Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Đánh giá tác động của tham nhũng vào luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các quốc gia Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

VŨ THANH TÙNG

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG
VÀO LUỒNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CHẢY VÀO CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Chuyên ngành: Tài chính - ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH THỊ THU HỒNG

TP. Hồ Chí Minh - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

VŨ THANH TÙNG

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG
VÀO LUỒNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CHẢY VÀO CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Chuyên ngành: Tài chính - ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH THỊ THU HỒNG

TP. Hồ Chí Minh - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ: “Đánh giá tác động của tham
nhũng vào luồng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các quốc gia
Đông Nam Á” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, chưa
từng được công bố trước đây.
Tác giả

Vũ Thanh Tùng


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG - BIỂU
TÓM TẮT
CHƯƠNG I: PHẦN MỞ ĐẦU ..............................................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề .....................................................................................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................................................3
1.2.1. Mục tiêu chung .......................................................................................................................3
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu.................................................................................................................3

1.3. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu: ........................................................................3
1.4. Ý nghĩa thực tiễn ...........................................................................................................................4
1.5. Bố cục bài nghiên cứu ...................................................................................................................4
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN ...........................................................................................................6
2.1. Tham nhũng ..................................................................................................................................6
2.1.1. Khái quát ................................................................................................................................6
2.1.2. Cách nhận biết tham nhũng ....................................................................................................6
2.1.3. Các chỉ số đo lường tham nhũng ............................................................................................7
2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ...........................................................................................................8
2.2.1. Khái quát ................................................................................................................................8
2.2.2. Lý thuyết hỗ trợ “Đầu tư trực tiếp nước ngoài” .....................................................................9
2.2.3. Các nhân tố tác động tới FDI .............................................................................................. 11
2.3. Mối quan hệ giữa Tham nhũng và Đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................ 13
2.3.1. Tác động của tham nhũng vào FDI ..................................................................................... 13
2.3.2. Tham nhũng tác dụng vào FDI theo hướng tích cực hay tiêu cực? ..................................... 16
2.3.3. Tác động ngược trở lại của FDI vào tham nhũng ................................................................ 17
3.3. Khảo lược các nghiên cứu liên quan .......................................................................................... 17
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THAM NHŨNG VÀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI ĐÔNG NAM Á ..................................................................................................22
3.1. Thực trạng tham nhũng .............................................................................................................. 22
3.2. Thực trạng thu hút FDI............................................................................................................... 25


CHƯƠNG 4: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...............................................................................30
4.1. Phương pháp thu thập số liệu: .................................................................................................... 30
4.2. Mô tả và cách thức đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu: ............................................ 30
4.3. Phương pháp nghiên cứu:........................................................................................................... 33
4.3.1. Kiểm định mô hình:............................................................................................................. 33
4.3.2: Mô hình ước lượng .............................................................................................................. 34
CHƯƠNG 5: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...........................................................................................36

5.1. Thống kê mô tả dữ liệu .............................................................................................................. 36
5.2. Kiểm định mô hình hồi quy........................................................................................................ 38
5.2.1. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến .................................................................................. 38
5.2.2. Kiểm định phương sai sai số thay đổi ................................................................................. 39
5.2.3. Kiểm định hiện tượng tự tương quan .................................................................................. 39
5.3. Kết quả phân tích mô hình hồi quy ............................................................................................ 39
CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ ..........................................................................................46
6.1. Kết luận ...................................................................................................................................... 46
6.2. Gợi ý chính sách:........................................................................................................................ 47
6.3. Hạn chế của đề tài ...................................................................................................................... 49
6.4. Hướng nghiên cứu trong tương lai ............................................................................................. 50

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

CPI

Chỉ số Cảm nhận tham nhũng

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FEM


Phương pháp tác động cố định

FFC

Chỉ số Tự do không tham nhũng

FGLS

Phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát khả thi

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

MNCs

Các công ty đa quốc gia

REM

Phương pháp tác động ngẫu nhiên

WB

Ngân hàng Thế giới

WTO

Tổ chức thương mại Thế giới



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Chỉ số FFC trung bình khu vực Đông Nam Á giai đoạn 1995-2017
Bảng 3.2: Chỉ số FFC trung bình của các nước Đông Nam Á (1995-2017)
Bảng 3.3: Chỉ số FFC trung bình các khu vực trên Thế giới năm 2016
Bảng 3.4: Kết quản thăm dò ý kiến công chúng ASEAN năm 2014
Bảng 3.5: Tổng mức FDI vào ròng của khu vực Đông Nam Á giai đoạn 1995-2017
Bảng 3.6: Mức FDI vào ròng trung bình của Đông Nam Á trong giai đoạn 1995-2017
Bảng 3.7: Danh sách các Quốc gia đầu tư nhiều nhất vào ASEAN năm 2016
Bảng 4.1: Mô tả biến và nguồn dữ liệu
Bảng 5.1: Bảng thống kê mô tả biến
Bảng 5.2: Hệ số phóng đại phương sai
Bảng 5.3: Kết quả hồi quy mô hình


TÓM TẮT

Nghiên cứu này cung cấp những đánh giá về ảnh hưởng của tham nhũng đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong giai đoạn từ năm 1995 đến 2017 tại 10 nền
kinh tế Đông Nam Á, dưới sự kiểm soát của các nhân tố vĩ mô khác như: tăng trưởng
kinh tế, độ mở thương mại, cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực.
Bằng chứng thực nghiệm trong nghiên cứu này, đã chứng minh rằng tham nhũng
có ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút nguồn vốn FDI tại khu vực Đông Nam Á.
Nhưng tác động của tham nhũng bị lấn át bởi các yếu tố như cơ sở hạ tầng, chất lượng
nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên… đều là những nhân tố có tác động tích cực tới
nguồn vốn FDI, điều này giải thích tại sao nhiều nước trong khu vực có mức độ tham
nhũng cao nhưng lại có khả năng thu hút một lượng lớn nguồn vốn FDI hàng năm.
Với những lo ngại và rủi ro tiềm ẩn do tham nhũng gây ra, và với các kế hoạch
đầy tham vọng của cộng đồng kinh tế ASEAN, lập trường chống tham nhũng hiện tại

của Chính phủ các nước vẫn chậm và không đủ sức thay đổi tình hình thực tế. Ở cấp
quốc gia, các quốc gia phải tăng cường các nỗ lực chống tham nhũng của chính mình,
ở cấp khu vực, các nước phải thúc đẩy và tăng cường hợp tác chống tham nhũng trên
toàn khu vực để đối phó với các thách thức hiện có và đang nổi lên trong tương lai.


