Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của thuế giá trị gia tăng trong ổn định và phát triển kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.32 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

------------

ĐỒN THỊ TỪ VI TỬ

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẢM NÂNG CAO
VAI TRỊ CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRONG
ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2008


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1

1. Sự cần thiết của đề tài. ............................................................................................... 1
2. Mục tiêu của đề tài. .................................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................ 2
5. Cấu trúc nội dung nghiên cứu. ................................................................................... 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
TRONG NỀN KINH TẾ.


1.1 Khái niệm, bản chất và chức năng của thuế GTGT. .......................................... 4
1.1.1 Khái niệm thuế GTGT. ......................................................................................... 4
1.1.2 Bản chất của thuế GTGT. ..................................................................................... 4
1.1.3 Chức năng của thuế GTGT trong nền kinh tế....................................................... 5
1.1.3.1 Chức năng tái phân phối thu nhập xã hội........................................................... 5
1.1.3.2 Chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô. ..................................................................... 5
1.2 Vai trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế. ............................................... 6
1.2.1 Thuế GTGT tạo số thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước. .................................... 6
1.2.2 Thuế GTGT tham gia điều chỉnh kinh tế vĩ mô.................................................... 7
1.2.2.1 Thuế GTGT tác động đến cân bằng thị trường. ................................................. 8
1.2.2.2 Thuế GTGT tác động đến yếu tố sản xuất. ........................................................ 9
1.2.2.3 Thuế GTGT tác động đến ngoại thương. ......................................................... 10
1.2.3 Thuế GTGT tác động đến ý thức xã hội. ............................................................ 10
1.2.4 Thuế GTGT điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối. .. 11
1.3 Các nguyên tắc cơ bản xây dựng thuế GTGT hướng vào kích thích kinh tế. 12
1.3.1 Tính minh bạch. .................................................................................................. 12
1.3.2 Tính hiệu quả....................................................................................................... 12
1.3.3 Tính công bằng.................................................................................................... 13


1.3.4 Tính linh hoạt ...................................................................................................... 14
1.3.5 Tính chắc chắn. ................................................................................................... 15
1.4 Một số mâu thuẫn nảy sinh khi sử dụng công cụ thuế trong phát triển kinh
tế................................................................................................................................... 16
1.4.1 Mâu thuẫn giữa tăng thuế để đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng
và chủ động giảm thuế để khuyến khích sản xuất và đầu tư........................................ 16
1.4.2 Mâu thuẫn giữa chủ trương hội nhập các khối thương mại, kinh tế trong khu vực
và trên thế giới với chính sách bảo hộ sản xuất nội địa. .............................................. 16
1.4.3 Mâu thuẫn giữa chủ trương ưu đãi thuế để khuyến khích sản xuất và đầu tư với
chủ trương tạo hành lang thuế bình đẳng, trung lập. ................................................... 17

1.5 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới khi áp dụng thuế GTGT............ 17
1.5.1 Kinh nghiệm ở Thụy Điển về việc qui định áp dụng một thuế suất thuế GTGT.18
1.5.2 Kinh nghiệm của Indonesia về việc tổ chức thực hiện Luật thuế GTGT theo từng
bước và mở rộng dần diện chịu thuế............................................................................ 19
1.5.3 Kinh nghiệm của Pháp về đối tượng áp dụng thuế GTGT. ................................ 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ............................................................................................. 21
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ GTGT ĐẾN ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 1999 ĐẾN NAY.

2.1 Khái quát quá trình ra đời của thuế GTGT ở Việt Nam. ................................ 22
2.1.1 Tình hình thí điểm thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam năm 1993.......................... 22
2.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam khi triển khai thực hiện thuế GTGT... 23
2.1.2.1 Điều kiện thuận lợi........................................................................................... 23
2.1.2.2 Yếu tố bất lợi.................................................................................................... 24
2.1.3 Sự cần thiết phải sử dụng thuế GTGT thay thế thuế Doanh thu........................ 25
2.2 Những thách thức trong quá trình sử dụng thuế GTGT. ................................ 28
2.2.1 Thách thức từ bản chất của thuế GTGT.............................................................. 28
2.2.2 Thách thức về quản lý thuế GTGT. .................................................................... 30
2.3. Tác động của thuế GTGT đến ổn định và phát triển kinh tế VN .................. 32
2.3.1 Thuế GTGT là nguồn thu quan trọng và ổn định của NSNN, tăng cường tài chính
quốc gia, đảm bảo nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo và củng
cố an ninh, quốc phòng. ............................................................................................... 32


2.3.2 Thuế GTGT khuyến khích hoạt động đầu tư, gia tăng sản xuất. ........................ 34
2.3.3 Thuế GTGT khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu................................. 35
2.3.4 Thuế GTGT góp phần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa hàng nhập khẩu và
hàng hóa nội địa. .......................................................................................................... 36
2.3.5 Thuế GTGT thúc đẩy tăng cường quản lý, hạch toán kinh doanh của DN, nâng
cao ý thức tự giác chấp hành thuế của các đối tượng nộp thuế.................................... 37

2.3.6 Thuế GTGT góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế Việt Nam.............. 38
2.4. Những hiệu ứng tiêu cực do sử dụng thuế GTGT. .......................................... 38
2.4.1 Xuất hiện hàng loạt “DN ma”. ........................................................................... 38
2.4.2 Hình thành “Thị trường mua bán hóa đơn”. ..................................................... 39
2.4.3 Thực hiện các giao dịch ảo để rút tiền Nhà nước. ............................................. 39
2.4.4 Hiện tượng gian lận, không trung thực trong kinh doanh. ................................ 40
2.5. Những hạn chế về chính sách, quản lý và tổ chức thu thuế ảnh hưởng đến vai
trò kích thích kinh tế của thuế GTGT...................................................................... 42
2.5.1 Hạn chế về chính sách thuế................................................................................. 42
2.5.1.1 Chính sách thuế GTGT chưa ổn định, thiếu nhất quán.................................... 42
2.5.1.2 Quy định nhiều đối tượng không chịu thuế GTGT......................................... 42
2.5.1.3 Đa thuế suất...................................................................................................... 43
2.5.1.4 Phương pháp tính thuế GTGT phải nộp chưa đồng nhất. ............................... 45
2.5.1.5 Quy định về hoàn thuế GTGT thiếu chặt chẽ .................................................. 46
2.5.2 Công tác quản lý và tổ chức thu thuế còn hạn chế............................................. 47
2.5.2.1 Công tác tuyên truyền và hướng dẫn pháp luật về thuế chưa sâu rộng. .......... 47
2.5.2.2 Công tác kiểm tra, thanh tra thuế kém hiệu quả. ............................................. 48
2.5.2.3 Tin học hoá ngành thuế chưa được thực hiện. ................................................. 48
2.5.2.4 Quy trình và tổ chức bộ máy ngành thuế còn chồng chéo.............................. 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG II............................................................................................ 50
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THUẾ GTGT TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM.

