một nhóm các xí nghiệp khác lại có nhu cầu cần bổ sung tạm thời.
Sở dó có hiện tượng này là vì, chu kỳ sản xuất và tính chất thời vụ ở mỗi xí
nghiệp, mỗi ngành kinh tế không giống nhau, trong lúc đó tái sản xuất là một quá
trình liên tục trên cơ sở phân công và hợp tác trong toàn bộ hệ thống kinh tế, vì vậy
khi mà xí nghiệp này thừa vốn thì tất yếu có xí nghiệp khác thiếu vốn.
Đây là hiện tượng khách quan, tồn tại ngay trong quá trình tái sản xuất xã hội,
đồng thời nó là mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn. Chính điều
này đòi hỏi tín dụng ra đời để làm cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu.
Nếu xét về đặc điểm chu chuyển vốn trong quá trình tái sản xuất giản đơn thì
hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời trong toàn bộ nền kinh tế sẽ được bù trừ lẫn
nhau. Tuy nhiên, tái sản xuất ngày nay là một quá trình thường xuyên mở rộng và
phát triển, vì vậy đòi hỏi phải có đầu tư bằng vốn tiết kiệm.
Đối với các xí nghiệp, đơn vò kinh tế, lợi nhuận tích lũy để đầu tư có giới hạn,
vì vậy muốn thực hiện được nhu cầu mở rộng sản xuất cần thiết phải nhờ đến
nguồn vốn trong xã hội. Nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu này là vốn tiết kiệm xã
hội , bao gồm vốn tiết kiệm của các nhà kinh doanh, vốn tiết kiệm cá nhân và của
ngân sách nhà nước.
Mỗi khoản tiết kiệm có một mục đích nhất đònh như nhà kinh doanh tiết kiệm
để mở rộng sản xuất, cá nhân tiết kiệm để mua sắm xe cộ, xây dựng nhà cửa … mục

đích của tiết kiệm có thể được thực hiện ngay hoặc chỉ có thể thực hiện trong tương
lai. Chính vì vậy trong thời gian chưa thực hiện được mục đích đã đònh những người

12


chủ vốn tiết kiệm có thể sử dụng vốn này để cho vay hoặc trực tiếp đầu tư như mua
trái phiếu, gửi vào tổ chức tín dụng.
Như vậy sự phát triển của tín dụng xuất phát từ nhu cầu tiết kiệm và nhu cầu
đầu tư, tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Là loại hình tín dụng mang tính chất sản xuất, tín dụng tư bản chủ nghóa đã
tạo ra một động lực mới thúc đẩy cho sự phát triển và thay đổi hẳn bộ mặt của cả
một chế độ kinh tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội ngày một phát triển cao đã tạo ra
các quan hệ và các hình thức tín dụng mới tương ứng. Tín dụng là một phạm trù
kinh tế, là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa và là động lực quan trọng thúc đẩy
nền kinh tế hàng hóa phát triển.
1.2/ Chức năng của tín dụng:
1.2.1/ Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả:
Chức năng này phản ánh sự vận động của vốn từ chủ thể là các pháp nhân và
thể nhân có vốn tạm thời chưa sử dụng sang chủ thể cũng là các pháp nhân và thể
nhân thiếu vốn, cần vốn bổ sung cho đầu tư, kinh doanh và tiêu dùng.
Chính nhờ vào sự vận động của vốn tín dụng mà các chủ thể vay vốn nhận
được một phần tài nguyên của xã hội để đưa vào sử dụng cho các mục đích đã xác
đònh. Sự vận động của vốn tín dụng phản ánh hai mặt của một quá trình thống nhất.
-

Mặt tập trung, tín dụng thu hút những nguồn vốn tiền tệ, giá trò vật chất tạm
thời chưa sử dụng ở trong và ngoài nước từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức xã hội và nhà nước. Số vốn này trở thành nguồn vốn cho vay trên cơ sở
phân phối lại để đáp ứng nhu cầu về vốn của xã hội. Huy động vốn bằng tín

dụng là một trong những biện pháp có hiệu quả để khai thác nguồn của cải,
tăng cường khả năng và nguồn lực tài chính của các pháp nhân và thể nhân.

