Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH DOANH Ở CÔNG TY BIA VIỆT HÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 41 trang )

PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH DOANH Ở CÔNG TY BIA VIỆT

I. VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BIA VIỆT HÀ
Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bia Việt Hà
Công ty Bia Việt Hà là một doanh nghiệp Nhà nước, được thành lập và
hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Trụ sở của Công ty bia Việt Hà hiện nay là 254 phố Minh Khai, quận
hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Những ngày đầu tiên thành lập (9/1966) Công ty Bia Việt Hà trước kia có
tên gọi là Xí Nghiệp Nước chấm, bởi mặt hàng kinh doanh chủ yếu là : nước
chấm, dấm, tương....phương tiện lao động thủ công là chủ yếu, cơ sở vật chất
nghèo nàn lạc hậu, trình độ người lao động cũng rất thấp. Sản xuất theo chỉ tiêu
kế hoạch pháp lệnh, giao nộp để phân phối theo chế độ tem phiếu (1966).
Đến đầu năm 1981 theo quyết định 25/HĐBT, 26/HĐBT của hội đồng bộ
trưởng cho phép xí nghiệp tự lập kế hoạch, một phần do nhà nước bao cung, bao
tiêu bù lỗ, còn một phần xí nghiệp tự khai thác vật tư, nguyên liệu, tự tiêu thụ .....
Do vậy, xí nghiệp bung ra các sản phẩm khác như rượu chanh, mì sợi, dầu ăn,
dấm, bánh phồng tôm, gia vị, kẹo các loại....vì có nhiều loại sản phẩm như vậy
nên ngày 14/05/1982 theo quyết định số 1652 QĐUB xí nghiệp đổi tên thành
“Nhà máy Thực Phẩm Hà Nội”. Tuy nhiên thực chất của sản xuất vẫn mang
tính thủ công với cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu là tự chế, chỉ có bốn máy ép
nhập của Đức và 8 nồi quay lạc bọc đường.
Ngày 14/07/1987 quyết định 217 HĐBT đã xác lập quyền tự chủ trong sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nên nhà máy đã mạnh dạn vay 2 tỷ đồng
của quỹ Sida Thuỵ Điển để lắp đặt dây chuyền sản xuất chai nhựa, tổ chức sản
xuất nước chấm cao cấp, lạc bọc đường xuất khẩu sang Đông Âu và Liên Xô. Lúc
này nhà máy đã tạo được công ăn việc làm liên tục cho 600 công nhân, nhiều khi
phải làm thêm ca, thêm giờ. Song đến năm 1990, Đông Âu và Liên Xô biến động,
nhà máy mất nguồn tiêu thụ đã không thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Trước tình hình vô cùng khó khăn như vậy nhà máy đã cùng ban lãnh đạo
xác định lại mục tiêu của mình, là đổi mới lại nhà xưởng, tìm phương án sản


xuất các sản phẩm có giá trị tiêu thụ cao, liên doanh, liên kết trong, ngoài nước,
và đầu tư có chiều sâu....Đi theo mục tiêu này, nhà máy đã huy động được nhiều
nguồn vốn để tu bổ cơ sở vật chất và đã liên kết với Công ty dịch vụ sản xuất tiểu
thủ công Quận 10 TP Hồ Chí Minh để sản xuất mì ăn liền MISAGO được gần 3
năm. Trong thời gian này thành phố có chủ trương xây dựng hai ngành mũi
nhọn là điện tử và vi sinh, được thành phố và nhà nước cổ vũ, Nhà máy đã
nghiên cứu và mạnh dạn vay vốn đầu tư một dây chuyền bia công nghệ Đan
Mạch nổi tiếng là bia Carlsberg với trên 150 năm và tiêu thụ ở 150 nước trên thế
giới. Sản phẩm mới bia Halida của công ty ra đời, vừa xuất hiện trên thị trường,
Halida đã được khách hàng biết đến và thị trường chấp nhận bởi chất lượng cao
của nó. Sau một thời gian tính toán, cân nhắc, nhà máy đã đồng ý liên doanh với
hãng bia Carlsberg của Đanh Mạch, bên Việt Nam góp 40% vốn. Tháng 10/1993
liên doanh chính thức đi vào hoạt động với sản lượng 3 triệu lít/năm, cải tiến
thành 6 tiệu lít/năm và sau khi mở rộng đợt I là 14 tiệu lít/năm, mở rộng đợt II
là 30 triệu lít/năm. Từ chỗ chỉ có sản phẩm bia lon Halida bây giờ nhà máy đã
có sản phẩm bia lon Carlsberg và hai loại bia chai Halida, Carlsberg.
Song song với việc mở rộng sản xuất ở liên doanh, nhà máy đã tự nghiên
cứu và lắp đặt một dây chuyền sản xuất bia hơi mang tên bia Việt Hà. Vì sản
phẩm chính giờ đây là các loại bia lon, bia chai, bia hơi. Nên ngày 2/1/1994 theo
quyết định số 2817 QĐUB của UBNDTP Hà Nội về việc đổi tên và điều chỉnh
nhiệm vụ chức năng của nhà máy Bia Việt Hà, tách bộ phận liên doanh ra hạch
toán độc lập. Nhà máy có tên gọi mới là: Công ty Bia Việt Hà, địa chỉ 254
Minh Khai Hà Nội
Tiếp tục thực hiện chủ trương đường lối đổi mới của đảng và nhà nước,
ngay từ giữa năm 1998 Công ty Bia Việt Hà đã thực hiện cổ phần hoá doanh
nghiệp. Để rồi vào đầu năm 1999 Công ty cổ phần Việt Hà ra đời, một công ty
đầu tiên của nhà nước sản xuất bia thực hiện cổ phần hoá. Lúc này công ty chính
thức tách xưởng bia 57 Quỳnh Lôi thành công ty cổ phần, đơn vị này tiến hành
hạch toán độc lập. Công ty Nhà nước Bia Việt Hà hiện nay còn lại là xưởng bia
254 Minh Khai Hà Nội.