1

CHƯƠNG I: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới diễn ra đầu những năm 1990 đã dẫn đến sự
thay đổi đáng kể về quan điểm của các quốc gia trên Thế giới đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI). FDI không còn bị các nước đang phát triển nghi ngờ, việc kiểm soát
và hạn chế đối với việc nhập cảnh và hoạt động của các công ty nước ngoài hiện đang
được thay thế bằng các chính sách nhằm khuyến khích thu hút dòng vốn FDI. Vì vậy,
FDI trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều Chính phủ các nước và trở thành đề tài
nghiên cứu có sức hút đối với các học giả trên Thế giới. Một trong những thành tựu
trong lĩnh vực nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài là Lý thuyết chiết trung của
Dunning (1977). Theo lý thuyết này, một trong các yếu tố quan trọng để đánh giá về
lợi thế thu hút đầu tư nước ngoài của một quốc gia chính là mức độ tham nhũng tại
chính quốc gia đó. Trên cơ sở Lý thuyết chiết trung, nhiều nghiên cứu cũng đã tiến
hành phân tích chuyên sâu về mối quan hệ giữa tham nhũng và FDI, và từ đó đưa ra
những bằng chứng thực nghiệm cũng như luận điểm giải thích về mối quan hệ giữa hai
nhân tố này.
Tại Đông Nam Á, khu vực được coi là điểm sáng của nền kinh tế toàn cầu với
sự phát triển vượt bậc về kinh tế-xã hội, nhu cầu nội địa tăng mạnh, trở thành một
trong những trung tâm sản xuất và tăng trưởng toàn cầu. Với những ưu thế nhất định
khi được xem là thị trường tiềm năng mới, lực lượng lao động dồi dào, chi phí lao
động rẻ và áp dụng nhiều chính sách ưu đãi đầu tư, sức hấp dẫn đầu tư từ bên ngoài
vào Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tăng lên rất nhanh. Các công ty

đa quốc gia (MNCs) không ngừng mở rộng, tăng cường sự hiện diện của mình trong
lĩnh vực sản xuất, tài chính, và dịch vụ khác. Theo “Báo cáo Đầu tư Asean”, tính
riêng năm 2015, Asean tiếp nhận khoảng 16% tổng vốn FDI của thế giới chảy vào
các nền kinh tế của khu vực, với tổng số vốn FDI là 120 tỷ đôla. Song song với
những thành tựu đó, các quốc gia Đông Nam Á đang đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm
trọng. Trong đó, sự tồn tại của vấn nạn tham nhũng trong mọi khía cạnh của đời sống
kinh tế-xã hội-chính trị được xem là vấn đề đáng lo ngại nhất. Những nghiên cứu trước


2

đây đã chỉ ra rằng nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này bắt nguồn từ việc các quốc
gia có chất lượng khung thể chế kém, mức độ dân chủ và tự do kinh tế yếu kém, trong
khi thu nhập của giới công chức còn thấp so với khu vực tư nhân, khu vực doanh
nghiệp bên ngoài. Vấn nạn tham nhũng tại Đông Nam Á sẽ đe dọa làm suy yếu các kế
hoạch thúc đẩy hội nhập kinh tế trong khu vực. Tổ chức Minh bạch Quốc tế kêu gọi
ASEAN nên đưa phòng, chống tham nhũng trở thành một hợp phần cơ bản của cộng
đồng kinh tế. Nếu ASEAN muốn đạt được các kỳ vọng về khối thịnh vượng chung,
cũng như tạo ra dòng dịch chuyển tự do về hàng hóa, dịch vụ, lao động,... các Chính
phủ cần thiết lập một sự đồng thuận chung ở cấp khu vực để lồng ghép các nguyên tắc
phòng, chống tham nhũng vào khuôn khổ pháp lý của cộng đồng kinh tế chung mà
ASEAN đang hướng tới. Điều này càng cấp thiết hơn khi vấn nạn tham nhũng xuất
hiện trong hoạt động đầu tư Quốc tế đang dần trở thành một vấn đề đáng báo động đối
với các quốc gia đang phát triển.
Tuy nhiên, tham nhũng không phải là yếu tố duy nhất có thể ảnh hưởng đến
quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay,
sự hấp dẫn của một quốc gia trong việc thu hút đầu tư nước ngoài chính là lợi thế của
quốc gia đó về sản xuất, hạ tầng, môi trường đầu tư trong nước,... Mục tiêu cuối cùng
của đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhằm tìm kiếm khả năng sinh lợi nên bất kỳ yếu tố
nào góp phần gia tăng sự không chắc chắn và rủi ro, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư

sẽ làm cản trở việc thu hút vốn đầu tư mới. Như vậy, ngoài việc xem xét nền kinh tế
thuần túy, sự ổn định chính trị của quốc gia tiếp nhận đầu tư, môi trường kinh tế vĩ mô
cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài
của các Công ty đa quốc gia (MNCs).
Từ những vấn đề nêu trên, tác giả cho rằng việc thực hiện một nghiên cứu về
tác động của tham nhũng đến khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh
hiện nay tại khu vực Đông Nam Á là thật sự cần thiết, để từ đó đưa ra được những
bằng chứng thực nghiệm, có tính khoa học về mối quan hệ giữa tham nhũng và FDI,
rút ra được những giải pháp trong việc giảm thiểu tác động của tham nhũng cũng như
nâng cao được chất lượng dòng vốn FDI chảy vào các nước Đông Nam Á.


3

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Với mục tiêu làm rõ tác động của tham nhũng đến khả năng thu hút dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các quốc gia Đông Nam Á, bài nghiên cứu một mặt đưa
ra những lập luận, khung khổ lý thuyết về mối quan hệ giữa tham nhũng và đầu tư trực
tiếp nước ngoài; mặt khác, với số liệu thực tế trong giai đoạn 1995-2017 và dựa trên
mô hình nghiên cứu định lượng, bài nghiên cứu xem xét mức độ thay đổi trong dòng
vốn FDI khi có sự thay đổi trong mức độ tham nhũng tại các nước Đông Nam Á.
Đông thời, dự trên kết quả phân tích, bài nghiên cứu đưa ra đánh giá trung
thực, khách quan về mối quan hệ giữa tham nhũng và FDI tại Đông Nam Á.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, nội dung của bài nghiên cứu trả lời cho
các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Một là, tham nhũng tác động tới dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy
vào các quốc gia Đông Nam Á theo chiều hướng nào?
- Hai là, tham nhũng hay các nhân tố vĩ mô khác, nhân tố nào đóng vai trò

quyết định trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào khu vực
Đông Nam Á?
1.3. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu:
Bài nghiên cứu được thực hiện dựa trên bộ dữ liệu được thu thập từ các nước
Đông Nam Á bao gồm: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myamar, Malaysia,
Indonesia, Brunei, Philippinnes, Singapore trong giai đoạn từ năm 1995 đến 2017 để
tạo ra bộ dữ liệu bảng. Dữ liệu được thu thập và tổng hợp từ bộ dữ liệu của ngân hàng
thế giới (World Bank), Tổ chức minh bạch quốc tế (IT) và Quỹ di sản (Heritage
foundation).
Bài nghiên áp dụng phương pháp phân tích định lượng trên bộ dữ liệu bảng,
tiến hành các kiểm định nhằm phát hiện các khiếm khuyết trên mô hình hồi quy, từ đó