3.1 Quan điểm nâng cao vai trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế tại Việt
Nam.............................................................................................................................. 51
3.1.1 Định hướng hệ thống thuế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.......................... 51


3.1.2 Chính sách thuế phải đặt mục tiêu động viên NSNN lên vị trí hàng đầu. .......... 51
3.1.3 Tăng thu trên cơ sở nâng cao hiệu quả của chính sách thuế, hạn chế gian lận thuế

hơn là tăng thuế suất..................................................................................................... 52
3.1.4 Sự phối hợp rộng rãi các ngành lĩnh vực trong nền kinh tế xã hội. .................... 52
3.2 Giải pháp về chính sách thuế GTGT.................................................................. 52
3.2.1 Thu hẹp đối tượng không chịu thuế GTGT. ...................................................... 52
3.2.2 Dùng một thuế suất thuế GTGT......................................................................... 54
3.2.3 Sử dụng một phương pháp tính thuế GTGT. ..................................................... 56
3.2.4 Áp dụng ngưỡng chịu thuế GTGT. ..................................................................... 56
3.2.5 Quy định đầy đủ về khấu trừ và hoàn thuế GTGT............................................. 57
3.2.6 Xóa bỏ tình trạng bảo hộ sản xuất nội địa qua giá tính thuế hàng nhập khẩu. .. 58
3.3 Giải pháp nâng cao năng lực Bộ máy quản lý thuế. ........................................ 59
3.3.1 Quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế.59
3.3.2 Hình thành hệ thống thuế qua mạng vi tính. ...................................................... 59
3.3.3 Nâng cao chất lượng hỗ trợ ĐTNT của cơ quan thuế. ........................................ 61
3.3.4 Nâng cao công tác thanh tra kiểm tra thuế......................................................... 62
3.3.5 Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng hữu quan...... 64
3.3.6 Đào tạo đội ngũ cán bộ thuế................................................................................ 64
3.4 Các giải pháp hỗ trợ............................................................................................ 65
3.4.1 Thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thuế GTGT. ............. 65
3.4.2 Hoàn thiện luật Doanh nghiệp. ........................................................................... 66
3.4.3 Cần thực hiện nghiêm chỉnh việc niêm yết giá................................................... 67
3.4.4 Khuyến khích thanh toán qua hệ thống ngân hàng. ........................................... 67
3.4.5 Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức công dân về nghĩa vụ nộp
thuế, khi mua hàng phải lấy hóa đơn. .......................................................................... 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG III. ......................................................................................... 69
KẾT LUẬN. ................................................................................................................ 70
PHỤ LỤC.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Trước áp lực hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là các quy định của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết ràng buộc toàn bộ Biểu thuế nhập
khẩu gồm 10.689 dòng thuế, mức giảm bình quân từ 17,4% xuống còn 13,4% với lộ
trình thực hiện sau 5 năm đến 7 năm. Đến thời điểm đầu tháng 1/2008, Việt Nam đã
thực hiện cắt giảm 1.800 dòng thuế, đạt khoảng 17% kế hoạch. Việc cắt giảm thuế
nhập khẩu - một trong những loại thuế quan trọng, đang đặt ra những thách thức mới
cho việc xây dựng hệ thống chính sách thuế, đó là làm sao tiếp tục bảo hộ sản xuất
trong nước, tối đa hoá nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, không ảnh hưởng tới tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế.
Hiện nay, nước ta có số thu thuế GTGT chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu
thuế và phí. Đây là nguồn bù đắp cho việc giảm thu từ thuế nhập khẩu. Mức độ bù trừ
này phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và chính sách thuế của quốc gia. Tuy
nhiên, thuế GTGT không đơn thuần là công cụ thu ngân sách của nhà nước mà còn
chứa đựng nội dung kinh tế và chính trị, xã hội sâu sắc như tương quan giữa số thu
hiện tại và số thu tương lai, ảnh hưởng của thuế GTGT đến hành vi kinh doanh và động
thái tiêu dùng của xã hội, đến thu hút vốn đầu tư và thông lệ quốc tế, đến tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ xã hội …
Với mục đích dùng thuế GTGT như một công cụ kinh tế hữu hiệu, hoàn chỉnh
các quy định pháp luật về thuế GTGT nhằm đưa thuế GTGT ngày càng tiếp cận với
thực tiễn, theo kịp tiến trình hội nhập, khai thác tối đa vai trò của thuế GTGT để kích
thích kinh tế phát triển, tác giả chọn đề tài: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRONG ỔN ĐỊNH VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM.

2. Mục tiêu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu sau:
Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về thuế GTGT và vai trò của thuế GTGT

trong phát triển kinh tế.


2

Nêu lên một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam từ thực tiễn
áp dụng thuế GTGT ở một số nước trên thế giới.
Đánh giá tình hình sử dụng thuế GTGT trong phát triển kinh tế tại Việt Nam.
Rút ra những hạn chế cả về mặt chính sách lẫn công tác hành thu ảnh hưởng đến
vai trò kích thích kinh tế của thuế GTGT.
Đề xuất những quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của thuế GTGT trong
phát triển kinh tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: vai trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế, những
tác động của thuế GTGT đối với phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam, những hạn chế
cả về mặt chính sách lẫn công tác hành thu ảnh hưởng đến vai trò kích thích kinh tế của
thuế GTGT.
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu phân tích ảnh hưởng của một số quy định pháp
luật hiện hành về thuế GTGT gây tác động đến hoạt động kinh tế-xã hội Việt Nam từ
khi Luật thuế GTGT được thực hiện giai đoạn 1999-2007 và không đi quá sâu vào
nghiệp vụ cụ thể (vì thuộc chuyên ngành Tài Chính Nhà Nước). Tuy nhiên, để phản
ánh toàn diện, đề tài còn đề cập đến một số thay đổi của chính sách thuế đã thực hiện
trước đây. Ngoài ra, do thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng không thuần túy mang
tính kinh tế, tài chính mà còn có ảnh hưởng xã hội rất sâu sắc, nên các giải pháp đề ra
cũng chú ý đến khía cạnh xã hội của thuế GTGT.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được xây dựng dựa vào dữ liệu công bố chính thức của Bộ Tài chính, Tổng
cục Thống kê, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế, của các các Bộ, cơ quan khác và từ
báo chuyên ngành kinh tế, tài chính, thuế. Do đó, dù hết sức cố gắng, đề tài cũng
không thể giảm bớt tính góc cạnh của số liệu từ những nguồn nói trên. Ngoài ra, các

định hướng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nước ta đến năm 2010 và chiến lược tài
chính quốc gia đến năm 2010 cũng được sử dụng làm cơ sở lý luận và định hướng cho
các giải pháp nêu trong đề tài.
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh…, có sự kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn.


3

5. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Trình bày khái niệm, bản chất, chức năng và vai trò của thuế GTGT
trong ổn định và phát triển kinh tế. Các nguyên tắc cơ bản xây dựng thuế GTGT hướng
vào kích thích kinh tế. Một số mâu thuẫn nảy sinh khi sử dụng công cụ thuế trong phát
triển kinh tế. Kinh nghiệm sử dụng thuế GTGT tác động đến ổn định và phát triển kinh
tế ở một số nước trên thế giới.
Chương 2: Khái quát quá trình ra đời của thuế GTGT ở Việt Nam. Sự cần thiết
phải sử dụng thuế GTGT thay thế thuế Doanh thu. Những thách thức trong quá trình sử
dụng thuế GTGT. Đánh giá tác động của thuế GTGT đến ổn định và phát triển kinh tế
Việt Nam từ năm 1999 đến nay. Những hạn chế về chính sách, quản lý và tổ chức thu
thuế ảnh hưởng đến vai trò kích thích kinh tế của thuế GTGT.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao vai trò của thuế GTGT trong ổn
định và phát triển kinh tế Việt Nam. Trong đó, chủ yếu các giải pháp về chính sách
thuế GTGT, giải pháp về nâng cao năng lực Bộ máy quản lý thuế và một số giải pháp
hỗ trợ.