Chức năng nhiệm vụ của Công ty.
Công ty Bia Việt Hà được thành lập theo quyết định 2817 QĐUB của uỷ
ban nhân dân thủ đô Hà nội ngày 2/1/1994. Trong quyết định thành lập này có
quy định rõ chức năng và nhiệm vụ của Công ty Bia Việt Hà như sau:
- Sản xuất kinh doanh các loại bia như: bia lon, bia chai, bia hơi và các loại
nước giải khát có ga, nước khoáng ....
- Hợp tác với các đơn vị cơ khí, diện lạnh để thiết kế, chế tạo thiết bị và chuyển
giao công nghệ sản xuất bia, nước giải khát nước khoáng cho các đơn vị có nhu
cầu.
- Xuất khẩu các sản phẩm của công ty và sản phẩm liên doanh, nhập khẩu thiết
bị, nguyên liệu hoá chất cho nu cầu sản xuất của công ty và thị trường .
- Sản xuất kinh doanh các loại bao bì bằng thuỷ tinh, cartoon, nhựa PP, PE,
PET....phục vụ cho các ngành thực phẩm, dược phẩm và các ngành khác.
- Dịch vụ du lịch và kinh doanh khách sạn.
- Liên doanh liên kết với các đơn vị kinh tế trong ngoài nước làm đại lý, đại
diện, mở cửa hàng dịch vụ, giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm của công ty và sản
phẩm liên doanh.
Cơ cấu tổ chức của Công ty.
Công ty Bia Việt Hà hiện nay, có tổng số cán bộ công nhân viên là 261
người trong đó tổng số nhân viên quản lý hành chính là 45 người chiếm khoảng
gần 17,2% trên tổng số cán bộ công nhân viên.
Đứng đầu công ty là Giám đốc do cấp trên bổ nhiệm sau khi đã tham
khảo ý kiến đảng bộ và phiếu tín nhiệm của cán bộ công nhân viên toàn công ty.
Giám đốc đại diện cho nhà nước, đại diện cho các bộ công nhân viên quản lý
công ty theo chế độ một thủ trưởng. Giám đốc có quyền quyết định điều hành
hoạt động của công ty theo đúng kế hoạnh, chính sách, pháp luật của nhà nước
và nghị quyết của đại hội công nhân viên chức. Giám đốc là đại diện toàn quyền
của công ty trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và đồng thời chụi trách
nhiệm trước nhà nước cũng như cán bộ công nhân viên về kết quả sản xuất kinh
doanh của công ty.

Làm việc trực tiếp với Giám đốc là 4 phó giám đốc:
- Phó giám đốc kỹ thuật: chịu trách nhiệm về chỉ đạo kiểm tra kỹ thuật để đảm
bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất, cụ thể là: giám sát hoạt động kỹ thuật, đảm
bảo an toàn sản xuất, an toàn lao động, nghiên cứu và bảo dưỡng máy móc thiết
bị, đào tạo và bồi dưỡng tay nghề....
- Phó giám đốc tổ chức: chịu trách nhiệm về chỉ đạo và kiểm tra các công tác
hành chính và nhân sự lao động. Bồi dưỡng đáo tạo công nhân và đảm bảo an
ninh trật tự. Cụ thể giám sát phòng hành chính, phòng tổ chức bảo vệ.
- Phó giám đốc kinh doanh : chịu trách nhiệm về công tác sổ sách kế toán toàn
công ty. Tổ chức tình hình sản xuất kinh doanh .... làm nhiệm vụ bảo toàn vốn, có
kế hoạch mở rộng sản xuất, tìm đối tác về tài chính.
- Phó giám đốc tài chính : là người chịu trách nhiệm trực tiếp ra quyết định
điều hành tới các phòng tài vụ và phòng kiến thiết cơ bản
Chịu sự chỉ đạo của các phó giám đốc là các phòng ban, tổng số phòng ban
hiện nay trong công ty là 10 phòng ban, nhằm tham mưu giúp đỡ phó giám đốc
có những thông tin để nắm rõ tình hình sản xuất kinh doanh. Bao gồm :
- Phòng tổ chức lao động: (2 người) có nhiệm vụ tiếp nhận, thanh toán các chế
độ lương thưởng, bảo hiểm xã hội, trợ cấp....cho người lao động, thực hiện thi
đua công tác trong công ty
- Phòng kỹ thuật: (7 người) xây dựng cải tiến quy trình công nghệ sản xuất,
tổng hợp và đưa vào thực tiễn các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, phụ trách về các
vấn đề kỹ thuật trong nhà máy. Xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật cho các
sản phẩm mới.
- Phòng KCS: (2 người) kiểm tra nghiệm thu chất lượng sản phẩm.
- Phòng hành chính: (2 người) chăm lo vấn đề đời sống cho cán bộ công nhân
viên công ty. Tiếp khách, giải quyết các thủ tục hành chính....
- Phòng cung tiêu - Phòng kế hoạch : (2người) lập các kế hoạch sản xuất, cung
ứng vật tư, nguyên liệu, tổ chức giới thiệu và bán sản phẩm ....
- Phòng tài vụ : (6 người) thực hiện các nghiệp vụ tính toán ghi chép các thông
tin về vốn, vật tư, nguyên vật liệu..... Nắm tình hình thu chi, lỗ lãi, bảo toàn vốn