4

lựa chọn phương pháp để khắc phục các khiếm khuyết tồn tại nhằm đưa ra kết quả
định lượng đáng tin cậy.
1.4. Ý nghĩa thực tiễn
Đông Nam Á đang dần khẳng định là điểm sáng của nền kinh tế Thế giới, tạo ra
sức hút đầu tư mạnh mẽ từ các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng trái ngược với thực trạng
kinh tế tăng trưởng đó là sự hiện diện của tình trạng tham nhũng tràn lan, được đánh
giá trở thành mối quan tâm hàng đầu từ các MNCs. Liệu rằng tham nhũng sẽ trở thành
chướng ngại ngăn cản đầu tư hay trở thành một công cụ hỗ trợ cho các nhà đầu tư.
Nhiều nghiên cứu gần đây đã xuất hiện để phân tích tác động của tham nhũng đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước đang phát triển và chia thành hai luồng quan
điểm đối lập: (1) tham nhũng cản trở thu hút dòng vốn FDI, (2) tham nhũng tạo thuận
lợi cho thu hút dòng vốn FDI.
Thực hiện nghiên cứu này, tác giả mong muốn đưa ra các số liệu thực tế đã
được công nhận rộng rãi trên Thế giới về tình trạng tham nhũng và thực trạng thu hút
FDI hiện nay tại các Quốc gia Đông Nam Á. Dựa trên phân tích định lượng, tác giả

nghiên cứu ảnh hưởng của tham nhũng cũng như có yếu tố vĩ mô khác vào khả năng
thu hút vốn FDI ở khu vực này; từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá khoa học về các mặt
tác động của tham nhũng vào dòng vốn FDI; so sánh sự tác động đó với các yếu tố vĩ
mô khác; đưa ra nhận định khách quan về các mặt tiêu cực, tích cực của tham nhũng
đối với dòng vốn FDI. Trên hết, bài nghiên cứu mong muốn góp phần bổ sung thêm
bằng chứng thực nghiệm về tác động của tham nhũng đối với khả năng thu hút nguồn
vốn FDI ở các nền kinh tế đang phát triển. Những kết quả này hy vọng sẽ tăng sự hiểu
biết về tham nhũng và tác động của nó, từ đó xây dựng chiến lược thu hút FDI hiệu
quả hơn trong tương lai.
1.5. Bố cục bài nghiên cứu
Chương 1: Phần mở đầu
Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu cũng như tính cấp thiết của đề tài, mục
tiêu và phạm vi nghiên cứu.


5

Chương 2: Cơ sở lý luận
Trình bày tổng quan lý thuyết về tham nhũng và FDI, cũng như dẫn chứng một
số nghiên cứu có liên quan về mối quan hệ giữa tham nhũng và FDI.
Chương 3: Thực trạng tham nhũng và thu hút FDI tại khu vực Đông Nam Á
Trình bày các số liệu đã được công bố, cũng như đánh giá từ các tổ chức, các
bản báo cáo về tình trạng tham nhũng cũng như tình trạng thu hút dòng vốn FDI thực
tế tại khu vực Đông Nam Á. Đưa ra các thông số, dữ liệu thống kê và có sự so sánh
giữa các quốc gia và các khu vực với nhau.
Chương 4: Phương pháp nghiên cứu
Trình bày và mô tả các biến phân tích, phương pháp phân tích, mô hình và các
giả thuyết nghiên cứu.
Chương 5: Kết quả nghiên cứu
Trình bày và mô tả các biến, phân tích các kết quả từ mô hình hồi quy và đánh

giá, nhận xét về mức độ tác động của từng nhân tố tới luồng vốn FDI.
Chương 6: Kết luận và kiến nghị
Trình bày ngắn gọn quan điểm của cá nhân, và đưa ra các kết luận quan trọng
của bài nghiên cứu. Đồng thời, nêu lên một số hạn chế của đề tài cũng như đưa ra gợi
ý nghiên cứu trong tương lai.


6

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Tham nhũng
2.1.1. Khái quát
Tham nhũng là một thực trạng và vấn đề phức tạp, có nhiều ý kiến và quan
điểm khác nhau về tham nhũng, Tổ chức minh bạch Quốc tế (International
Transparancy) đã đưa ra nhận định chung về tham nhũng như sau: “Tham nhũng là sự
lạm dụng quyền lực để phục vụ cho mục đích tư lợi cá nhân". Đồng thời, họ cũng phân
chia tham nhũng thành ba hình thức, đó là tham nhũng lớn, tham nhũng nhỏ và tham
nhũng chính trị, tùy thuộc vào số tiền bị mất và lĩnh vực mà nó xảy ra.
Tham nhũng nhỏ ám chỉ đến việc lạm dụng vị trí, chức năng, quyền hạn được
giao của các công chức, cơ quan công quyền cấp dưới trong quá trình làm việc, tiếp
xúc với công chúng, những người thường sử dụng hàng hoá và dịch vụ tại các bệnh
viện, trường học, sở cảnh sát hoặc các cơ quan khác.
Tham nhũng lớn bao gồm các hành vi, hình thức thoả thuận với một bộ phận
cấp cao của Chính phủ nhằm bóp méo các chính sách hoặc chức năng của nhà nước,
tạo điều kiện cho các nhà lãnh đạo, hoặc các nhà quản lý được hưởng lợi từ nguồn tài
chính đáng lẽ ra được sử dụng cho lợi ích công cộng.
Tham nhũng chính trị là lạm dụng chức năng, quyền hạn được giao của các
chính trị gia, các nhà hoạch định chính sách để duy trì quyền lực, địa vị và sự giàu có,
bằng cách việc áp dụng các chính sách, nguyên tắc phân bổ nguồn lực và nguồn tài
chính có lợi cho mình.