4

1.1. Khái niệm, bản chất và chức năng của thuế GTGT.

1.1.1. Khái niệm thuế GTGT.
Thuế giá trị gia tăng (GTGT) (tiếng Pháp là: Taxe sur la valeur Ajoutéc – TVA,
tiếng Anh là: Value Added Tax – VAT) là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của
hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm đối với một sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ
do cơ sở sản xuất, chế biến, buôn bán hoặc dịch vụ tác động vào nguyên, vật liệu thô
hay hàng hóa mua vào, làm cho giá trị của chúng tăng thêm. Hay nói cách khác, đây là
số chênh lệch giữa “giá đầu ra” với “giá đầu vào” do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá
trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. (Nguồn: Tài liệu tham khảo số 4).
1.1.2. Bản chất của thuế GTGT.
Thuế GTGT là loại thuế gián thu, được thu theo phân đoạn trong quá trình sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ từ khâu đầu tiên đến người tiêu dùng, thì khép kín
một chu kỳ kinh tế. Đến cuối chu kỳ, tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ khớp
với số thuế tính cho người tiêu dùng cuối cùng. Do đó, các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
dù qua nhiều khâu hay ít khâu trong quá trình kinh doanh đều chịu thuế như nhau. Số
thuế này sẽ do các tổ chức, cá nhân tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ (gọi chung là người
tiêu dùng) chịu thuế dưới dạng trả tiền mua hàng hóa, dịch vụ. Tiêu dùng hiểu theo
nghĩa rộng chung của xã hội bao gồm dùng cho sản xuất, kinh doanh, dùng cho các
hoạt động không kinh doanh và tiêu dùng cá nhân.
Trái lại, các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được đánh
thuế, gọi chung là cơ sở kinh doanh (CSKD) phải nộp thuế GTGT thông qua việc mua
hàng hóa, dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh. Thực chất chỉ là việc trả (nộp) trước
thuế GTGT, khoản thuế này sẽ được chuyển tiếp tới người tiêu dùng. Vì vậy, CSKD
đóng vai trò là người thu và nộp thuế GTGT vào NSNN thay cho người tiêu dùng.
Thuế GTGT có tính trung lập cao. Tính trung lập thể hiện ở hai khía cạnh:
+ Một là, thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người
nộp thuế, do người nộp thuế chỉ là người “thay mặt” người tiêu dùng nộp hộ khoản
thuế này vào NSNN. Do vậy, thuế GTGT không phải là yếu tố chi phí sản xuất mà chỉ
đơn thuần là một khoản thu được cộng vào giá bán của người cung cấp hàng hóa, dịch
vụ.



5

+ Thứ hai, thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia
quá trình sản xuất kinh doanh, bởi tổng số thuế ở tất cả các giai đoạn luôn bằng số thuế
tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít.
1.1.3. Chức năng của thuế GTGT trong nền kinh tế.
1.1.3.1. Chức năng tái phân phối thu nhập xã hội.
Xuất phát từ bản chất, chức năng hàng đầu của thuế là tái phân phối thu nhập xã
hội – còn gọi là chức năng thu ngân sách. Thông qua chức năng này, thuế động viên
một phần thu nhập của khu vực tư tạo nên thu nhập nhà nước. Tính cần thiết của quá
trình này được minh chứng qua thực tiễn là khu vực tư không thể cung cấp hoặc cung
cấp kém hiệu quả những sản phẩm công cộng bởi hoạt động sản suất và trao đổi sản
phẩm giữa doanh nghiệp và hộ gia đình diễn ra theo cơ chế thị trường. Do đó, trong
nền kinh tế thị trường, nếu thiếu vắng hoạt động của chính phủ thì các cá nhân và hộ
gia đình thu nhập thấp không có cơ hội thụ hưởng lợi ích tối thiểu của đời sống cộng
đồng. Một mặt, nhà nước cung cấp các dich vụ phúc lợi công cộng như : y tế, giáo dục,
trợ cấp xã hội, hưu bổng...Mặt khác, bằng nhiều chính sách, nhà nước can thiệp trực
tiếp vào kinh tế nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự hoạt động hữu hiệu của khu vực
tư. Nguồn vật chất dồi dào, chắc chắn và thường xuyên để tài trợ cho các họat động
này chỉ có thể đến bằng cách đánh thuế vào khu vực tư .
1.1.3.2. Chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô.
Cũng trong bối cảnh kinh tế thị trường, chức năng thứ nhất – tái phân phối, của
thuế mở đường chức năng thứ hai: điều tiết kinh tế vĩ mô. Khi đó thuế trở thành một
tác nhân của quá trình tái sản xuất xã hội. Trước hết, thuế tác động vào tổng cầu, làm
thay đổi thu nhập khả dụng tại khu vực tư, qua đó gián tiếp tác động đến tổng cung
(GDP). Ngoài ra thuế còn tác động đến tốc độ tăng trưởng GPD và các nhân tố sản
xuất, điều chỉnh cơ cấu GDP, điều tiết xuất nhập khẩu và chính sách kinh tế đối ngoại,
thu hút đầu tư trong và ngoài nước,…

Chức năng tái phân phối thu nhập chỉ ra chiều hướng vận động thu nhập từ khu
vực tư đến khu vực công. Chức năng điều tiết kinh tế cho thấy hướng tác động bằng
công cụ thuế từ nhà nước xuống doanh nghiệp và hộ gia đình. Chức năng thứ nhất tạo
điều kiện thực hiện chức năng thứ hai. Tuy nhiên, ở những giai đoạn kinh tế phát triển
nhất định, lạm dụng chức năng tái phân phối thu nhập theo hướng chỉ có lợi cho nhà


6

nước sẽ đần thủ tiêu động lực kích thích phát triển của khu vực tư, và đồng nghĩa với
việc vô hiệu hóa chức năng điều chỉnh kinh tế của thuế. Mặt khác, thực tế cũng cho
thấy, nếu dùng thuế điều tiết kinh tế bằng việc ấn định thuế suất phân biệt quá mức
giữa các ngành, nghề thì có thể dẫn đến hành vi đầu tư kém hiệu quả chỉ vì lựa chọn
thuế suất thấp. Do đó, quá trình vận dụng hai chức năng trên đòi hỏi phải thích ứng
từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội.
1.2. Vai trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế.
1.2.1. Thuế GTGT tạo số thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước.
Với mục đích tìm nguồn vật chất tài trợ công chi, chính phủ có thể sử dụng nhiều
phương thức ngoài thuế, như: quyên góp dân chúng, xin viện trợ từ nước ngoài, vay
trong và ngoài nước, cho thuê công sản, bán tài nguyên thiên nhiên khai thác được, đầu
tư kinh doanh,phát hành tiên,…. Song chúng không thể tạo ra số thu vừa dồi dào, bền
vững vừa kịp thời cho nhà nước. Chỉ duy nhất thuế tạo được nguồn thu như vậy. Từ đó
khẳng định, tạo nguồn thu chủ yếu cho nhà nước là vai trò độc tôn của thuế.
Để thật sự giữ đúng vai trò tạo số thu quan trọng nhất vào ngân sách nhà nước,
thuế phải bao quát mọi hoạt động kinh doanh: chế biến, sữa chữa, chế tạo, khai thác,
xây dựng, vận tải, buôn bán, ăn uống, dịch vụ…, mọi nguồn thu nhập: thường xuyên,
không thường xuyên, và mọi hoạt động tiêu dùng xã hội. Một nền tài chính quốc gia
chỉ lành mạnh khi dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ nền kinh tế. Nguồn thu đó chính
là thu nhập quốc dân nội địa. Mọi sự trông cậy, dựa vào bên ngoài điều mang lại những
hậu quả xấu và kéo dài.