và nộp ngân sách.
- Phòng kiến thiết cơ bản : (1 người) hoàn chỉnh tu sửa, xây dựng mới các công
trình, cơ sở vật chất của công ty.
- Tổ chức bảo vệ : (15 người) bảo vệ trật tự an ninh, an toàn cho sản xuất.
Đảm bảo thực hiện đúng các nội quy, quy chế của công ty.
- Ban kho : (3 người) tạo điều kiện để xuất vật tư cho sản xuất một cách dễ
dàng. Nhập vật tư, bảo quản dự trữ khoa học để hàng hoá có chất lượng không
thay đổi, hàng hoá trong kho không bị hao hụt mất mát.
Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty Bia Việt Hà
I.1. Đặc điểm sản phẩm bia hơi của Công ty
Từ ngày thành lập và trải qua hơn 30 năm hoạt động, công ty đã có rất
nhiều sản phẩm khác nhau, biến đổi theo thời gian để phù hợp vời tình hình
SƠ ĐỒ BỘ M Y QUÁ ẢN LÝ CÔNG TY BIA VIỆT H HIÀ ỆN NAY
PG
Đ
T IÀ
CH
ÍN
H
Phòng KTCB
Phòng t i và ụ
Ban kho
PG
Đ
KIN
H
DO
AN
H
Phòng kế hoạch

PHÂ
N
XƯỞ
NG
SẢN
XUẤ
T
GI
Â
M
Đ

C
Phòng cung tiêu
PGĐ
TỔ
CH
ỨC
Ban bảo vệ
Phòng tổ chức
Phòng h nh chínhà
PGĐ
KỸ
THU
ẬT
Phòng KCS
Phòng kỹ thuật
chung của yêu cầu thị trường có thời kỳ sản phẩm của công ty ngoài các mặt
hàng như nước chấm, dấm, tương....còn có kẹo, rượu để xuất khẩu. Nắm bắt
được tình hình thực tế từ năm 1993 trở lại đây sản phẩm chính của công ty Bia

Việt Hà là bia hơi, công nghệ của Đan Mạch. Năm 1999 sản lượng kế hoạch là 12
triệu lít/năm tương ứng với dây chuyền thiết bị và sản lượng thực hiện là 10,73
triệu lít/năm đạt 89,42% kế hoạch.
Bia là một loại đồ uống được sản xuất từ một loại hạt nẩy mầm gọi là
Malt và hoa Hublong (hoa tạo hương bia). Những nguyên liệu này chủ yếu là
nhập khẩu. Vào những năm 1957-1958 khi bia lần đầu tiên được bán trên thị
trường miền Bắc vẫn còn là một đồ uống xa lạ với mọi người. Khi đó người ta đã
pha bia với Siro để giảm bớt vị đắng, sản lượng tiêu dùng bia khá ít. Dần dần,
nhận ra tác dụng của loại đồ uống này với sức khoẻ thì nó trở nên thông dụng
hơn. Người ta không chỉ uống bia vào những ngày nóng mà còn vào những
tháng mùa đông hanh khô. Đặc biệt trong các dịp lễ tết, hội nghị, bia trở thành
nhu cầu không thể thiếu. Trong tương lai bia sẽ trở thành một loại đồ uống
được ưa chuộng và công nghiệp sản xuất bia còn nhiều tiềm năng phát triển
mạnh.
Bia, đặc biệt là bia hơi có đặc điểm giống như mọi thứ hàng thực phẩm
khác, qua thời gian bia sẽ lên men chất lượng giảm. Chính vì vậy vấn đề đặt ra
với cơ sở là phải gắn liền quá trình sản xuất với tiêu thụ sản phẩm.
Bia có thành phần từ các nguyên liệu chủ yếu là: gạo, Malt (men), hoa
Hublong với các nhiên liệu than, điện cùng một số hoá chất khác. Định mức cho
100 lít bia mà công ty đang sản xuất bao gồm :
Malt : 13 Kg Hoa Hublong : 1 Kg Điện : 15 Kw
Gạo : 6 Kg Cao hoa : 0,4 Kg Đường và hoá chất: 1,5 Kg
Khác với sản phẩm giải khát khác, sản phẩm bia khi sản xuất đòi hỏi yêu
cầu kỹ thuật và vệ sinh rất cao mới cho sản phẩm có chất lượng. Song mặt khác
nó cũng yêu cầu một chế độ bảo quản nghiêm ngặt trong khoảng nhiệt độ thấp
từ lúc là thành phẩm hoàn chỉnh đến khi tiêu dùng. Đặc điểm quan trọng này
ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sản xuất và tiêu thụ bia .
I.2. Đặc điểm về tiêu thụ sản phẩm
Công ty Bia Việt Hà là doanh nghiệp sản xuất chuyên môn hoá mặt hàng
Bia hơi. Hiện nay sản phẩm bia trên thị trường Việt Nam được chia làm ba loại:

bia cao cấp, bia trung bình và bia có chất lượng kém. Sản phẩm Bia hơi của công
ty là loại sản phẩm tươi mát có giá trị dinh dưỡng cao, thời gian bảo quản tốt
nhất là 24
h
. Sản phẩm của công ty thuộc loại chất lượng phổ thông, đối tượng
phục vụ chính là người tiêu dùng có thu nhập từ trung bình trở xuống. Sản phẩm
bia của công ty có chất lượng phù hợp với người tiêu dùng và giá cả phải chăng
nên dần chiếm lĩnh được thị trường. Thị trường tiêu thu sản phẩm chính của
Công ty Bia Việt Hà là thành phố Hà nội, với các quận huyện nội thành. Hiện nay
công ty có khoảng 420 điểm tiêu thụ với mức tiêu thụ bình quân một ngày là
70lít/điểm tiêu thụ. Số điểm này được thể hiện qua bảng sau.
BẢNG 1: KHẢ NĂNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM BIA HƠI CỦA CÔNG TY
Đơn vị: lít/ngày/điểm tiêu thụ
Năm Số điểm tiêu thụ Số lượng tiêu thụ bình quân
1992 15 -
1994 160 30
1996 570 40
1998 610 70
1999 418 70
Do bia là một sản phẩm đang có sức tiêu thụ lớn, thu lợi nhuân cao nên
ngày càng có nhiều sản phẩm cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất. Các
hãng đưa ra sản phẩm của mình với những lời quảng cáo rất hấp dẫn.
Ngoài tính chất thời vụ, thị hiếu người tiêu dùng, công ty phải tính đến
thu nhập của người tiêu dùng và cách phân bổ của họ cho đồ uống trong sinh
hoạt hằng ngày mà đặc biệt là mặt hàng bia hơi. Những người có thu nhập cao
thường dùng bia có chất lượng cao và nếu trung bình trở xuống thì họ lại có mặt
hàng đáp ứng cho mình một cách hợp lý hơn. Đó là bia chai và bia hơi, các loại
bia này chất lượng tươi ngon, giá lại rẻ hơn nên đáp ứng phần lớn nhu cầu của
người lao động bình thường. Đây là nguyên nhân chính tạo ra hệ thống khách
hàng cho loại bia hơi: nhân dân lao động và người có thu nhập trung bình.

Từ những nhận xét đó, Công ty đã hướng mũi nhọn phấn đấu của mình
vào đối tượng khách hàng là nhân dân lao động, ngày càng củng cố chất lượng,
thâm nhập vào tầng lớp này để mở rộng thị trường. Năm 1992 công ty chỉ có 15
địa điểm tiêu thụ sản phẩm với số lượng trung bình 30 lít/hộ/ngày, thì cho đến
năm 1998 số hộ đăng ký kinh doanh bia hơi việt hà lên tới gần 610 điểm với số
lượng trung bình 70 lít/hộ/ngày. Tuy nhiên do tính chất thời vụ của bia, nên số
lượng phân bổ có sự khác nhau giữa mùa hè và mùa đông. Mùa đông trung bình
một ngày tại một điểm tiêu thu là 50 lít, còn vào mùa hè số lượng này tăng gần
gấp đôi khoảng 90 lít. Tại các quầy giới thiệu tiêu thụ sản phẩm của con số này
còn lớn hơn rất nhiều, ví dụ riêng 6 tháng đầu năm 1992 của hàng 69 Trương
định đã tiêu thụ được 27.000 lít chiếm 1/10 tổng lượng bia sản xuất ra. Việc
hình thành các quầy tiêu thụ của công ty trong những ngày đầu thành lập nhằm
mục đích nắm được thông tin từ khách hàng về giá cả chất lượng bia. Đến năm
1994 thị trường của công ty đã đi vào ổn định, kênh phân phối của công ty chủ
yếu thông qua những người bán lẻ đó là hộ gia đình, của hàng đăng ký làm đại
lý tiêu thụ cho công ty. Hiện nay, xấp xỉ 100% lượng bia hơi sản xuất ra là do các
hộ gia đình làm đại lý tiêu thụ, chỉ còn duy nhất một quầy giới thiệu tiêu thụ sản
phẩm, với mục đích thu nhận những ý kiến đóng góp của khách hàng với sản
phẩm của công ty. Điều này chứng tỏ uy tín của khách hàng ngày càng tăng đối
với công ty. Số hộ gia đình đăng ký làm đại lý không ngừng tăng, làm tăng
nhanh tốc độ tiêu thụ và sản xuất của công ty. Việc sử dụng kênh tiêu thụ thông
qua các hộ gia đình là một phương pháp hữu hiệu, làm cơ sở mở rộng thị
trường và thông qua mạng lưới này công ty có thể quảng cáo sản phẩm của
mình tới quảng đại quần chúng.
Về sản lượng tiêu thụ và mức giá bán sản phẩm của Công ty được thể hiện
qua bảng số liệu sau.
BẢNG 2: SẢN LƯỢNG BIA CỦA CÔNG TY QUA CÁC NĂM.
Đơn vị: triệu lít
Năm 1995 1996 1997 1998 1999
Giá (đ/lít) 3700 4000 4000 4000 4000