2.1.2. Cách nhận biết tham nhũng
Trên thế giới, một công cụ nhận biết tham nhũng được xây dựng bởi C.
Stephan, dựa trên 4 yếu tố chính: sự gia tăng độc quyền cộng với bưng bít thông tin,
trong khi lại thiếu đi sự minh bạch và thiếu đạo đức.
- Tham nhũng = Độc quyền + Bưng bít thông tin - Tính minh bạch – Đạo đức
+ Độc quyền: Một hệ thống (hay chính quyền) sở hữu phần lớn hoặc toàn bộ tài


7

sản, và chi phối thị trường mà không thông qua quy luật thị trường.
+ Bưng bít thông tin: Nắm quyền chi phối thông tin, thậm chí định hướng và
lừa dối dư luận.
+ Tính minh bạch: Minh bạch trong chính sách hành chính công, các chi phí
công, và minh bạch trong đấu thầu dự án công.
+ Đạo đức: Năng lực và đạo đức của người tham gia vào bộ máy công quyền,
hướng đến nhận biết điều đúng sai, và tiến tới làm điều đúng tránh điều sai.
2.1.3. Các chỉ số đo lường tham nhũng
Hiện nay có nhiều chỉ số đo lường tham nhũng được nhiều bài nghiên cứu sử
dụng, nhưng có hai chỉ số đo lường tham nhũng tin cậy, được nhiều tác giả sử dụng:
đó là chỉ số Cảm nhận tham nhũng (Corruption Perception Index-CPI) do Tổ chức
minh bạch quốc tế công bố hàng năm; Chỉ số tự do không có tham nhũng (Freedom
From Corruption) của Quỹ Di sản (Heritage Foundation).
* Chỉ số cảm nhận tham nhũng (Corruption Perceptions Index - CPI)
Chỉ số CPI do Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố hàng năm, ra đời năm 1995
được coi là một chỉ số tổng hợp đo lường cảm nhận về tham nhũng ở khu vực công tại
nhiều quốc gia khác nhau. Các nguồn dữ liệu sử dụng để tính chỉ số CPI (bao gồm các
khảo sát và nguồn thông tin) là các bảng câu hỏi được thiết kế và chuẩn hoá một cách kĩ
lưỡng để đưa đến người khảo sát. Chỉ số CPI thể hiện quan điểm của các bên liên quan,
và kết quả CPI thường có mức độ tương đồng cao với các chỉ số khách quan khác.

Phương pháp tính chỉ sổ CPI được dựa trên 4 yếu tố:
(1) Chọn các nguồn dữ liệu: Mỗi nguồn dữ liệu được sử dụng để xây dựng chỉ số
CPI phải đáp ứng đủ các tiêu chí khắt khe của Tổ chức minh bạch Quốc tế. HIện nay,
Chỉ số CPI được tính bằng cách sử dụng 13 nguồn dữ liệu từ 12 tổ chức khác nhau.
(2) Chuẩn hoá các nguồn dữ liệu với thang điểm từ 0–10, trong đó 0 thể hiện mức
độ cảm nhận về tham nhũng cao nhất và 10 thể hiện mức độ cảm nhận về tham nhũng
thấp nhất.


8

(3) Tính toán điểm trung bình: Để một quốc gia hay vùng lãnh thổ được đưa
vào chỉ số CPI, phải có ít nhất 3 nguồn dữ liệu có sẵn cho quốc gia/vùng lãnh thổ đó.
Điểm CPI của một nước chính là điểm trung bình của tất cả các điểm số đã được
chuẩn hoá cho nước đó. Điểm số CPI luôn là điểm đã được làm tròn.
(4) Độ bất định của phép đo: Kết quả CPI của một nước/lãnh thổ luôn đi kèm
với sai số chuẩn và khoảng tin cậy. Hai thông số này thể hiện độ biến thiên trong điểm
số các nguồn dữ liệu của quốc gia/lãnh thổ đó.
* Chỉ số tự do không có tham nhũng (Freedom From Corruption - FFC)
Chỉ số FFC là một yếu tố được sử dụng trong việc tính toán Chỉ số tự do kinh tế
(Index of Economic Freedom) của Quỹ Di sản. Chỉ số FFC cơ bản được tính dựa trên
chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) của Tổ chức minh bạch quốc tế nhưng được chuẩn
hoá sang thang điểm từ 0 đến 100 bằng cách nhân số điểm CPI với 10. Ví dụ: nếu
điểm dữ liệu CPI thô của quốc gia là 5.5, thì Chỉ số FFC sẽ là 55.
Đối với các quốc gia không được tính toán theo chỉ số CPI, chỉ số FFC được
xác định bởi thông tin định tính từ các nguồn thông tin đáng tin cậy như: Ngân hàng
Thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), và Cơ quan Tình báo Kinh tế (The
Economist Intelligence Unit).
2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.2.1. Khái quát

Trong báo cáo năm 1996, Tổ chức Thương mại Kinh tế Thế giới (WTO) đã đưa
ra đánh giá về Đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư có trụ sở tại một
quốc gia (quốc gia sở hữu) mua lại tài sản ở một quốc gia khác (quốc gia sở tại) với
mục đích quản lý tài sản đó. Trong hầu hết các trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản
mà họ quản lý ở nước ngoài đều thể hiện dưới dạng các công ty kinh doanh. Trong
những trường hợp như vậy, nhà đầu tư nước ngoài thường được gọi là "công ty mẹ",
còn tài sản được gọi dưới tên "đơn vị liên kết" hoặc "công ty con".


9

Có ba danh mục chính của vốn đầu tư nước ngoài:
- Vốn chủ sở hữu là giá trị của khoản đầu tư của công ty nước ngoài vào cổ
phiếu của một doanh nghiệp ở nước sở tại. Một tỉ lệ sở hữu 10% trở lên tính trên vốn
chủ sở hữu hoặc tính trên quyền biểu quyết được coi là ngưỡng kiểm soát tài sản.
- Thu nhập tái đầu tư là phần lợi nhuận của các công ty đa quốc gia không được
phân phối dưới dạng cổ tức hoặc được chuyển lại cho công ty con. Lợi nhuận giữ lại
của các chi nhánh hoặc công ty con được giả định là tái đầu tư vào hoạt động của
chính nơi đó.
- Vốn khác đề cập đến việc vay và cho vay ngắn hạn hoặc dài hạn giữa công ty
mẹ ở nước ngoài với chi nhánh hoặc công ty con.
2.2.2. Lý thuyết hỗ trợ “Đầu tư trực tiếp nước ngoài”
Có nhiều lý thuyết cố gắng giải thích các yếu tố quyết định đến thu hút dòng
vốn FDI. Trong đề tài nghiên cứu, tác giả áp dụng hai lý thuyết chính sau để giải thích:
a. Lý thuyết chiết trung của Dunning (1977)
Nội dung chính của Lý thuyết chiết trung cho biết rằng, công ty nước ngoài
thực hiện hoạt động đầu tư ở nước khác khi hội đủ cả ba lợi thế: lợi thế về sở hữu
(Ownership-O), lợi thế về địa điểm (Location- L), lợi thế về nội bộ hóa
(Internalization-I).