13


-

Bằng phân phối lại số vốn huy động được, tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn
đối với dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội và nhà nước. Thông
qua phân phối lại vốn tín dụng các chủ thể này nhận được một lượng giá trò,
một lượng vật tư hàng hóa đủ để thỏa mãn nhu cầu đầu tư, sản xuất hoặc tiêu
dùng của mình và nhờ đó thúc đẩy phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Trong nền kinh tế quốc dân, phân phối lại vốn tín dụng được thực hiện theo

hai phương thức:
+ Phân phối trực tiếp: phản ánh sự phân phối, điều tiết vốn từ chủ thể có vốn
tạm thời chưa sử dụng sang các chủ thể trực tiếp cần vốn và sử dụng vốn vào
đầu tư, kinh doanh và tiêu dùng. Phương thức phân phối này phản ánh rõ nét
trong quan hệ tín dụng thương mại và phát hành trái phiếu trực tiếp bởi các
doanh nghiệp, công ty và nhà nước.
+ Phân phối gián tiếp: phản ánh sự phân phối, điều tiết vốn từ các chủ thể có
vốn tạm thời chưa sử dụng sang các chủ thể cần vốn được thực hiện một cách
gián tiếp thông qua hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian như các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, các q đầu
tư …
Trong nền kinh tế thò trường, việc phân phối vốn tín dụng qua hệ thống ngân
hàng chiếm một vò trí rất quan trọng. Ngân hàng với mạng lưới trải rộng, bằng cơ
chế và chính sách lãi suất đã tập trung được một số lớn các nguồn vốn tiền tệ nhàn
rỗi trong xã hội để hình thành q cho vay - đồng thời ngân hàng phân phối nguồn

vốn đó dưới hình thức cấp tín dụng cho các đối tượng có nhu cầu bổ sung vốn. Đây
chính là quá trình phân phối lại vốn tiền tệ, nó không những đòi hỏi phải tuân theo
các nguyên tắc của tín dụng mà còn phải chấp hành đầy đủ các qui đònh của Luật

14


ngân hàng và các tổ chức tín dụng hiện hành. Phân phối vốn tín dụng là hình thức
phân phối vốn trên cơ sở có hoàn trả.
1.2.2/ Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội:
Nhờ sự vận động của tín dụng mà khối lượng tiền mặt và chi phí lưu thông cho
xã hội được hạn chế bớt rất nhiều, bởi:
-

Thông qua hoạt động tín dụng con người biết sáng tạo được cho mình các công
cụ thanh toán tiên tiến như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, hoặc
hiện đại hơn là thẻ tín dụng, thẻ thanh toán … Việc sử dụng các loại công cụ này
cho phép thay thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành nhờ đó làm giảm bớt chi
phí liên quan phát sinh ở khâu in ấn, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản ….

-

Với sự hoạt động của tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngân hàng đã kích hoạt các
doanh nghiệp, cá nhân có vay vốn tích cực mở tài khoản và giao dòch thanh toán
dưới hình thức chuyển khoản (hoặc bù trừ lẫn nhau). Chính hành vi thanh toán
không dùng tiền mặt đã cho phép giải quyết nhanh chóng các mối quan hệ kinh
tế, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho nền kinh tế xã hội phát triển.

-


Nhờ hoạt động của tín dụng mà các nguồn vốn đang nằm rải rác trong xã hội
được huy động để sử dụng cho nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi sản
xuất và lưu thông phát triển thì tốc độ chu chuyển của dòng vốn trong xã hội
cũng theo đó được cải thiện dần.