Nhằm đảm bảo nguồn vật chất cung ứng kịp thời cho nhu cầu chi thường xuyên,
ngay cả khi nền kinh tế có những biến động không thuận lợi, thuế gián thu cần luôn
được coi trọng, bởi tính ổn định của nó tốt hơn tính ổn định của thuế trực thu. Thuế
gián thu dựa trên cơ sở tiêu dùng xã hội mà xã hội thì không thể ngừng tiêu dùng cho
dù nền kinh tế bị khủng hoảng. Việc coi trọng thuế gián thu còn xuất phát từ nguyên
lý: đánh thế vào những gì mà người chịu thuế lấy đi của xã hội sẽ có tác dụng tốt hơn
là đánh vào những gì mà đối tượng chịu thuế nhập vào cho xã hội. Hơn nữa, do cơ chế
đánh thuế lồng vào giá bán nên thuế gián thu sẽ được người chịu thuế dễ dàng chấp
nhận, đôi khi còn ‘kiêu hãnh’ khi trả giá cho sự tiêu dùng cao cấp của mình. Thuế
GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức,


7

cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa, hoặc được dung ứng dịch vụ, nên có thể tạo
được nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
Thông qua thuế, một phần tổng sản phẩm quốc nội được động viên để hình thành
ngân sách nhà nước. Tuy nhiên nếu nhà nước dùng sức mạnh để tái phân phối quá mức
GDP thì phần thuộc về doanh nghiệp và gia đình giảm xuống. Họ sẽ cảm thấy công sức
bỏ vào kinh doanh ngầm nhằm trốn thuế hoặc chấm dứt kinh doanh. Nói cách khác,
nếu nhà nước ngày càng tăng áp lực thu, người nộp thuế càng bị thôi thúc trốn thuế bởi
một mãnh lực vô hình. Do đó, khi tái phân phối thu nhập xã hội bằng thuế phải chú ý
đến khả năng thụ thuế của từng doanh nghiệp và cá nhân.
Khả năng thụ thuế là tỷ lệ tối đa từ thu nhập mà doanh nghiệp và người dân sẵn
sàng trích ra để trả thuế mà không làm thay đổi hoạt động vốn của họ. Đứng ở góc độ
nền kinh tế quốc dân, khả năng thụ thuế của một đất nước cho thấy tỷ phần bình quân
của thu nhập xã hội được động viên thông qua thuế.
Khả năng thụ thuế tùy thuộc vào bản chất và trạng thái kinh tế, truyền thống của
mỗi quốc gia, sự hiểu biết và thái độ của dân chúng đối với các chương trình hành
động và sức mạnh quyền lực của nhà nước. Khả năng thụ thuế là một khái niệm lý

thuyết được dùng để phân định ranh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa khu
vực công và khu vực tư. Nếu nhà nước động viên thuế chưa đạt giới hạn khả năng thụ
thuế thì nguồn lực xã hội tập trung vào tay nhà nước chưa thật đầy đủ. Nếu nhà nước
động viên vượt giới hạn khả năng thụ thuế thì sẽ bào mòn khả năng tích lũy tái sản
xuất mở rộng tại doanh nghiệp và làm giảm sút số thu tương lai.
1.2.2. Thuế GTGT tham gia điều chỉnh kinh tế vĩ mô.
Bất kỳ loại thuế nào khi được ban hành đều ảnh hưởng đến các hành vi của doanh
nghiệp và người tiêu dùng, bởi nó động viên một phần thu nhập của những người này
vào tay nhà nước. Ngoài ra, thuế tác động trực tiếp đến các thành tố chính của kinh tế
vi mô như: tổng sản lượng kinh tế (GDP hoặc GNP), giá cả, lãi suất, thặng dư hoặc
thâm hụt ngoại thương,… Thuế còn giữ một vị trí quan trọng trong các chính sách lớn
của chính phủ: chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tạo việc làm, chính
sách ngoại thương, chính sách tiêu dùng – tiết kiệm – đầu tư xã hội…
Như vậy, thuế không chỉ tạo khoản thu chủ yếu cho Nhà nước mà còn được dùng
như một công cụ điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô. Có thể nói, thông qua thuế


8

chính phủ bày tỏ quan điểm, chủ trương và hành động của mình đối với chương trình
phát triển kinh tế - xã hội.
Tác động của thuế lên hoạt động kinh tế những đặc trưng:
- Phạm vi rộng: thuế bao trùm lên mọi hành vi kinh doanh trên toàn lãnh thổ;
- Trực tiếp: Thuế tác động thẳng vào chi phí, giá cả và thu nhập;
- Nhạy cảm: Thuế tác động vừa tức thời vừa lâu dài đến động thái kinh doanh,
hành vi đầu tư và tiêu dùng.
Vai trò kích thích kinh tế của thuế thể hiện đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Ở đây chỉ
trình bày một số tác động cơ bản của thuế đến hoạt động kinh tế và hành vi của người
tiêu dùng.
1.2.2.1. Thuế GTGT tác động đến cân bằng thị trường.

Khi chính phủ đánh thuế, ngay lập tức, một áp lực xuất hiện và chi phối doanh
nghiệp và dân chúng, khiến họ ít nhiều thay đổi hành vi của mình. Tác động này ảnh
hưởng đến cân bằng thị trường như sau. Gọi PS là giá cung – giá mà người bán nhận
được, Pd là giá cầu – giá mà người mua trả cho người bán. Việc đặt ra các loại thuế như
thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ tạo ra một khoảng chênh lệch giữa giá cung và giá
cầu. Giả sử ta xét thuế GTGT và gọi t là thuế suất thì quan hệ giữa giá cung và giá cầu
như Hình 1.1
Pd = PS + t.PS = PS + T
Hoặc Pd = PS(1+t)
Hình 1.1 Tác động của thuế đến cân bằng thị trường.
Giá
Pd1
P0
Ps1

(S1)=(S0)+T
A

Thuế(T)

C

(S0)
B

E
(D)
Lượng

Q1 Q0

Trước khi đánh, cân bằng thị trường tại B (Qo, Po). Sau khi đánh thuế, đường
cung dịch chuyển lên một đoạn đúng bằng số tiền thuế.


9

(S1) = (S0) + T
Cân bằng mới trên thị trường được thiết lập tại A (Q1, Pd1). Sản lượng được mua,
bán giảm một lượng

Q. giá mà người mua thanh toán cho người bán tăng từ P0 lên

Pd1. Giá mà người bán nhận được giảm từ P0 xuống Ps1.
Ta vẫn có: Pd1 = Ps1 + T (T là số tiền thuế: T = t.P)
Tổng số thuế Nhà nước thu là diện tích hình chữ nhật APd1PS1E.
Phần gánh chịu thuế (tax incidence) bởi người bán là diện tích CP0Ps1E. Phần
gánh chịu thuế bởi người mua là diện tích APd1P0C. Người này hoặc người kia gánh
chịu thuế nhiều hay ít phụ thuộc nhiều vào độ co giãn của cầu và cung theo giá.
Thặng dư của người tiêu dùng (consumer surplus) bị giảm là diện tích ABC.
Thặng dư của người sản xuất (producer surplus) bị giảm là diện tích BCE. Tổng thặng
dư của hai người bị mất đi hoàn toàn không thuộc về ai cả, gọi là phần bị mất trắng
(deadweight loss) hay mất mát xã hội (social loss). Phấn mất trắng do thuế gây ra là
diện tích ABE. Độ lớn của phần mất trắng cũng phụ thuộc vòa độ co giãn của cầu vào
cung theo giá.
Trong thuế gián thu, người chịu ảnh hưởng đầu tiên là các doanh nghiệp, sau đó
thuế được chuyển qua nhiều bậc đến người tiêu dùng, tạo hiện tượng chuyển thuế.
Chuyển thuế xảy ra theo một trong ba trường hợp. một là, doanh nghiệp chuyển hết
thuế vào người tiêu dùng bằng cách cộng thuế vào giá bán và người tiêu dùng mua với
giá cao hơn. Trường hợp này gọi là thuận chuyển. Hai là, doanh nghiệp chuyển một
phần thuế vào người tiêu dùng, nghĩa là gánh nặng thuế được san sẽ giữa hai người. Ba

là, doanh nghiệp chịu toàn bộ gánh nặng thuế, tức là người mua chuyển tất cả số thuế
ngược lại cho người bán bằng cách mua giá thấp. Trường hợp này gọi là nghịch
chuyển. Ranh giới giữa chuyển thuế nghịch và chuyển thuế thuận không phải lúc nào
cũng mang ý nghĩa tuyệt đối mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác (độ co giãn của
cung, cầu théo giá, cơ chế đánh thuế,…). (Nguồn: Tài liệu tham khảo số 5).
1.2.2.2. Thuế GTGT tác động đến yếu tố sản xuất.
Thuế GTGT tác động trực tiếp đến việc sử dụng tư liệu lao động, nhất là tài sản
cố định. So với tài sản lưu động, tài sản cố định đóng vai trò nền tảng của sản xuất, có
giá trị đầu tư lớn nên chậm luân chuyển và kém linh hoạt. Do đó, để khuyến khích các