- Lợi thế sở hữu được giải thích cho việc công ty đang sở hữu những ưu thế so
với công ty khác như công nghệ, bằng phát minh sáng chế, thương hiệu, nhãn hiệu sản
phẩm, kỹ năng quản lý. Lợi thế sở hữu là tiền đề cho hoạt động FDI.
- Lợi thế địa điểm có được khi công ty đầu tư tiến hành đầu tư tại một địa điểm
cụ thể. Lợi thế địa điểm bắt nguồn từ vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, quy
mô thị trường lớn, chi phí cho các yếu tố sản xuất thấp, môi trường kinh doanh thân
thiện. Lợi thế địa điểm giải thích lý do tại sao một quốc gia lại hấp dẫn đầu tư hơn các
nước khác hay tại sao một công ty lại chọn địa điểm này thay vì lựa chọn một địa điểm
khác. Ngoài ra, các công ty nước ngoài không chỉ căn cứ vào vị trí địa lý, tài nguyên


10

thiên nhiên mà còn căn cứ vào văn hóa, luật pháp, chính trị, thể chế, môi trường và cơ
cấu thị trường của nước nhận đầu tư. Theo đó một công ty nước ngoài hoạt động ở một
quốc gia khác, chính sách của Chính phủ nước sở tại là một yếu tố quan trọng (ví dụ:
thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp, và các rào cản phi thuế quan, mức độ tham nhũng...)
ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của một công ty nước ngoài.
- Lợi thế nội bộ hóa là sự tương tác giữa hai lợi thế sở hữu và lợi thế địa điểm
với nhau. Nhờ nội bộ hóa hoạt động tại một địa điểm giúp làm giảm chi phí giao dịch,
chi phí vận chuyển, thay vì phải nhận cấp phép hoặc xuất khẩu công nghệ.
Theo lý thuyết chiết trung thì cả ba điều kiện kể trên điều phải được thỏa mãn
trước khi có đầu tư trực tiếp nước ngoài, những lợi thế này không cố định mà thay đổi
theo thời gian và sự phát triển, nên luồng FDI ở từng nước, từng khu vực, từng thời kỳ
có sự khác nhau. Sự khác biệt này còn bắt nguồn từ việc các nước này đang ở giai
đoạn nào của quá trình phát triển và tham nhũng đang ở mức độ nào? Do vậy, những
quốc gia có mức độ tham nhũng cao, thì tham nhũng như một loại “thuế” đầu tư đối
với các MNCs. Điều này sẽ làm giảm động lực đầu tư của họ tại các quốc gia đó.
b. Lý thuyết Đầu tư quốc tế của Dunning (1981)
Theo Dunning (1981), có thể phân chia FDI thành ba loại phổ biến gồm: FDI

tìm kiếm thị trường (MarketSeeking FDI), FDI tìm kiếm các nguồn lực (ResourceSeeking FDI), FDI tìm kiếm sự hiệu quả (Efficiency-Seeking FDI).
- FDI tìm kiếm thị trường: mục tiêu là mở rộng thị phần, đáp ứng nhu cầu thị
trường nước sở tại. Loại FDI này chịu sự tác động mạnh bởi quy mô thị trường, tăng
trưởng của thị trường.
- FDI tìm kiếm các nguồn lực: mục tiêu là khai thác các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, nguyên liệu thô và tận dụng nguồn nhân công giá rẻ tại quốc gia sở tại để sản
xuất hàng hóa, nguyên liệu tinh chế và sau đó xuất khẩu ra thị trường thế giới.
- FDI tìm kiếm hiệu quả: loại FDI này nhắm đến các khu vực, vị trí địa lý, nơi
có trình độ khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng cho phép họ có thể đạt hiệu suất theo
quy mô.


11

Cả 3 loại FDI này đều tác động làm tăng độ mở thương mại của nền kinh tế, bởi
vì bản chất của FDI là một dạng quan hệ điển hình trong hợp tác kinh tế quốc tế.
Trong đó, FDI luôn kéo theo sự dịch chuyển, luân chuyển của nguồn lực sản xuất,
hàng hóa, dịch vụ từ Thế giới vào quốc gia sở tại và ngược lại, FDI cũng thúc đẩy sự
dịch chuyển, luân chuyển từ quốc gia sở tại ra Thế giới.
2.2.3. Các nhân tố tác động tới FDI
Khi nghiên cứu về FDI, có rất nhiều nhân tố được phân tích để đánh giá mức độ
ảnh hưởng và mối quan hệ với luồng vốn này. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu, ngoài
yếu tố tham nhũng, tác giả sử dụng các nhân tố chính sau: Tăng trưởng kinh tế, quy
mô thị trường, độ mở thương mại, cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực.
-Tăng trưởng kinh tế là một trong những nhân tố rất phổ biến, được nhiều nhà
nghiên cứu sử dụng khi phân tích về luồng vốn FDI, theo Fan và cộng sự (2007), Chen
và Khan (1997), Mbekeani (1997), các nhà đầu tư nước ngoài có ấn tượng đối với sự
tăng trưởng trong quá khứ của một quốc gia, dấu hiệu của sự phát triển thể hiện triển
vọng tiềm năng của thị trường đó. Cùng quan điểm, Shatz và Venables (2000) cho
rằng sự ấn tượng ban đầu sẽ đưa đến giai đoạn lựa chọn loại vốn FDI phù hợp với thực

tế ở mỗi nơi, đó là luồng vốn FDI với mục tiêu chính là phục vụ tốt nhu cầu của thị
trường địa phượng (FDI tìm kiếm thị trường), hoặc với mục tiêu là giảm được chi phí
đầu vào thấp hơn trong sản xuất (FDI tìm kiếm nguồn lực). Nếu là FDI tìm kiếm thị
trường, việc MNCs xây dựng các nhà máy ở tại quốc gia đó sẽ giúp phục vụ tốt hơn
nhu cầu người dân nước sở tại, rút ngắn được khoảng cách địa lý (giảm thuế quan
hàng hóa, chi phí vận chuyển) và đối phó tốt hơn trước sự thay đổi bất ngờ của thị
trường hoặc sở thích của dân chúng, đồng thời cạnh tranh tốt hơn với doanh nghiệp địa
phương, dẫn đến giá thấp hơn cho sản phẩm, có lợi cho người tiêu dùng; nếu là FDI
tìm kiếm nguồn lực, các MNCs sẽ tận dụng được nguồn lực tự nhiên (tài nguyên, lao
động,..) tại nước sở tại, cắt giảm được chi phí sản xuất, giải quyết được vấn đề đầu vào
cho chuỗi sản xuất.
- Quy mô thị trường (hay GDP bình quân đầu người) đã được chấp nhận rộng
rãi là một yếu tố quyết định, quan trọng trong khả năng thu hút vốn FDI (Chakrabarti,