Sản lượng 6,7 8,25 11,42 15,2 10,73
Hiện nay sản lượng tiêu thụ của Công ty đạt 10,3 triệu lít, với mức giá bán
khoảng 4000 đ/lít. Kết quả này là sự nỗ lực phấn đấu của toàn bộ tập thể cán bộ
công nhân viên của Công ty.
I.3. Đặc điểm về công nghệ sản xuất Bia
Để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động thì hệ
thống máy móc trang thiết bị phải được đặc biệt quan tâm, phù hợp với năng
lực của công ty và phù hợp với trình độ tiêu dùng của thị trường.
Trước đây, máy móc thiết bị của Công ty phần lớn là lạc hậu, cũ kỹ, công
suất thấp. Khi công ty quyết định chuyển sang sản xuất bia, cũng đồng thời nhận
thức rõ thị trường và mức tiêu thụ của nhân dân ngày một cao, thiết bị sản xuất
phải hiện đại, theo kịp tốc độ cạnh tranh của thị trường. Năm 1993 Công ty đầu
tư mua một dây chuyền sản xuất bia của Đan Mạch thành lập liên doanh Đông
Nam Á. Sau đó, qua nghiên cứu tìm tòi cuối năm 1994 Công ty đã hoàn thành
việc lắp đặt một dây chuyền sản xuất bia hơi có chất lượng tốt không kém dây
chuyền nhập ngoại. Hầu hết các máy móc được tính toán, cân nhắc, so sánh với
dây chuyền lắp đặt tại liên doanh Đông Nam á và thấy rằng số máy của Việt
Nam có chất lượng tốt, giá lại rẻ hơn của nước ngoài. Một số máy móc, thiết bị
làm lạnh, máy nén khí.... trong nước chưa sản xuất được công ty tiến hành nhập
của các nước có uy tín như: Nhật, Đài Loan, Trung Quốc với giá cả được nghiên
cứu hợp lý và chất lượng đảm bảo.
Trên thị trường, một số loại bia sau khi uống gây phản ứng choáng đầu,
độ thơm không cao.... Nhưng Bia Việt Hà được nghiên cứu kỹ, điều chỉnh độ phối
hợp các nguyên liệu cũng như các chi tiết nhất định trong kỹ thuật sản xuất đã
làm cho Bia Việt Hà thoả mãn được nhu cầu của thị trường.
Cùng với hệ thống thiết bị máy móc là hệ thống kho chứa thành phẩm
rộng rãi, xây dựng chắc chắn, phù hợp và trang thiết bị bảo quản lạnh với nhiệt
độ có thể điều chỉnh phù hợp làm cho thời gian tồn tại của sản phẩm lâu hơn.
• Quy trình công nghệ sản xuất bia của công ty bao gồm: chế biến, lên
men, lọc và chiết bia (quy trình sản xuất trang sau)

- Chế biến: Gao xay nhỏ trộn với nước, nâng nhiệt độ qua giai đoạn hồ hoá 65
o
C, rồi
đến giai đoạn dịch hoá 75
o
C, đun sôi ở 120
o
C trong một giờ rưỡi rồi trộn với hỗn
hợp Malt, nước ở giai đoạn 52
o
C, 65
o
C, 75
o
C. Malt sẽ dịch hoá các tinh bột của
gạo và Malt thành đường Malto, sản phẩm bia hơi có dịch đường là 10
o
.
- Lên men: dung dịch đường Malto sau khi đun sôi dược làm nguội xuống 12
o
C và
bắt đầu lên men.
+ Lên men chính thực hiện như sau: Dịch đường được bổ sung nấm men,
quá trình này biến đường thành cồn và CO
2
, độ đường giảm xuống còn 3,5
0
. Kết
thúc lên men chính sau đó lên men phụ. Quá trình lên men chính từ 6 - 9 ngày.
+ Lên men phụ: Lên men phụ được thực hiện ở 3 - 5

o
C với mục đích làm
bão hoà CO
2
, ổn định thành phần hoá học của bia và tạo hương liệu bia. Lên men
phụ diễn ra khoảng 20 ngày.
- Lọc: Sau khi kết thúc lên men phụ, bia được lọc để loại các chất hữu cơ, men và
bão hoà thêm CO
2
nhằm đạt tiêu chuẩn chất lượng.
- Chiết bia: Sau khi lọc xong, bia được chiết vào thùng ở 62-65
o
C để tiêu diệt men
bia và các vi sinh, tăng thời gian bảo quản cho bia
QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA HƠI
Matl
Gạo
Tăng chứa áp lực
L m sà ạchL m sà ạch
Thùng chứa bia trong
L m à ướt
Nghiền nhỏ
Rửa thùng
Nghiền đậpTrộn nước
Vô trùng
Hồ hoá 86
o
C
Dịch hoá 72
o