10

doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa công nghệ, nghiên cứu ứng dụng
thành tựu mới của khoa học – kỹ thuật,... các quốc gia thường dùng chính sách thuế ưu
đãi trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với tài sản cố định
nhập khẩu thuộc loại trong nước chưa sản xuất được hoặc các loại vật tư hình thành
nên tài sản cố định; miễn thuế GTGT cho các hoạt động của quỹ đầu tư, hoạt động cho
thuê tài chính, qua đó khuyến khích đổi mới công nghệ tại các đơn vị sản xuất.
Cùng với tài sản cố định, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất cũng được hưởng
nhiều ưu đãi hoặc bảo hộ bằng thuế của Nhà nước, như miễn thuế GTGT đối với các
nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; nếu nguyên liệu sản xuất được
trong nước thì Nhà nước cho hưởng chính sách bảo hộ. Tuy nhiên, cũng cần chú ý mặt
tiêu cực khi bảo hộ quá mức: làm suy giảm tính cạnh tranh và có thể gây ra tình trạng
độc quyền.
Thuế cũng tác động đến quá trình cung cấp một yếu tố đầu vào khác rất quan
trọng cho nền kinh tế, đó là vốn. Để khuyến khích quá trình cung ứng vốn, các quốc
gia thường miễn thuế GTGT đánh vào dịch vụ tài chính, tín dụng, quỹ đầu tư, cho thuê
tài chính và chuyển nhượng vốn góp…
Việc khấu trừ thuế GTGT đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện

đại hóa, chuyên môn hóa sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá
thành sản phẩm.
Thuế GTGT tránh được hiện tượng đánh thuế chồng lên thuế, phù hợp với nền
kinh tế sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, qua đó kích thích đầu tư.
1.2.2.3. Thuế GTGT tác động đến ngoại thương.
Với thuế suất 0% cho hàng hóa xuất khẩu, toàn bộ thuế GTGT đầu vào được
hoàn trả lại đơn vị xuất khẩu, có tác dụng giảm chi phí, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều
kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. Đây là một
động lực mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu mà không một sắc thuế nào có thể tạo
ra.
Thuế GTGT kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn với hàng nhập khẩu,
có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa.
1.2.3. Thuế GTGT tác động đến ý thức xã hội.


11

Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp
thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều kiện
cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế. Từ đó, tạo được
tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vụ kinh doanh không phải hiệp thương, thỏa thuận về
mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt
thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải lập và lưu giữ chứng từ, hóa đơn đầy
đủ, nên việc thu thuế tương đối sát với thực tế hoạt động kinh doanh.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu
trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hóa đơn mua vào đã thúc đẩy người mua
phải đòi hỏi người bán xuất hóa đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán; khắc
phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế. Ở
khâu bán lẻ, thường xảy ra trốn lậu thuế. Người tiêu dùng không cần đòi hóa đơn, vì
đối với họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế.Tuy vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá

trị tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều.
1.2.4. Thuế GTGT điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân
phối.
Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, việc phân phối của cải và thu nhập mang
tính tập trung rất cao, tạo hai cực đối lập: cực thứ nhất gồm thiểu số người giàu một
cách nhanh chóng; cực kia là những người còn lại không đạt được mức tiến bộ nào
đáng kể về mức sống. Tình hình trên không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức, công
bằng xã hội mà còn tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cư,
làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế, sự phát triển mọi
mặt của một đất nước là kết quả của nỗ lực cộng đồng; mỗi thành viên xã hội đều có
những đóng góp nhất định. Nếu không chia sẻ thành quả phát triển kinh tế cho mọi
người thì rõ ràng thiếu công bằng. Do vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào
quá trình phân phối thu nhập, của cải xã hội. Một công cụ tác động trực tiếp vào quá
trình này là chính sách thuế.
Thuế GTGT góp phần điều hòa thu nhập xã hội được thực hiện. Tuy nhiên do đặc
tính lũy thóai nên nhà nước can thiệp vào bằng cách quy định về đối tượng chịu thuế
và đối tượng không chịu thuế, chế độ miễn giảm, thuế suất …. nhằm thực hiện công
bằng xã hội.


12

Nhìn chung, trong các sắc thuế gián thu, thuế GTGT được coi là phương pháp
thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao về vai trò trong phát triển kinh tế.
1.3. Các nguyên tắc cơ bản xây dựng thuế GTGT hướng vào kích thích kinh tế.
1.3.1. Tính minh bạch.
Về mặt xã hội nguyên tắc này đòi hỏi các quy định về thuế phải rõ ràng và mang
tính đại chúng nhằm ngăn ngừa hiện tượng lạm dụng đối với người nộp, ngăn ngừa
hiện tượng tham ô và biển lận thuế ở nhân viên thuế, đồng thời cho thấy thái độ tôn
trọng người nộp thuế của chính phủ. Trong kinh doanh, thuế là một khỏan chi phí

(nghĩa vụ) nhưng cũng có thể là một khoản ưu đãi (quyền lợi). Do đó, sự rõ ràng của
thuế giúp các chủ thể kinh doanh hoạch định chính xác mọi chi phí về thuế và đánh
giá đầy đủ ưu đãi của thuế. Từ đó, họ cảm thấy yên tâm sản xuất, kinh doanh và mạnh
dạn đầu tư lâu dài.
Nguyên tắc minh bạch thể hiện cụ thể qua các điểm sau:
- Thuế phải được xây dựng theo một trình tự pháp lý nghiêm ngặt.
- Nhà nước và các cơ quan hành thu phải tạo điều kiện để doanh nghiệp và dân
chúng thực hiện quyền được biết một cách minh bạch số tiền thuế phải nộp, thủ tục
thu, nộp thuế, ưu đãi về thuế, …
- Những quy định về thuế phải phổ thông và nhất quán; tính toán thuế phải đơn
giản, dễ thực hiện và dễ kiểm tra. Điều mà bất kỳ người nào cũng nhận thức được là để
chấp nhận được một sắc thuế, người nộp thuế phải hiểu được nó. Khi mà tính phức tạp
của sắc thuế mới gia tăng so với sắc thuế cũ thì sự hiểu biết của quần chúng giảm
xuống, kết quả tất yếu là cản sự tăng của số thu.
- Thuế thu phải thuận tiện cho người nộp theo thời gian và không gian.
1.3.2. Tính hiệu quả.
Nguyên tắc hiệu quả yêu cầu đối xử thuế như một công cụ kinh tế nhằm tăng
cường vai trò của thuế đối với các hoạt động kinh tế-xã hội.
Một hệ thống thuế gọi là hiệu quả khi được phát huy tối đa mọi tác dụng. Tác
dụng của thuế ngày nay không chỉ giới hạn ở chỗ tạo khoản thu chủ yếu cho nhà nước,
mà còn được sử dụng để tác động vào mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế-xã hội.
Nói khác đi, thuế là một công cụ thuộc chính sách tài chính vĩ mô chứa đựng nhiều
mục tiêu: tạo số thu ngân sách nhà nước, tăng cường quản lý các hoạt động kinh tế-xã