12

2001). Theo Quazi (2014), khi quy mô thị trường của nước chủ nhà càng lớn, biểu
hiện tiềm năng của thị trường càng lớn, thì càng thu hút được nhiều vốn FDI. Một sự
gia tăng trong quy mô thị trường là một tín hiệu tích cực về sức mua và sự mở rộng
của thị trường tiêu thụ (Alemu, 2012). Các yếu tố trên dường như thể hiện cho loại vốn
FDI tìm kiếm thị trường. Dưới góc nhìn khác, Akin (2009) cho thấy FDI ở các nước
đang phát triển, quy mô thị trường nhỏ thể hiện qua thu nhập thấp của dân chúng,
không gắn liền với loại vốn FDI tìm kiếm thị trường, mà thiên về FDI tìm kiếm nguồn
lực. Nếu các nhà đầu tư nước ngoài đang tìm kiếm các nơi có chi phí sản xuất thấp, sự
sẵn có của lao động rẻ là một lý do quan trọng cho thu hút FDI. Các doanh nghiệp có
thể biện minh cho việc chuyển một phần quy trình sản xuất của họ ra nước ngoài, để
tận dụng chi phí đầu vào lao động thấp tại các nước đang phát triển.
- Nguồn vốn nhân lực không chỉ là yếu tố quyết định quan trọng của tăng
trưởng kinh tế mà còn là yếu tố quan trọng trong việc thu hút vốn từ các MNCs. Theo

Blomström và Kokko (2002), chất lượng nguồn nhân lực của nước chủ nhà xác định
có bao nhiêu số lượng FDI mà nước này có thể thu hút được và quốc gia đó có thể hấp
thụ các lợi ích từ MNCs trong việc rèn luyện và phát triển kỹ năng của lao động hay
không. Việc chuyển giao công nghệ từ các công ty mẹ ở nước ngoài cho các chi nhánh
và các công ty con ở quốc gia khác không chỉ thể hiện trong máy móc, thiết bị, quyền
sáng chế, quản trị, mà còn được thực hiện thông qua đào tạo lao động địa phương. Đối
với các nước đang phát triển, mức vốn nhân lực là một yếu tố quan trọng mà MNCs,
đặc biệt là các MNCs có giá trị gia tăng cao, đang tìm kiếm khi xác định vị trí đầu tư
mới (Miyamoto, 2003). Điều này gần đây đã trở nên quan trọng hơn khi phương thức
sản xuất ngày càng hiện đại về công nghệ, máy móc, thiết bị, MNCs cần tìm kiếm lực
lượng lao động được trang bị kiến thức về kỹ thuật, kỹ năng và quản trị kinh doanh.
- Số lượng, tính khả dụng và chất lượng của cơ sở hạ tầng là điều cần thiết cho
hoạt động sản xuất và hoạt động thương mại liên kết đa quốc gia. Cơ sở hạ tầng tốt
hơn có thể giảm đáng kể chi phí đầu tư và do đó ảnh hưởng tích cực đến quyết định
của nhà đầu tư (Shah và Ahmed, 2003). Erenburg (1993) tiếp tục lập luận rằng nếu cơ
sở hạ tầng không được cung cấp, khu vực tư nhân trong nước và các MNCs sẽ hoạt


13

động kém hiệu quả và phải nỗ lực hơn để tự xây dựng mạng lưới riêng của họ, dẫn đến
trùng lắp và lãng phí tài nguyên. Tại các nước đang phát triển, Khan và Kim (1999)
cho rằng, nếu cơ sở hạ tầng không phải là động cơ về đầu tư sản xuất, thì chính bản
thân chất lượng hoặc sự thiếu thốn hạ tầng là nguyên nhân cho việc thu hút FDI của
các MNCs có thế mạnh về công nghệ, xây dựng. Theo nghiên cứu ODI (1997), cơ sở
hạ tầng nghèo nàn có thể được xem vừa là trở ngại, vừa mang tính cơ hội cho đầu tư
nước ngoài. Với đa số các quốc gia thu nhập thấp, cơ sở hạ tầng nghèo nàn được xem
như một trong các hạn chế chính trong thu hút FDI nhưng các nhà đầu tư nước ngoài
cũng xem đó là cơ hội đầu tư nếu Chính phủ của nước tiếp nhận FDI cho phép họ tham
gia vào lĩnh vực hạ tầng.

- Kandiero (2006) cho rằng việc giảm thuế quan và giảm các rào cản phi thuế
quan như việc cấp phép hoặc thủ tục rườm rà sẽ làm tăng FDI, làm tăng khả năng cạnh
tranh đối với các quốc gia khác về thu hút đầu tư. Đồng quan điểm trên, Alemu (2012)
có lập luận, mức độ mở cửa của nền kinh tế là một trong những yếu tố truyền thống tác
động tới sự dịch chuyển của dòng vốn FDI. Đối với các MNCs có xu hướng đầu tư để
sản xuất rồi xuất khẩu sản phẩm hoàn thiện ra nước ngoài, thì việc Chính phủ có chính
sách giao thương cở mở, sẽ giúp họ dễ dàng chuyển giao công nghệ, máy móc cũng
như khả năng nhập khẩu nguyên vật liệu, và ngược lại Chính phủ có xu hướng bảo hộ
sản xuất trong nước, đóng cửa nền kinh tế, các MNCs rất ngại đầu tư vì chi phí xuất,
nhập khẩu cao, cũng như khó khăn về thủ tục pháp lý, dẫn đến giảm sức hút đầu tư.
2.3. Mối quan hệ giữa Tham nhũng và Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.3.1. Tác động của tham nhũng vào FDI
Cụm từ "grabbing hand" được sử dụng trong các nghiên cứu về tham nhũng,
được đề cập bởi các nhà kinh tế như Quazi (2014), Shleifer và Vishny (1993), Bliss
và Di Tella (1997), và Aidt (2003),… cho rằng tham nhũng giống như “một cái bắt
tay” làm gia tăng các chi phí liên quan đến hoạt động kinh tế. Thông qua “cái bắt
tay” ấy, nhà đầu tư nước ngoài sẽ phải mất các khoản tiền không chính thức hoặc
không công khai liên quan đến việc trả hoa hồng cho các chính trị gia, cán bộ quan
liêu trong các hợp đồng lớn hoặc hối lộ các quan chức địa phương về giấy phép, kết