1.2.3/ Kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua tiền tệ là chức năng quan trọng của
tín dụng. Tín dụng phản ánh các quan hệ kinh tế hình thành trên cơ sở rất nhiều
quan hệ kinh tế khác. Bản thân quan hệ tín dụng cũng lại bao gồm nhiều mối quan
hệ như quan hệ về huy động vốn và vay vốn, quan hệ về cho vay và đầu tư vốn tín
dụng. Do đó tín dụng đã bao hàm khả năng kiểm soát các loại hoạt động kinh tế
của các doanh nghiệp, phản ánh một cách tổng hợp mức độ phát triển của nền kinh
tế.
15


Vốn của các tổ chức tín dụng dùng cho vay là vốn huy động từ các thể nhân và
pháp nhân trong xã hội. Do vậy, để đảm bảo nguồn vốn tín dụng luân chuyển
nhanh và không ngừng tăng lên, các khoản vốn vay và cho vay phải được hoàn trả
đúng hạn. Để đạt được yêu cầu đó, tín dụng kiểm soát các đơn vò vay vốn là yêu
cầu cần thiết khách quan. Tiến trình kiểm tra là một việc làm thường xuyên, liên
tục, đan xen trong cả một quá trình từ khi làm thủ tục thẩm đònh dự án, xét duyệt
mức cho vay và thời gian vay cũng như quá trình sử dụng vốn vay của đơn vò. Mục
đích của kiểm tra, giám sát là nhằm đạt hiệu quả cao trong sử dụng vốn tín dụng,
bảo đảm an toàn về nguồn vốn, an toàn trong hoạt động của hệ thống tín dụng.
Thông qua nghiệp vụ cho vay, nghiệp vụ thanh toán, các tổ chức tín dụng có điều
kiện nhìn tổng quát vào hoạt động kinh tế và cấu trúc tài chính của các pháp nhân
kinh tế, từ đó phát hiện và chấn chỉnh kòp thời những vi phạm về chế độ quản lý
kinh doanh, quản lý tài chính - tín dụng của nhà nước .
Như vậy, việc thực hiện chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín

dụng một mặt không chỉ mang lại lợi ích cho những tổ chức vay vốn, cho hoạt động
của hệ thống tín dụng, mà mặt khác còn mang lại lợi ích và hiệu quả kinh tế - xã
hội cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.3/ Vai trò của tín dụng:
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay tín dụng có vai trò sau đây:
1.3.1/ Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, đồng
thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế:
Hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các xí nghiệp. Việc
phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo
điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục.

16


Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó là động lực kích
thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển:
Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn hình thành
vốn lưu động và vốn cố đònh của các xí nghiệp, vì vậy tín dụng đã góp phần động
viên vật tư hàng hóa đi vào sản xuất thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
để đẩy nhanh quáù trình tái sản xuất xã hội.
Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân
đối, thất nghiệp vẫn còn ở mức độ cao, vì vậy đầu tư tín dụng sẽ góp phần sắp xếp
và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác, cũng thông qua
hoạt động tín dụng mà việc sử dụng nguồn lao động và nguồn nguyên liệu được
quản lý hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời
giải quyết các vấn đề xã hội.
1.3.2/ Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất:
Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng, đang
nằm phân tán ở khắp mọi nơi: trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ quan nhà
nước và của cá nhân. Trên cơ sở đó cho vay các đơn vò kinh tế. Tuy nhiên, quá trình

đầu tư tín dụng không phải rải đều cho các chủ thể có nhu cầu, mà việc đầu tư được
thực hiện một cách tập trung, chủ yếu là cho các xí nghiệp lớn, những xí nghiệp
kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư tập trung là quá trình tất yếu, vừa đảm bảo tránh rủi
ro tín dụng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
1.3.3/ Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và các
ngành mũi nhọn.
Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần
thiết cho xã hội, đang trong quá trình công nghiệp hóa và là ngành chòu tác động
nhiều nhất của điều kiện tự nhiên, vì vậy trong giai đoạn trước mắt nhà nước cần

17


phải tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu
của xã hội đồng thời tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên,
trên thực tế nguồn vốn ngân sách cấp phát không phải là vô hạn, lại phải dàn trải
đều nên tự nó không thể hình thành đủ lực tạo nên bước nhảy vọt cho nông nghiệp
nước nhà. Vậy thay vì phải chờ đợi sự viện trợ từ bên ngoài hoặc điều tiết nguồn
lực tài chính thông qua phân phối lại ngân sách thì việc sử dụng tốt các biện pháp
tín dụng ưu đãi luôn tỏ là chính sách hỗ trợ khả thi và dễ dàng hơn cả.
Bên cạnh đó nhà nước còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế
mũi nhọn, mà phát triển ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế khác
như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí.
1.3.4/ Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các
xí nghiệp quốc doanh.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức.
Nhờ vậy mà hoạt động của tín dụng đã kích thích việc sử dụng vốn hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, xí nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng,
tức là phải đảm bảo hoàn trả nợ vay đúng hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã
ghi trong hợp đồng tín dụng; nếu vi phạm thì sẽ bò phạt về lãi suất và các chế tài