13

hội, điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
toàn diện, tạo hành lang cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, khuyến khích
đầu tư và tiết kiệm bên trong nền kinh tế, điều tiết hợp lý thu nhập của các doanh

nghiệp và mọi tầng lớp dân cư,…. Tính đa mục tiêu không đòi hỏi mỗi sắc thuế phải
được xây dựng theo hướng đa mục tiêu bởi như thế sẽ cồng kềnh và kém hiệu quả, mà
trái lại, cần phải chuyên biệt hóa mục tiêu cho từng sắc thuế.
Thêm nữa, hiệu quả của hệ thống thuế còn thể hiện thông qua chi phí hành thu
thấp. Chi phí này khác nhau ở mỗi sắc thuế, nhưng bình quân không nên vượt 1% số
thuế thu được. Tiết giảm chi phí thu thuế liên quan nhiều đến phương pháp hành thu.
Phương pháp tương đối tiết kiệm chi phí là để người nộp thuế tự khai, tự tính và nộp
thuế.
Trên phương diện nền kinh tế, phải tính vào chi phí thu thuế những chi phí mà xã
hội mất đi cho một đồng thuế thu được vào ngân sách nhà nước. Đó là chi phí thời gian
và công sức mà đối tượng nộp thuế phải bỏ ra để nghiên cứu thực thi thuế, là chi phí
sắp xếp quá trình kinh doanh phù hợp những quy định thuế mới.
1.3.3. Tính công bằng.
Trên phương diện kinh tế, nguyên tắc công bằng đòi hỏi thuế tái phân phối thu
nhập xã hội theo khả năng tài chính của người chịu thuế. Về mặt xã hội, nguyên tắc
công bằng đòi hỏi thuế không được phân biệt đối xử đối tượng nộp thuế và thuế phải
góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Nguyên tắc công bằng có liên quan đến nguyên tắc thuế trung lập. Nguyên tắc
thuế trung lập đòi hỏi nhà nước không được nhân cơ hội đánh thuế để làm thay đổi
tương quan thu nhập giữa các doanh nghiệp hoặc tình trạng kinh tế của mỗi công dân.
Thuế chỉ nên làm số thu nhập thường xuyên của tư nhân giảm xuống, rồi đến khi chi
tiêu, nhà nước hoàn lại cho cá nhân bằng lợi ích của các dịch vụ do chính phủ cung
cấp.
Không chỉ hành thu thuế sao cho công bằng, mà ngay cả động viên bao nhiêu
phần trăm GDP qua thuế cũng là một vấn đề thuộc lĩnh vực công bằng. Nhà nước nắm
quyền lực lượng công cộng, nên chiếm ưu thuế khi phân chia thu nhập với doanh
nghiệp và dân cư. Nếu nhà nước thu thuế vượt qua khả năng thụ thuế của doanh nghiệp
và dân cư thì không những chi phí để thu một đồng thuế sẽ vượt quá lợi ích do đồng



14

thuế mang lại mà còn gây căng thẳng trong phân chia thu nhập giữa khu vực tư và khu
vực công. Điều này chắc chắn ảnh hưởng không nhỏ đến bầu không khí kinh doanh
trên phạm vi cả nước.
Thuế GTGT là một loại thuế có tính chất lũy thoái và như vậy, tính công bằng
của thuế GTGT được đề ra khó có thể được đáp ứng đầy đủ. Ở đây, cần nên hiểu tiêu
chuẩn này đối với thuế GTGT trên nghĩa hẹp là: các doanh nghiệp trong hoàn cảnh như
nhau phải chịu thuế như nhau và các doanh nghiệp có khả năng thanh toán khác nhau
phải bị đánh thuế khác nhau khi chịu thuế GTGT.
1.3.4. Tính linh hoạt.
Nguyên tắc linh hoạt đòi hỏi thuế gắn chặt hoạt động kinh tế, phản ánh thực sự
những thăng trầm kinh tế và những biến động chính trị, xã hội. Tính linh hoạt thể hiện
qua độ nổi và độ co giãn của thuế (tax bouyancy and tax eláticity).
+ Độ nổi của thuế là tỷ số giữa phần trăm thay đổi tổng số thuế thu được với phần
trăm thay đổi GDP. Gọi % T là phần trăm thay đổi của tổng thu thuế năm nay so với
năm trước và % Y là phần trăm thay đổi GDP năm nay so với năm trước, thì độ nổi
của thuế được tính như sau:
Độ nổi của thuế = % T / % Y
Chẳng hạn, = % T là 7%và % Y là 5% thì độ nổi của thuế là 1,4. Điều này có
nghĩa là cứ 1% tăng GDP thì tổng thu thuế tăng 1,4%. Khi đó ta nói hệ thống thuế
mang tính nổi: thuế được coi như chiếc lá trên mặt nước là nền kinh tế. Nếu những
thay đổi về cơ sở thuế hoặc thuế suất hoặc cả hai khiến tổng thu thuế tăng theo nhịp độ
bằng hoặc lớn hơn nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế thì khi đó chiếc lá – thuế sẽ nổi
trên bề mặt của nền kinh tế. Nếu những thay đổi về cơ sở thuế hoặc thuế suất hoặc cả
hai không làm tổng thu thuế gia tăng hoặc tăng không kịp GDP thì chiếc lá – thuế
không nổi được ( độ nổi

1 ). Như vậy, độ nổi phản ánh độ quyện chặt của thuế vào


hoạt động kinh tế.
Miễn, giảm thuế sẽ gây ảnh hưởng nguy hiểm đến độ nổi của thuế. Tức là, nếu
căn bản thuế bị sói mòn do quy định này thì số thuế thu được không thể tăng cùng một
tỷ lệ GDP. Hơn nữa, sự lạm dụng chính sách đó sẽ làm suy yếu tính cưỡng chế của
thuế và gây ra trạng thái bất bình đẳng thuế.


15

+ Độ co giãn của thuế là tỷ số giữa phần trăm thay đổi tổng thu thuế với phần
trăm thay đổi GDP. Tổng thu thuế dùng để tính độ co giãn không được bao gồm các
khoản thu do thay đổi cơ sở thuế hoặc thuế suất hoặc cả hai. Độ co giãn của thuế là
một số đo nhạy cảm của thuế trước những thay đổi của nền kinh tế. Gọi % T* là phần
trăm thay đổi tổng thu thuế không tính đến thay đổi cơ sở thuế hoặc thuế suất hoặc cả
hai và % Y là phần trăm thay đổi GDP, độ co giãn của thuế được tính như sau.
Độ co giãn của thuế = =

%ΔT *
%ΔY

Độ co giãn thuế khó tính hơn độ nổi của thuế bởi phải loại trừ thay đổi cơ sơ thuế
hoặc thuế suất hoặc cả hai. Độ co giãn thuế thường nhỏ dưới độ nổi của thuế.
Như vậy, tình trạng không nổi được hoặc nổi quá mức của thuế phản ánh tình
trạng thuế thoát ly hoạt động kinh tế. Khi đó không thể bàn đến vai trò kích thích kinh
tế của thuế.
Ngoài độ nổi và độ co giãn, nguyên tắc linh hoạt còn đòi hỏi khi đưa ra các quy
định, pháp luật thuế phải tiên liệu mọi phát sinh hay thay đổi của căn bản thuế, khi đó
thuế sẽ đạt một độ ổn định trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy chính sự
linh hoạt của thuế làm cho những quy định về thuế ổn định. Điều này, không chỉ giúp
nhà nước tiết kiệm chi phí hành thu mà còn giúp các doanh nghiệp tiết kiệm đáng kể

thời gian và công sức cho việc thực thi thuế.
1.3.5. Tính chắc chắn.
Tiêu chuẩn này đòi hỏi thuế GTGT phải ổn định tương đối, có thể dự kiến trước
được để cho người nộp thuế - bao gồm các thể nhân và pháp nhân- không phải do đối
phó thường xuyên với nhà nước về việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế mà có thể tập
trung vào các hoạt động nhằm thăng tiến hoạt động kinh doanh hoặc cá nhân. Một mô
hình thuế GTGT đáp ứng được tiêu chuẩn chắc chắn này phải có những đặc điểm sau:
Thuế suất phải được ổn định cho một khoảng thời gian dài ít nhất là 5 năm.
Thời hạn này trong nhiều trường hợp có thể là yên tâm các doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả và đó cũng là khoảng thời gian tương đối vừa đủ cho các doanh nghiệp hoạt
động kém phải cảnh giác với tương lai phá sản đang tới.
Tính chất ổn định và rõ ràng, tuy vậy cũng không nên đối lập hẳn với tính linh
hoạt của hệ thống thuế. Bởi nền kinh tế là một thể thống nhất, luôn luôn vận động và