14

nối tiện ích, an ninh, thuế suất, … tất cả đều làm tăng tổng chi phí đầu tư và giảm lợi
nhuận đầu tư. Thực trạng trên dẫn đến nguy cơ làm mất uy tín thương hiệu của nhà
đầu tư hoặc danh dự của quốc gia trong trường hợp các vụ bê bối về tham nhũng, hối
lộ bị phanh phui (Zhao và cộng sự, 2003). Hơn nữa, tham nhũng tạo ra sự méo mó,
bất bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trường khi các công ty có liên quan đến tham
nhũng được quyền ưu tiên tiếp cận các thị trường sinh lời, các tài nguyên hoặc được
nhận ưu đãi về đầu tư (Habib và Zurawicki, 2002). Nghiêm trọng hơn, tham nhũng

có thể ảnh hưởng tiêu cực tới năng suất đầu tư công và chất lượng cơ sở hạ tầng
(Tanzi và Davoodi, 1997) và dịch vụ, giáo dục, y tế (Gupta, 2000), tại vì chi phí cho
tham nhũng thường đường được các công ty, doanh nghiệp cấn trừ vào chất lượng
các công trình này.
Theo Hossain. S (2016), tham nhũng ở một quốc gia ảnh hưởng đến các nhà
đầu tư theo nhiều cách. Đầu tiên, nó làm tăng chi phí kinh doanh ở một quốc gia.
Thứ hai, nó tạo ra sự không chắc chắn cho công ty nước ngoài, vì quá trình đầu tư
dính dáng đến sự quan liêu của các chính trị gia. Thứ ba, nó khuyến khích các thành
phần trung gian tham gia vào các hoạt động tham nhũng (chính quyền địa phương,
công chức,...). Thứ tư, các nhà đầu tư có thể phải đối mặt với những hệ lụy pháp lý
nghiêm trọng bao gồm cả viễn cảnh đi tù, nếu họ bị bắt. Thứ năm, họ có thể bị quốc
gia sở tại và các quốc gia khác liệt kê vào danh sách đen nếu bị chứng minh rằng
công ty từng có dính líu đến một việc làm phi pháp. Thứ sáu, công ty đầu tư có thể
không thu hút được những người tài năng ở nước sở tại. Thứ bảy, sự nhận thức của
khách hàng hoặc của công chúng về hành vi phi đạo đức có thể gây tổn hại cho hình
ảnh thương hiệu và danh tiếng của công ty ở nước sở tại. Thứ tám, nó có thể gây tổn
hại cho hình ảnh thương hiệu của công ty ở chính quốc gia của mình. Thứ chín, nó có
thể dẫn đến thiệt hại tài chính về tiền phạt, ngay cả khi công ty không thừa nhận tội
lỗi. Thứ mười và cũng là nghiêm trọng nhất, tham nhũng nếu được dễ dàng chấp
nhận dưới mọi hình thức, có xu hướng trở thành một cách sống tiêu cực, đáng lo ngại
tồn tại trong xã hội. Vì vậy, chính phủ của mỗi quốc gia cần phải thực hiện một hành
động tương xứng và cụ thể để giảm tham nhũng, qua đó tăng cường năng lực cạnh
tranh để tham nhũng không chiếm ưu thế trong hoạt động kinh tế.


15

Một số nghiên cứu hỗ trợ giả thuyết “grabbing hand”, dẫn chứng về việc tỷ lệ
gia tăng tham nhũng làm giảm dòng vốn FDI. Ví dụ, Drabek và Payne (1999) thấy
rằng mức độ không minh bạch cao của hệ thống chính quyền làm giảm dòng vốn

FDI, việc tăng 1 điểm trong bảng xếp hạng minh bạch quốc tế có thể tăng thêm 4%
dòng vốn FDI chảy vào. Wei (2000) đã phân tích dòng vốn FDI chảy từ 12 nước đầu
tư đến 45 nước chủ nhà, và thấy rằng tham nhũng giống như một loại thuế suất và
khiến dòng vốn FDI bị ảnh hưởng, Wei (2000) cũng đã nghiên cứu dòng vốn chảy từ
14 nước đầu tư đến 53 nước chủ nhà để phân tích tác động của tham nhũng đối với
các dòng vốn đầu tư khác và thấy rằng tham nhũng làm giảm số lượng dòng vốn FDI
nhiều hơn các dòng vốn đầu tư khác. Habib và Zurawicki (2002) nghiên cứu dòng
vốn FDI song phương từ 7 nước đầu tư đến 89 nước chủ nhà, và thấy rằng các nhà
đầu tư nước ngoài nói chung là không thích tham nhũng, họ coi tham nhũng là vô
đạo đức và khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả, nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng sự khác biệt về mức độ tham nhũng giữa nước đầu tư và nước sở tại cũng rất
quan trọng, vì các nhà đầu tư nước ngoài miễn cưỡng đối phó với những hoạt động
không bình thường xảy ra tại một đất nước có mức độ tham nhũng khác với quốc gia
của họ. Voyer và Beamish (2004) đã nghiên cứu một mẫu số của gần 30.000 dự án
FDI của Nhật Bản tại 59 quốc gia, và thấy rằng tham nhũng có tác động tiêu cực đến
FDI của Nhật Bản ở các nền kinh tế mới nổi (những nước thường có mức độ tham
nhũng cao), nhưng điều này không xảy ra ở các nền kinh tế công nghiệp phát triển.
Trái ngược với giả thuyết “grabbing hand”, giả thuyết “helping hand” được hỗ
trợ bởi các nhà kinh tế như Lui (1985), Beck và Maker (1986), và Saha (2001), lại cho
rằng thay vì là trở ngại cho kinh doanh, tham nhũng có thể là một "chất xúc tác hiệu
quả" giúp loại bỏ trở ngại từ các quy định, chính sách, rào cản kinh tế cứng nhắc, từ đó
tạo thuận lợi cho các giao dịch, đưa đến thảo thuận hợp tác, thuận lợi cho quá trình đầu
tư ở nước sở tại. Giả thuyết này đã thể hiện một mối quan hệ tích cực giữa tham nhũng
và FDI. Một số quốc gia có mức độ tham nhũng cao, chẳng hạn như Trung Quốc, Ấn
Độ nhận được rất nhiều FDI, rõ ràng tham nhũng không ngăn chặn dòng vốn FDI chảy
vào các nước này.