khác. Bằng các tác động như vậy đòi hỏi xí nghiệp phải quan tâm đến việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn, tạo điều
kiện để nâng cao doanh lợi xí nghiệp.
1.3.5/ Tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với
thò trường thế giới, kinh tế "đóng" đã nhường bước cho kinh tế "mở", vì vậy tín dụng
ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền các nền kinh tế các
nước với nhau.

18


Đối với một nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng
đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa, đồng thời cũng
có thể nhờ nguồn tín dụng bên ngoài mà Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế nhanh chóng và dễ dàng hơn.
1.4. Phân loại tín dụng:
Để làm cơ sở đánh giá, phân tích và quản lý hoạt động tín dụng đồng thời làm
cơ sở cho việc xây dựng và hoạch đònh chính sách tiền tệ tín dụng, người ta thường
phân loại tín dụng theo tiêu thức sau:
Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Tín dụng chia thành ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn dưới 1 năm. Tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhu
cầu bổ sung vốn lưu động, vốn thanh toán của các tổ chức kinh tế và nhu cầu tiêu
dùng của dân cư.
- Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Tín dụng trung hạn bổ sung
vốn cho nhu cầu mua sắm tài sản cố đònh, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghệ
đầu tư xây dựng những công trình phục vụ sản xuất có qui mô vừa và nhỏ, thời hạn
thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn cung cấp vốn cho

các công trình đầu tư xây dựng cơ bản, qui trình kỹ thuật và công nghệ có thời hạn
dài, qui mô lớn. Loại tín dụng này thường được đầu tư để mua sắm tài sản cố đònh,
cải tiến và đồi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng xí nghiệp và công trình
mới.
Căn cứ vào đối tượng tín dụng:
Tín dụng chia làm hai loại:

19


- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để hình thành và bổ sung
vốn lưu động của các tổ chức kinh tế.
- Tín dụng vốn cố đònh: là loại tín dụng được cấp để hình thành và bổ sung vốn
cố đònh của các tổ chức kinh tế.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
Tín dụng bao gồm 2 loại:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng được cấp cho các tổ
chức kinh tế nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp cho các cá nhân nhằm đáp ưng
cho các yêu cầu tiêu dùng.
Căn cứ vào chủ thể tín dụng:
Tín dụng bao gồm các loại:
- Tín dụng thương mại: là loại tín dụng do các tổ chức sản xuất kinh doanh cấp
cho nhau dưới hình thức hàng hóa.
- Tín dụng ngân hàng: là loại tín dụng do các tổ chức ngân hàng cấp cho các
cá nhân và các tổ chức trong xã hội dưới hình thức tiền tệ.
- Tín dụng nhà nước: là loại tín dụng do nhà nước thực hiện nhằm huy động
vốn tiền tệ từ các chính phủ, các tổ chức và các cá nhân ở trong và ngoài nước để
giải quyết cân đối ngân sách nhà nước.
Căn cứ vào tính chất đảm bảo của khoản vay:

Tín dụng bao gồm 2 loại:
- Tín dụng có đảm bảo: các khoản vốn tín dụng phát ra có hàng hóa, vật tư, tài
sản tương đương đảm bảo (thế chấp).