16

tạo ra những môi trường mới cho việc cải cách thuế. Cả hai tính chất chắc chắn và linh
hoạt cần được cân đối với nhau. Tính linh hoạt được đặt ra bởi các lý do về mặt kinh tế
và cả về mặt chính trị quyết định. Nếu một chính sách về thuế GTGT được sử dụng để
ổn định nền kinh tế thì nó phải có được khả năng làm thay đổi thuế suất và nguồn thu
nhằm điều chỉnh được thu nhập hiện tại cũng như tác động đến tổng mức cầu.
1.4. Một số mâu thuẫn nảy sinh khi sử dụng công cụ thuế trong phát triển kinh
tế.
1.4.1. Mâu thuẫn giữa tăng thuế để đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên ngày càng
tăng và chủ động giảm thuế để khuyến khích sản xuất và đầu tư.
Mặc dù thuế mang tính cưỡng chế song không thể gia tăng vô hạn áp lực thuế lên
các DN và cá nhân bởi điều này sẽ làm họ trốn tránh kinh doanh công khai và chuyển
sang kinh doanh ngầm. Rõ là, tác động gia tăng thu nhập từ tăng thuế không bù đắp
được những thiệt hại do đã làm DN và nhà đầu tư nản chí. Cho nên tổng thu thuế vào

ngân sách không tăng. Trái lại, trong nhiều trường hợp, cắt giảm thuế sẽ có tác dụng
kích cầu, kéo theo là sự gia tăng đầu tư ở khu vực tư và kích thích GDP tăng trưởng.
Hơn nữa, nếu áp lực thuế giảm xuống thì người nộp thuế sẽ dễ chấp nhận hơn và
không tìm cách trốn thuế nữa bởi chi phí cơ hội của hành vi trốn thuế quá cao. Từ đó,
họ “tự nguyện” nộp thuế, tức là họ hành động theo lý tính.
Một khi chế độ thuế khiến người nộp thuế hành động theo lý tính, thì mâu thuẫn
nói trên sẽ được hóa giải.
1.4.2. Mâu thuẫn giữa chủ trương hội nhập các khối thương mại, kinh tế trong
khu vực và trên thế giới với chính sách bảo hộ sản xuất nội địa.
Mỗi nước đối với cộng đồng vừa là người bán vừa là người mua, nên sự tồn tại
của các nước cần thiết cho nhau. Mỗi nước không thể phát triển mạnh mẽ và bền vững
nếu dựa trên các quan hệ kinh tế bất bình đẳng, xâm hại lợi ích của nhau. Khi hiểu tính
liên kết để tồn tại là một tất yếu, chúng ta sẽ thấy rằng chính sách thuế đương nhiên là
những bước dẫn nhập đầu tiên cho quá trình hội nhập. Trong quá trình này thuế tạo sân
chơi bình đẳng cho cả DN nội địa lẫn nước ngoài và không phân biệt đối xử hàng trong
nước hay hàng nhập khẩu. Muốn tồn tại, các DN chỉ còn một cách duy nhất là cạnh
tranh đúng luật bằng chính nội lực của mình, chứ không thể trông chờ Nhà nước bảo
hộ bằng thuế như trước.


17

Đồng thời, nếu không có chính sách bảo hộ sản xuất nội địa thì các ngành công
nghiệp non trẻ của quốc gia (như: công nghiệp điện tử, công nghệ sinh học, công
nghiệp vật liệu mới, công nghiệp thông tin, công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng) khó
đứng vững trước những đợt cạnh tranh gay gắt từ nước ngoài. Nhưng nếu dùng thuế để
bảo hộ lâu dài, một quốc gia sẽ bị cô lập với thế giới bên ngoài và chắc chắn bị tụt hậu.
Mâu thuẫn này được khắc phục bằng cách thay đổi cơ cấu thuế theo hướng nội
địa hóa nguồn thu, tức là từng bước giảm thấp tỷ trọng thuế xuất – nhập khẩu trong
tổng thuế.

1.4.3. Mâu thuẫn giữa chủ trương ưu đãi thuế để khuyến khích sản xuất và đầu tư
với chủ trương tạo hành lang thuế bình đẳng, trung lập.
Chính sách thuế ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng tích cực
đến thu hút đầu tư vào các quốc gia. Nhưng càng về sau, bất kể Chính phủ tăng nhiều
biện pháp ưu đãi như: kéo dài thời gian giảm thuế, mở rộng diện miễn thuế nhập
khẩu,… tình hình đầu tư nước ngoài vẫn không nhộn nhịp như giai đoạn trước. Tình
hình trên cho phép nhận định rằng, nếu chỉ chú trọng đến thuế mà bỏ qua các công cụ
kinh tế mà hành chính khác thì không những chưa đủ hiệu lực để lôi kéo trở lại nhà đầu
tư nước ngoài mà còn cản trở sự phát triển của đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nội địa
bị đối xử bất bình đẳng lâu dài ngay trên đất nước của mình là một nghịch lý khó biện
minh. Vậy giải quyết như thế nào giữa ưu đãi thuế để thu hút đầu tư nước ngoài và
bình đẳng thuế để khơi nguồn vốn nội địa?
Ba mâu thuẫn nói trên thực chất xuất phát từ mâu thuẫn giữa tính hiệu quả và tính
công bằng (efficiency vs equity) trong quá trình sử dụng thuế. Chúng đòi hỏi phải chọn
lựa và bắt buộc chấp nhận đánh đổi. Cơ sở lý luận cho sự đánh đổi những phân tích về
hiệu quả (chứ không phải kết quả) và chi phí của một biện pháp thuế đưa ra.
1.5. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới khi áp dụng thuế GTGT.
Người đầu tiên nghĩ ra thuế GTGT là ông Carl Friedrich Von Siemens (người
Đức, là thành viên của gia đình sáng lập Công ty Siemens A.G), tuy nhiên, ông không
thuyết phục được chính phủ Đức lúc bấy giờ (1918) thực thi loại thuế này, mà mãi đến
năm 1968 thuế GTGT mới được áp dụng ở Đức.
Trên thực tế, thuế GTGT được khai sinh từ nước Pháp. Vào năm 1954, chính
phủ Pháp đã ban hành một loại thuế mới với tên gọi là thuế GTGT để thay thế cho thuế


18

doanh thu hiện hành (phát hiện sự cần thiết đưa thuế GTGT vào hệ thống thuế Pháp là
ông Maurice Laure, một cán bộ thuế).
Tính đến nay đã có trên 120 quốc gia trên thế giới đã áp dụng sắc thuế này. Tuy