16


Bardhan (1997), Leff (1964) và Huntington (1968) có cùng quan điểm, họ nhận
định tham nhũng hoạt động như một “bàn tay giúp đỡ” bằng cách "bôi trơn các bánh xe
thương mại", cho phép các nhà đầu tư vượt qua các quy định nặng nề của chính phủ,
nhanh chóng tiến tới việc đưa ra quyết định trong đầu tư kinh doanh, điều này thường
hiện diện rõ nhất tại các quốc gia có hệ thống quản lý bộ máy hành chính yếu kém.
Rashid (1981) nhìn nhận tham nhũng có thể tạo thuận lợi cho việc ra quyết
định, từ đó nâng cao hiệu quả, ông đã phát triển một mô hình lý thuyết cho thấy tham
nhũng có thể là “chất bôi trơn” vào hệ thống kinh tế tạo thuận lợi cho việc đưa ra
quyết định tối ưu. Beck và Maker (1986) trình bày vấn đề trong cạnh tranh đấu thầu,
các công ty muốn đạt được kết quả tốt nhất trong thực tế phải trả tiền hối lộ cao nhất;
và Braguinsky (1996) lập luận rằng trong một thị trường cạnh tranh, tham nhũng một
cách có kiểm soát sẽ thúc đẩy sự đổi mới và làm suy yếu độc quyền.
2.3.2. Tham nhũng tác dụng vào FDI theo hướng tích cực hay tiêu cực?
Nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích ảnh hưởng của tham nhũng đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài và phần lớn trong số họ đã đi đến kết luận tham nhũng cao ở một
quốc gia ngăn chặn dòng vốn FDI chảy vào, và mức độ tác động của tham nhũng vào
FDI phụ thuộc vào quy mô và bản chất của tham nhũng.
Một nghiên cứu so sánh dựa trên ảnh hưởng của tham nhũng đối với FDI ở Trung
Quốc và Ấn Độ, đã có kết luận tham nhũng ở Ấn Độ ảnh hưởng tiêu cực đến FDI, trong
khi điều đó không xảy ra ở Trung Quốc. Lý giải cho điều này, Ravi (2015) cho rằng các
doanh nghiệp thường xem xét tham nhũng ở hai vấn đề, đầu tiên, phổ biến tham nhũng
và thứ hai, phân biệt tham nhũng. Ở Trung Quốc tham nhũng có sự tùy ý rất thấp, trong
khi ở Ấn Độ, sự tùy ý là rất cao, có nghĩa là nhà đầu tư không được bảo đảm về kết quả
ngay cả khi đã trả tiền hối lộ. Điều đó phần nào giải thích tại sao tham nhũng của Ấn Độ
lại có tác động bất lợi đối với FDI, trong khi ở Trung Quốc, nó có tác dụng ngược lại.
Mặc dù các nước như Ấn Độ, Trung Quốc thu hút FDI thành công cho dù có mức
độ tham nhũng cao, nhưng không che giấu được thực tế là các nước này có thể tăng gấp
đôi dòng vốn FDI nếu họ có mức tham nhũng thấp. Các nước như Trung Quốc, Ấn Độ



17

và Nigeria thu hút nguồn vốn FDI dưới mức tiềm năng của họ chủ yếu là do tham nhũng
cao (Vittal, 2001). Ví dụ, Trung Quốc có thể tăng gấp đôi FDI của mình nếu tốt hơn về
mặt pháp luật và bảo vệ tài sản. Tương tự như vậy, nếu tham nhũng ở Ấn Độ giảm như
ở các nước ở khu vực Scandinavia, GDP và FDI của nó có thể tăng lần lượt là 1,5% và
12% (Vittal 2001).
2.3.3. Tác động ngược trở lại của FDI vào tham nhũng
Theo Pablo và Boliang (2016), mối liên hệ giữa đầu tư trong nước và tham
nhũng phụ thuộc vào cách dòng vốn FDI tác động đến thị trường ở các nước chủ nhà.
Ở các nước kém phát triển, các doanh nghiệp trong nước có năng suất kém hiệu quả
hơn so với các công ty nước ngoài. Do đó, việc gia nhập của các công ty nước ngoài sẽ
làm gia tăng đầu tư trong nước và gia tăng sức ép phải cạnh tranh thị trường của doanh
nghiệp nội địa, dẫn đến một thị trường có đặc lợi về kinh tế cao. Đặc lợi kinh tế cao
hơn sẽ làm tăng lợi ích mà các quan chức trong hệ thống công quyền muốn đòi hỏi,
tương ứng với mong đợi của các nhà đầu tư (hối lộ phải tương xứng với đặc lợi kinh
tế). Do đó, FDI trong nước sẽ liên quan nhiều hơn với tham nhũng ở các nước đang
phát triển. Mối liên hệ tích cực giữa FDI và tham nhũng này sẽ được giảm thiểu ở các
nền kinh tế phát triển, nơi mà các mức độ cạnh tranh của nhà đầu tư nước ngoài cân
bằng với các công ty trong nước, làm giảm các đặc lợi kinh tế mong đợi của nhà đầu
tư nước ngoài, từ đó làm giảm mức độ đòi hỏi từ các quan chức. Như vậy, dòng vốn
FDI dẫn đến đặc lợi kinh tế (mức nhận hối lộ) cao hay thấp phụ thuộc vào nguồn lực
địa phương và sự khác biệt về năng suất giữa các doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài. Dòng vốn FDI sẽ tương quan với đặc lợi cao, trong đó tham nhũng cao hơn xuất
hiện trong môi trường kinh tế mà đầu tư nước ngoài lấn áp đầu tư trong nước dẫn đến
sức cạnh tranh nội địa bị hạn chế.
3.3. Khảo lược các nghiên cứu liên quan
Wei (2000) đã thực hiện một nghiên cứu về tác động của tham nhũng lên đầu
tư quốc tế từ 12 quốc gia đầu tư đến 45 nước nhận đầu tư. Với nguồn dữ liệu được thu
thập trong năm 1989 từ OCED (International Direct Investment Database), qua hai

cách phân tích bằng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS) và mô hình


×