20


- Tín dụng không có đảm bảo: các khoản vốn tín dụng phát ra không cần có
hàng hóa, vật tư, tài sản tương đương đảm bảo mà chỉ dựa vào uy tín, sự tín nhiệm
của các tổ chức, cá nhân để cấp vốn tín dụng.
1.5/ Rủi ro tín dụng:
Một khoản cho vay được hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi thì được coi là
không có rủi ro tín dụng. Ngược lại, các khả năng không thể hoàn trả kòp thời như
cam kết hoặc trả không đủ khi đến hạn đều bò coi là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng
trước hết là một dạng rủi ro do không ăn khớp về thời hạn thanh toán do chu
chuyển tiền tệ diễn ra không đồng thời. Rủi ro tín dụng ngày nay không chỉ xảy ra ở
các lónh vực cho vay hay đầu tư chứng khoán mà còn xảy ra ở các hoạt động ngoại
bảng.
1.5.1 Rủi ro tín dụng là loại rủi ro cơ bản nhất trong hoạt động kinh doanh
của NHTM:
Để đáp ứng với nhu cầu đa dạng của chủ thể kinh tế trong bối cảnh thò trường
cạnh tranh khắc nghiệt , hệ thống ngân hàng thương mại luôn phải tư duy để sáng
tạo ra ngày càng nhiều các loại dòch vụ nhằm mở rộng qui mô theo chiến lược của
mình. Tuy nhiên, dù có thay đổi đến hình thức nào đi chăng nữa tín dụng vẫn luôn
là hoạt động tạo lãi cơ bản nhất. Vì vậy, tỉ trọng rủi ro trong hoạt động tín dụng bao
giờ cũng cao hơn các hoạt động khác là điều không thể tránh khỏi.
Rủi ro tín dụng có mối liên hệ chặt chẽ với tất cả các loại rủi ro khác trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng. Thật vậy, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá của một
khoản cho vay có thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro tín dụng. Trái lại, rủi
ro tín dụng có thể dẫn đến rủi ro thanh toán hoặc ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh

doanh đònh kỳ ... Vì tín dụng sẽ và đang vẫn là nghiệp vụ chủ yếu trong hoạt động

21


kinh doanh ngân hàng, do đó rủi ro tín dụng luôn là loại rủi ro nguy hại và gây khó
khăn lớn nhất cho các ngân hàng thương mại.
Các hình thức thể hiện của rủi ro tín dụng:
Rủi ro khê đọng vốn: Ở hình thức này người vay tạm thời khó khăn về tài
chính ngoài ý muốn, nên không thể trả nợ đúng hạn hợp đồng. Đối với những
khoản nợ như vậy ngân hàng vẫn có khả năng thu hồi vốn, tuy nhiên, muốn thu hồi
được, cần phải chờ đến khi khách hàng khôi phục được sản xuất kinh doanh và tích
lũy đủ để có thể trả nợ. Tuy không bò mất vốn nhưng nợ khê đọng làm rào cản gây
không ít khó khăn cho ngân hàng trong việc thực hiện kế hoạch chi trả khi đến hạn
thanh toán, không những thế nó còn làm đảo lộn mọi trật tự thu chi cũng như các
chiến lược kinh doanh đã đònh sẵn. Nếu ngân hàng không khắc phục kòp thời có thể
dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán và nghiêm trọng hơn có thể bò phá sản.
Rủi ro nợ không được hoàn trả: Hình thức rủi ro này buộc ngân hàng phải đối
phó với khả năng mất vốn do khách hàng làm ăn thua lỗ, cố ý chiếm đoạt vốn của
ngân hàng hay nghiêm trọng hơn do khách hàng bò phá sản nên chỉ có thể trả một
phần hoặc không trả được nợ. Ngân hàng đã dùng mọi biện pháp tác động để thu
hồi nợ nhưng vẫn không mang lại kết quả.
Rủi ro vốn bò ứ đọng: Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh thương mại nào
người kinh doanh cũng phải điều chỉnh sao cho số lượng sản phẩm mình cung ứng
luôn đi sát với nhu cầu thò trường đòi hỏi, có như vậy tiền đồ kinh doanh mới có
triển vọng tốt đẹp, rủi ro kinh doanh mới được giảm thiểu. Hoạt động kinh doanh tín
dụng của ngân hàng thương mại cũng không nằm ngoài phạm vi chi phối của qui
luật cung cầu như đã vừa nêu.
Lượng cung tín dụng là tổng số tiền mà ngân hàng có thể cung ứng cho nền
kinh tế với mức lãi suất nhất đònh, tức là khả năng ngân hàng có thể cho vay trên cơ