C
Chiết bia
Đạm hoá 52
o
C
Đun sôi 100
o
C
Đường hoá I 65
o
C
Xuất kho
Đường hoá II 75
o
C
Lọc
Bã bia
Nấu hoa
Hoa
Đường
Lắng trong
Tách bã
Cặn nóng
L m là ạnh
Lên men sơ bộ
Lên men chính
Khí sạch
Lên men phụ
Thu hối CO
2

Men giống
Lọc trong + KCS
Thu hồi mem
• Về mặt cơ sở vật chất
BẢNG 3 : DANH MỤC CÁC LOẠI THIẾT BỊ CHỦ YẾU
STT Tên M.M.T.B Tên nước S.X Công suất
1 Máy xay Malt N.T250 Việt Nam 150 kg/h
2 Máy xay gạo N.T250 Việt Nam 100 kg/h
3 Nồi nước nóng WWA14 Ba Lan 400 lít
4 Nồi nấu Việt Nam 2000 lít
5 Nồi lên men phụ Việt Nam 3000 lít
6 Nồi lên men chính Việt Nam 3000 lít
7 Thùng nhân giống Việt Nam 400 lít
8 Thiết bị lạnh nhanh Trung Quốc 1000 lít
9 Thiết bị nạp CO2 Việt Nam 1000 lít
10 Máy ép lọc khung bản Việt Nam 2 m3/h
11 Bơm Inốc Việt Nam 10 m3/h
12 Bể muối Việt Nam 10 m3/h
13 Nồi hơi LHG0,152 Trung Quốc 0,45 tấn/h
14 Máy nén khí Đài Loan 226 c/ph
15 Máy nén lạnh MYCOM Nhật Bản 105000 Kcal
Hệ thống thiết bị máy móc này của công ty đều được lắp đặt mới vào
những năm 1994, mặc dù máy móc đều do Việt Nam thiết kế nhưng theo đánh
giá của các chuyên gia nó đạt tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo các tiêu chuẩn an
toàn vệ sinh.
• Mức huy động công suất
Tình hình hoạt động của công nghệ được xem xét qua khả năng tạo ra
sản phẩm, mà chỉ tiêu đánh giá nó là mức huy động công suất thiết bị về sản
lượng (Ncs%)
Tình hình huy động sử dụng máy móc thiết bị của công ty ngày càng tăng,

công suất huy động cao nhất là năm 1999 với 97,55% khả năng hoạt động của
máy móc thiết bị. Điều này là do việc tổ chức sản xuất của công ty gắn liền với
thị trường, thiết kế máy móc dựa trên phân tích đánh giá và dự đoán nhu cầu
của thị trường.
BẢNG 4: MỨC HUY ĐỘNG CÔNG SUẤT 1996-1999
Đơn vị: triệu lít
Năm Sản lượng thực
hiện
Công suất thiết kế Ncs (%)
1996 8,25 10,00 82,50
1997 11,42 15,90 71,82
1998 15,20 15,90 95,60
1999 10,73 12,00 89,42
I.4. Đặc điểm về sử dụng nguyên vật liệu
Trong quá trình sản xuất, để tạo ra sản phẩm, nguyên vật liệu chỉ tham
gia vào một chu kỳ sản xuất và khi tham gia vào quá trình sản xuất thì nguyên
liệu bị tiêu hao toàn bộ, không giữ nguyên được hình thái ban đầu. Giá trị
nguyên vật liệu được chuyển toàn bộ vào giá trị thành phẩm.Căn cứ vào nội
dung kinh tế, vai trò và tác dụng của chúng trong quá trình sản xuất nguyên vật
liệu ở công ty Bia Việt Hà được chia thành :
- Nguyên vật liệu chính: là đối tượng lao động chủ yếu của công ty, là cơ sở vật
chất cấu thành nên thực thể chính của sản phẩm gồm nước, Malt đại mạch, gạo,
đường, hoa và cao hoa.
- Vật liệu phụ: không cấu thành nên thực thể của sản phẩm, nhưng có tác dụng
làm tăng chất lượng sản phẩm và tạo điều kiện cho quá trình sản xuất diền ra
bình thường như bột, hồ gián, xà phòng.....
- Nhiên liệu: có tác dụng cung cấp nhiệt lượng cho quá trình sản xuất, nhiên
liệu được sử dụng trực tiếp vào quy trình công nghệ sản xuất bia.
- Phụ tùng thay thế
- Vật tư, vật liệu xây dựng cơ bản

- Phế liệu thu hồi
Giá thành nguyên vật liệu được tính như sau:
Giá thực tế nguyên vật
=
Giá tính
+