nhiên, về tên gọi ở một số nước có thể không giống nhau, chẳng hạn như: các nước
Pháp, Anh, Thụy Điển…. thì gọi là thuế GTGT, một số nước gọi là thuế hàng hóa và
dịch vụ như: Canada, Niu di lân…, ở Phần Lan, Áo, Đức…. vẫn dùng tên gọi cũ là
thuế doanh thu cũ, chỉ thay đổi nội dung và biện pháp thu.
Khi nói đến kinh nghiệm là phải dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nhưng tổng
kết kinh nghiệm áp dụng thuế GTGT của các nước là việc khó thực hiện. Trong nội
dung phần này, đề tài cũng chỉ nêu lên những nét cơ bản của Luật thuế GTGT được áp
dụng ở một số nước trên thế giới, qua đó rút ra những điểm cơ bản về nội dung có thể
vận dụng vào điều kiện của Việt Nam hiện nay.
1.5.1. Kinh nghiệm ở Thụy Điển về việc qui định áp dụng một thuế suất.
Ngay từ khi áp dụng thuế GTGT (01/01/1960), Thụy Điển đã áp dụng một thuế
suất là 4%, sau đó lại mở rộng áp dụng ba mức thuế suất là 4%, 12%, 20%. Nhưng kể
từ ngày 01/01/1991 cho đến nay, Thụy Điển áp dụng một thuế suất duy nhất là 25%,
đánh vào tất cả các hàng hóa, dịch vụ (trừ những loại ngành hàng và dịch vụ qui định
được miễn thuế GTGT như giáo dục, dịch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, hội họa,
mỹ thuật, sách báo, tạp chí, dịch vụ tang lễ…).
Như vậy, xu hướng thuế suất của Thụy Điển là ngày càng cao và ít thuế suất,
không phân biệt ngành hàng, mặt hàng. Tuy nhiên, điều kiện áp dụng của Thụy Điển là
hệ thống thuế của họ đã có từ lâu đời, được tổ chức tập trung, thống nhất và việc thu
thuế đã trở thành nề nếp, áp dụng kỹ thuật hiện đại. Hơn nữa, Thụy Điển là một nước
có nền kinh tế phát triển cao, nhân dân Thụy Điển đã quen với sự quản lý nhà nước
bằng Pháp luật, tinh thần tự giác chấp hành luật thuế rất cao, các cơ sở nộp thuế GTGT
luôn chấp hành tốt chế độ kê khai và mở sổ sách kế toán, sử dụng hóa đơn đầy đủ.
Ở Việt Nam, hiện nay với một nền kinh tế phát triển chưa cao, ý thức chấp hành
pháp luật còn thấp. Do đó, khi rút kinh nghiệm cần quan tâm đến các nội dung:
- Nếu quy định nhiều mức thuế suất thì việc áp dụng sẽ rất phức tạp, khó thực
hiện. Vì vậy cần hướng đến một thuế suất GTGT duy nhất và mức thuế suất điều chỉnh
cần hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.



19

- Cần phải quan tâm đến công tác tuyên truyền về pháp luật, nhất là pháp luật về
thuế để nâng cao ý thức chấp hành về thuế trong nhân dân khi triển khai thực hịên. Có
như thế thì mới thực hiện thuế GTGT một cách có hiệu quả.
1.5.2. Kinh nghiệm của Indonesia về việc tổ chức thực hiện Luật thuế GTGT theo
từng bước và mở rộng dần diện chịu thuế.
Trước khi áp dụng thuế GTGT, Indonesia cũng đã vận dụng kinh nghiệm của
những nước đi trước nhưng họ luôn coi trọng đặc điểm kinh tế xã hội ở nước mình để
từng bước thực hiện sao cho phù hợp. Thuế GTGT của Indonesia tương đối đơn giản,
áp dụng ít thuế suất, với thuế suất thấp và các qui định miễn giảm chặt chẽ. Luật thuế
chỉ qui định hai thuế suất: 0% áp dụng đối với xuất khẩu, còn đối với tất cả các loại
hàng, hóa, dịch vụ khác áp dụng thuế suất 10%. Những hàng hóa, dịch vụ miễn giảm
được qui định rất cụ thể.
Thời gian đầu thực hiện triển khai Luật thuế GTGT, do trình độ quản lý của cán
bộ thuế chưa cao và nhận thức của người nộp thuế còn nhiều hạn chế nên để phù hợp
với khả năng nhận thức, Chính phủ Indonesia đã có kế hoạch tổ chức thực hiện thuế
GTGT theo từng bước. Thời gian áp dụng thuế GTGT cho từng đối tượng cụ thể như
sau:
- Năm 1985 áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, dịch vụ và
người nhập khẩu, sau đó mở rộng đến các Tổng địa lý bao tiêu sản phẩm, dịch vụ.
- Năm 1989 áp dụng đến các Địa lý bán buôn.
- Năm 1992 áp dụng đến các cửa hang bán lẻ và người tiêu dùng.
Tóm lại, ở Indonesia đã tổ chức thực hiện luật thuế GTGT theo từng bước và mở
rộng dần diện chịu thuế GTGT, trong thời gian cụ thể sẽ có những đối tượng không áp
dụng thuế GTGT. Có như vậy, cán bộ thuế có đủ thời gian thích nghi với luật thuế mới,
có điều kiện nghiên cứu bổ sung hoàn chỉnh luật thuế phù hợp với thực tế. Tuy nhiên,
điểm yếu của việc điều chỉnh dần đối tượng chịu thuế theo cách triển khai này là dễ
gây ra thất thu cho ngân sách, không đảm bảo công bằng giữa những người nộp thuế.
1.5.3. Kinh nghiệm của Pháp về đối tượng áp dụng thuế GTGT.

Thời gian đầu áp dụng, Luật thuế GTGT áp dụng tại Pháp có 04 thuế suất: 9%,
20%, 25% và 33%, đến nay nhằm phù hợp với thuế suất theo cộng đồng Châu Âu,
Pháp áp dụng còn 02 mức thuế suất là 18,6% đánh vào tất cả các hàng hóa, dịch vụ và


20

5,5% đánh vào các sản phẩm hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa dịch vụ hoặc gia công theo
qui định cụ thể, hàng xuất khẩu sẽ được miễn thuế GTGT. Các đối tượng thuộc diện
nộp thuế GTGT phải thực hiện đầy đủ chế độ sổ sách, chứng từ hóa đơn đúng qui định,
phải có nghĩa vụ khai báo và nộp thuế cho cơ quan thuế. Ngoài ra, tại Pháp cũng qui
định về thuế khoán thu thuế với mức ấn định áp dụng đối với những cơ sở kinh doanh
thuộc lại vừa và nhỏ có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng chịu thuế GTGT mà
nhà nước qui định.
Như vậy, rút kinh nghiệm từ Pháp, khi thực hiện Luật thuế GTGT, Việt Nam
cần xem xét các vấn đề:
- Chỉ áp dụng thuế GTGT đối với những cơ sở kinh doanh lớn, mở sổ sách kế
toán và sử dụng hóa đơn chứng từ đúng qui định của Luật.
- Đối với những hộ vừa và nhỏ có doanh thu hàng năm thấp không đạt đến
ngưỡng phải đưa vào diện chịu thuế GTGT hoặc vi phạm về chế độ kế toán chứng từ
hóa đơn thì chuyển sang diện thu thuế khoán theo tỉ lệ ấn định trên doanh thu nhằm
tránh việc thất thu đối với các hộ này. Nhà nước phải qui định cụ thể ngưỡng doanh thu
chịu thuế GTGT áp dụng phù hợp với từng ngành nghề kinh doanh và trình độ phát
triển kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn.
Từ sự phân tích về những bài học kinh nghiệm của một số nước khi áp dụng
thuế GTGT, chúng ta có thể rút ra những nhận xét chung và có thể coi đó là những bài
học cơ bản để đảm bảo sự thành công của luật thuế GTGT.
Thứ nhất, phải áp dụng thuế GTGT trên phạm vi rộng từ sản xuất, lưu thông
cho đến tiêu dùng không phân biệt hàng hóa sản xuất trong nước hay nhập khẩu. Tuy
nhiên, đối với những cá nhân, hộ kinh doanh nhỏ có doanh thu hàng năm phát sinh

thấp thì vẫn áp dụng hình thức ấn định thuế không nên đưa vào diện nộp thuế GTGT vì
điều này sẽ dẫn đến hiệu quả quản lý thuế thấp và chưa tập trung.
Thứ hai, chỉ nên áp dụng một hoặc hai thuế suất và trong hai thuế suất đó có
một thuế suất là 0% nhằm đảm bảo tính công bằng giữa các cơ sở kinh doanh, đảm bảo
được tính đơn giản của Luật thuế và dễ áp dụng.
Thứ ba, phải chú trọng đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật về thuế
và nhất là thuế GTGT nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người công dân.


×