22


sở nguồn vốn huy động sau khi trích lập q an toàn cho trả và dự trữ bắt buộc theo
qui đònh của ngân hàng trung ương.
Lượng cầu tín dụng là nhu cầu vay vốn của khách hàng trong nền kinh tế ở
mức lãi suất nhất đònh.
Vậy rủi ro bò ứ đọng là rủi ro xảy ra khi lượng cung tín dụng ở một mức lãi suất
nhất đònh lớn hơn lượng cầu tín dụng, nghóa là ngân hàng thương mại huy động được
vốn nhiều nhưng sử dụng vốn lại ít dẫn đến tình trạng có một lượng vốn bò ứ đọng
không thể sử dụng để cho vay , với lượng vốn ứ đọng này ngân hàng thương mại
vẫn phải trả lãi tiền gửi cho khách hàng, như vậy việc sử dụng vốn của ngân hàng
rõ ràng là không có hiệu quả. Để hạn chế rủi ro này, ngân hàng thương mại cần có
biện pháp cải tiến phương thức hoạt động, đề ra các chiến lược phát triển và có
chiến lược kinh doanh hấp dẫn để thu hút khách hàng.
1.5.2. Ý nghóa của việc hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh
của NHTM.
Như đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro cơ bản trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại, nó là yếu tố chủ yếu tạo ra các khoản thua lỗ trong hoạt
động tín dụng nói riêng và là nguyên nhân chính làm cho ngân hàng rơi vào tình
trạng bất ổn nói chung. Việc đánh giá và quản lý rủi ro tín dụng hiện nay là vấn đề
cực kỳ khó khăn bởi nó là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan. Chính vì vậy mà hiện nay không riêng gì ngân hàng nhà nước, các ngân
hàng thương mại cũng không ngừng nghiên cứu để cố gắng tìm ra hệ thống những
biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn thật triệt để rủi ro tín dụng ngay từ giai đoạn
mới vừa manh nha. Việc làm này có ý nghóa như sau:
Đối với bản thân các ngân hàng thương mại:

23



Hạn chế được rủi ro tín dụng trước tiên giúp ngân hàng đảm bảo thu hồi được
đủ vốn, thu nhập không bò giảm sút, góp phần vào việc tạo đà tăng trưởng cho tất
cả các hoạt động liên quan, gây dựng được lòng tin nơi khách hàng, trên cơ sở đó
ngày càng mở rộng quan hệ tín dụng cùng các mặt nghiệp vụ khác. Đặc biệt, trong
điều kiện kinh tế thò trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, vấn đề hạn chế rủi ro
tín dụng lại càng đóng vai trò quan trọng, nó quyết đònh sự tồn tại hoặc suy vong
của các ngân hàng thương mại.
Đối với nền kinh tế quốc dân:
Ngân hàng thương mại là trung tâm thần kinh của nền kinh tế, hoạt động của
ngân hàng thương mại liên quan và bao trùm tất cả hoạt động của nền kinh tế. Vì
vậy, hạn chế được rủi ro tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng thương mại không những
không phá sản mà còn phát huy được đầy đủ các chức năng vốn có của mình, góp
phần quan trọng vào việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phát triển nền kinh tế, hạn
chế lạm phát và thất nghiệp, an ninh chính trò được ổn đònh.
Đối với quan hệ quốc tế:
Khi tín dụng ngân hàng khống chế được rủi ro, tránh được nguy cơ phá sản thì
khả năng suy thoái của nền kinh tế bởi thế cũng bò hạn chế một phần. Đây là cơ sở
vững chắc hậu thuẫn cho uy tín của một quốc gia trong quan hệ bang giao ở khu vực
và trên trường quốc tế, nhất là đối với các mối quan hệ với các tổ chức tài chính thế
giới, vì chính những mối quan hệ này sẽ góp phần quan trọng vào việc huy động
các nguồn vốn ngoài nước vào công cuộc đầu tư phát triển, công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước, đặc biệt là đối với những quốc gia còn chậm phát triển như Việt
Nam.

24



×