Chi phí vận
liệu mua ngoài theo hoá đơn chuyển bốc dỡ
Giá cả mua nguyên vật liệu là một vấn đề quan tâm của công ty, làm sao
để với chi phí ít nhất lại mua được khối lượng nguyên vật liệu nhiều nhất mà
chất lượng vẫn đảm bảo. Do đó, đòi hỏi công ty phải tìm địa điểm thu mua thuận
tiện nhằm hạ thấp chi phí thu mua góp phần hạ giá thành sản phẩm. Trong số
nguyên vật liệu của công ty thì Malt và Houblon là hai loại phải trồng ở xứ ôn
đới, nước ta không trồng được nên phải nhập từ nước ngoài với giá khá cao. Hại
loại nguyên vật liệu này được Công ty thu mua thông qua hình thức uỷ thác và
mua lại của các Công ty sản xuất cùng ngành. Ngoài ra các nguyên liệu khác đều
được thu mua tại thị trường trong nước đặc biệt là thị trường Hà Nội, với các
công ty lớn như tổng công ty Lương thực Việt Nam.....Với mục tiêu là giảm giá
thành sản phẩm công ty đã sử dụng thêm hai loại nguyên liệu là gạo và đường
để làm phụ liệu cho Malt.
BẢNG 5: KẾT CẤU NGUYÊN VẬT LIỆU CHO 100 LÍT BIA HƠI
Malt Gạo Đường Houblon Cao hoa Điện
13 kg 6 kg 1,5 kg 1 kg 0,4 kg 15 Kw
Qua bảng trên ta thấy Malt và gạo chiếm một tỷ trọng rất lớn trong thành
phần cấu tạo nên sản phẩm, điều này chứng tỏ bia là một loại nước giải khát có
nhiều chất dinh dưỡng, rất bổ.
Hầu hết các nguyên vật liệu của công ty đều có nguồn gốc thực vật nên
việc bảo quản các nguyên vật liệu phaỉ tuân thủ thao các quy định nghiêm ngặt.
Công ty tổ chức bảo quản nguyên vật liệu trong điều kiện sự thoáng mát của kho

chứa và độ ẩm dưới 10% (đặc biệt với Houblon thì độ ẩm luôn dưới 5%). Điều
này nhằm tránh không để hư hao mất mát, giảm phẩm chất gây ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm, tránh thiệt hại cho sản xuất.
Nguyên vật liệu thu mua phải đảm bảo đầy đủ về số lượng, chất
lượng,chủng loại. Việc chi dùng nguyên vật liệu cho sản xuất được quản lý chặt
chẽ và theo nguyên tắc: tất cả các nhu cầu về nguyên vật liệu đều phải xuất phát
từ nhiệm vụ của sản xuất. Cụ thể là căn cứ vào lệnh sản xuất, vào định mức sử
dụng nguyên vật liệu và trên từng phiếu xuất kho ghi rõ từng dối tuợng chi phí
sản xuất.
Ở công ty Bia Việt Hà, nguyên vật liệu mua ngoài là chủ yếu. Theo quy
định tất cả các nguyên vật liệu khi về đến công ty đều phải tiền hành thủ tục
kiểm nghiệm nhập kho. Khi nguyên vật liệu về đến kho, nhân viên thu mua đem
hoá đơn lên phòng cung tiêu, phòng cung tiêu tiến hành kiểm tra, đối chứng với
hợp đồng, nếu nội dung phù hợp thì cho phép nhập nguyên vật liệu, đồng thời
làm phiếu nhập kho và nhân viên thu mua đề nghị thủ kho cho nhập nguyên vật
liệu đó. Sau đó ban kiểm tra tiến hành kiểm tra số lượng, chất lượng của từng
loại nguyên vật liệu và ghi vào biên bản kiểm nghiệm. Nếu nguyên vật liệu mua
về đúng quy cách, phẩm chất mẫu mã thì mới tiến hành thủ tục nhập kho.
Tóm lại, công tác tổ chức thu mua và sử dụng nguyên vật liệu tại công ty
được quản lý rất chặt chẽ dưới sự điều hành và kiểm soát của phòng cung tiêu.
I.5. Đặc điểm tổ chức sản xuất và lao động
I.5.1. Tổ chức sản xuất
Tổ chức sản xuất của công ty Bia Việt Hà được thực hiện theo kiểu: Công
ty - Phân xưởng - Tổ sản xuất - Nơi làm việc. Các bộ phận sản xuất được tổ chức
theo hình thức công nghệ, với phương pháp tổ chức sản xuất là phương pháp
dây chuyền liên tục từ khi nấu đến lên me, lọc, chiết bia và làm lạnh.
Phân xưởng sản xuất : có nhiệm vụ nhận nguyên vật liệu thực hiện quy
trình sản xuất bia. Phân xưởng sản xuất bao gồm
- Tổ nấu: thực hiện nhiệm vụ giai đoạn nấu.
- Tổ men: làm nhiệm vụ ủ men, hạ nhiệt độ, lêm men sơ bộ.

- Tổ lọc và tổ chiết bia
- Các tổ phụ trợ: tổ lạnh, tổ lò hơi........
I.5.2. Đặc điểm về lao động
Để mở rộng sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, ban lãnh đạo công ty Bia
Việt Hà luôn chú trọng đến đến chất lượng lao động. Mục tiêu của công ty là
người lao động không những am hiểu nghành nghề mà còn phải thông thạo kiến
thức chuyên môn. Những năm qua, các hình thúc đào tạo công nhân mới được
công ty áp dụng khá triệt. Công ty có hơn 3/5 số công nhân đã qua đào tạovề
nghiệp vụ chuyên môn. Bậc thợ bình quân của công nhân sản xuất hiện nay là
3,6. Hàng năm công ty đều tiền hành hoạt động tuyển thêm kỹ sư giỏi, cử cán bộ,
cá nhân có năng lực đi học các khoá ngắn hạn hoặc các trường đại học. Theo
thống kê của phòng tổ chức thì hiện nay số cán bộ công nhân viên của công ty là
261 người, với một cơ cấu lao động gồm nhiều thợ bậc cao, kỹ sư giỏi và các cán
bộ dày dạn kinh nghiệm.
BẢNG 6: KẾT CẤU LAO ĐỘNG CỦA CÔNG TY BIA VIỆT HÀ
Năm
Chỉ tiêu
96 97 98 99
STĐ % STĐ % STĐ % STĐ %
Tổng số lao động 425 100 378 100 374 100 261 100
L.Đ có trình độ ĐH 67 15,8 54 14,2 65 17,4 47 18,1
L.Đ có trình độ C.Đ, T.C 22 5,2 17 4,5 12 3,2 7 2,7
L.Đ phổ thông, học nghề 336 79,0 307 81,3 297 79,4 207 79,3
Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy: năm 1996 số lao động của công ty lên
đến 425 người, là con số cao nhất trong giai đoạn chúng ta nghiên cứu, tuy
nhiên xét về thực chất lao động trong biên chế của công ty chỉ có 380 người, số
còn lại là lao động ngắn hạn. Năm 1997, số lao động ngắn hạn này hết hợp đồng
công thêm với số người về hưu nên làm giảm con số tuyệt đối xuống còn 378
người. Sự giảm sut số lượng lao động năm 1999 là do việc tách ra của công ty cổ
phần Việt Hà.

Về cơ cấu lao động của công ty nhìn chung trong những năm qua không có
sự thay đổi lớn. Tỉ lệ lao động phổ thông và ĐH, CĐ là 4:1 trong đó tỉ lệ lao động
có trình độ ĐH ngày càng tăng.
Về bậc thợ công nhân được thể hiện qua bảng sau:
BẢNG 7 : TRÌNH ĐỘ LAO ĐỘNG TRONG CÔNG TY BIA VIỆT HÀ
Công nhân sản xuất Công nhân kỹ thuật, quản lý
Bậc 1998 1999 Bậc 1998 1999
7/7 6 4
Cán sự 19 13
6/7 48 36
5/7 107 68
Chuyên viên 63 44
4/7 87 62
3/7 30 9
Chuyên viên
chính
8 5
2/7 6 20
Bảng này chỉ rõ công nhân lao động bậc 4/7 và 5/7 chiếm tỷ trọng chủ
yếu trong lao động sản xuất của công ty. Với công nhân quản lý và chỉ đạo
nghiệp vụ thí chuyên viên chiếm tỷ trọng lớn và là lực lượng quản lý chính của
công ty.
Tuy nhiên lao động gián tiếp của công ty lại quá lớn, điều này gây ra tốn kém về
chi phí quản lý, độn giá thành của sản phẩm lên. Số lao động gián tiếp(lao động
quản lý) chiếm 45 người tức vào khoảng 17,2%. Không chỉ có thế bộ máy quản lý
cồng kềnh gây ra tình trạng quan liêu làm rtị trệ sản xuất, dẫn đến công việc
kinh doanh kém hiệu quả.
I.6. Đặc diểm về hạch toán kinh doanh
Là một công ty có tư cách pháp nhân và hạch toán độc lập, công ty có
nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh mặt hàng bia hơi có tính chất thời vụ. Hình

thức hạch toán kinh doanh của Công ty được thực hiện theo các quy định cho các
doanh nghiệp Nhà nước.
Công tác hạch toán kế toán và xác định kết quả kinh doanh của Công ty
Bia Việt Hà được thực hiện chủ yếu bởi phòng tài vụ. Về hình thức kế toán, Công
ty áp dụng hình thức nhật ký chứng từ tiến hành theo phương pháp kê khai
thường xuyên. Hàng ngày kế toán của Công ty tiền hành ghi sổ nhật ký các
nghiệp vụ kinh tế pháp sinh, sau đó cuối kỳ thực hiện khoá sổ và kế toán trưởng
tính toán kết quả kinh doanh của kỳ, lập báo cáo gủi lên phòng tài chính, sau đó
là lên ban giám đốc.
Qua báo cáo này và các báo cáo tổng hợp khác như báo cáo về lao động ...
Công ty tiến hành tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh và tìm ra nguyên
nhân, cuối cùng đưa ra biện pháp khắc phục. Hình thức hạch toán kế toán được
mô tả qua sơ đồ sau:

×