Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích mối quan hệ giữa chuẩn mực phong tục, tập quán và chuẩn mực pháp luật. Liên hệ với tình hình thực tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.73 KB, 14 trang )

XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
LỜI MỞ ĐẦU
Muốn tồn tại và phát triển, con người không thể sống độc lập, cá thể riêng lẻ
mà cần phải dựa vào nhau, đoàn kết tương trợ nhau và chung sống với nhau
tạo thành xã hội thông qua những mối liên hệ. Trong đó, mỗi con người lại
có suy nghĩ và hành vi riêng, vì vậy đòi hỏi phải có những “phương tiện xã
hội” điều chỉnh. Và chính con người, bằng ý chí chung của các nhóm, giai
cấp, tầng lớp xã hội..., đã xác lập và tạo dựng một hệ thống các quy tắc, yêu
cầu, đòi hỏi của xã hội đối với hành vi xã hội của mỗi cá nhân hay nhóm xã
hội. Từ đó, trong xã hội hình thành và xuất hiện một hệ thống các chuẩn
mực xã hội, đó là: chuẩn mực chính trị, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực
phong tục tập quán,...
Giữa các chuẩn mực xã hội có mối quan hệ đối với nhau, chi phối, bổ sung,
tác động qua lại lẫn nhau trong việc điều chỉnh hành vi của con người.
Những mối quan hệ này luôn là đề tài dành được nhiều sự quan tâm các nhà
nghiên cứu khoa học xã hội.Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa các chuẩn
mực xã hội, em xin chọn tìm hiểu một mối quan hệ tiêu biểu từ đề tài:
“Phân tích mối quan hệ giữa chuẩn mực phong tục, tập quán và chuẩn
mực pháp luật. Liên hệ với tình hình thực tế ở nước ta hiện nay”.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
1.1 Chuẩn mực xã hội
Chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối
với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về
tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái
không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của

1


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT


mỗi người, nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn trật tự, kỉ
cương, an toàn xã hội.
Chuẩn mực xã hội có những hình thức biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào
các tiêu chí phân loại cũng như mục đích khảo sát, nghiên cứu. Thông
thường, chuẩn mực xã hội được phân loại theo hai tiêu chí sau đây:
+ Theo tính chất phổ biến rộng rãi hay hạn hẹp của chuẩn mực xã hội. Với
tiêu chí này, chuẩn mực xã hội được phân chia thành chuẩn mực xã hội công
khai và chuẩn mực xã hội ngầm ẩn.
+ Theo đặc điểm được ghi chép hay không được ghi chép lại. Với tiêu chí
này, chuẩn mực xã hội thường được biểu hiện dưới hai hình thức là chuẩn
mực xã hội thành văn và chuẩn mực xã hội bất thành văn.
Chuẩn mực xã hội có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Tính tất yếu xã hội
+ Tính định hướng của chuẩn mực xã hội theo không gian, thời gian và đối
tượng
+ Tính vận động, biến đổi của chuẩn mực xã hội theo không gian, thời gian,
giai cấp, dân tộc
Chuẩn mực xã hội có những vai trò đối với đời sống xã hội như: góp phần
điều tiết, điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo “khuôn mẫu” cho hành vi xã hội
của con người, duy trì sự ổn định, hài hòa trong xã hội, bảo vệ trật tự, kỷ
cương, an toàn xã hội...
1.2 Chuẩn mực pháp luật
Chuẩn mực pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành
và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho
hành vi ứng xử của các cá nhân và các nhóm xã hội.
Tính chuẩn mực của pháp luật nói lên những giới hạn cần thiết mà nhà nước
quy định để mọi chủ thể có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho
2



XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
phép, thường biểu hiện dưới dạng “cái có thể”, “cái được phép”, “cái không
được phép” và “cái bắt buộc thực hiện”... Vượt ra khỏi phạm vi, giới hạn đó
là vi phạm pháp luật. Không thể có chuẩn mực pháp luật chung chung, trừu
tượng, mà nó phải được thể hiện ra thành những quy tắc, yêu cầu cụ thể,
dưới dạng các quy phạm pháp luật. Chuẩn mực pháp luật là các quy tắc điều
chỉnh hành vi; bởi vậy nếu không đặt ra các quy phạm pháp luật thì sẽ không
có căn cứ pháp lý để đánh giá hành vi nào là hợp pháp và hành vi nào là bất
hợp pháp.
Chuẩn mực pháp luật khác với các loại chuẩn mực xã hội khác ở một điểm
cơ bản là nó mang tính cưỡng bức của nhà nước. Các chuẩn mực xã hội, khi
được nhà nước thừa nhận, sử dụng và bảo đảm bằng khả năng cưỡng bức sẽ
trở thành chuẩn mực pháp luật.
Chuẩn mực pháp luật được thực hiện chừng nào nó còn phù hợp với các
quan hệ xã hội và các lợi ích của giai cấp thống trị nảy sinh từ các quan hệ
xã hội này. Chuẩn mực pháp luật nào không còn phản ánh đúng các quan hệ
xã hội nữa thì nhà nước tước mất của nó sức mạnh hoặc thay đổi nó về mặt
hình thức. Nếu chuẩn mực pháp luật thể hiện nhu cầu xã hội thì đứng đằng
sau nó là chính quyền nhà nước với nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội
thống trị; phù hợp với các quan hệ xã hội ấy, chuẩn mực tạo thành hành vi
phù hợp với pháp luật, tức là cưỡng bức tuân theo nó. Sự thực hiện phổ biến
tương ứng các quan hệ xã hội thống trị đồng thời cũng là tính chuẩn mực.
1.3 Chuẩn mực phong tục, tập quán
Phong tục là thuật ngữ ghép đôi, trong đó, “phong” là nền nếp đã được lan
truyền, phổ biến rộng rãi, “tục” là những thói quen, nếp sống lâu đời. Như
vậy, về mặt ngữ nghĩa, phong tục là những thói quen, nền nếp lâu đời đã
được lan truyền, phổ biến rộng rãi trên phạm vi toàn xã hội hay trong một
cộng đồng xã hội, một nhóm xã hội nhất định.
3



XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
Tập quán là những quy ước, quy tắc giao tiếp, ứng xử giữa các cá nhân với
nhau, cá nhân với cộng đồng xã hội hoặc giữa các cộng đồng xã hội với
nhau trong cuộc sống, sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt xã hội, được lặp đi, lặp
lại nhiều lần rồi trở thành thói quen, nền nếp của cộng đồng người.
Cả phong tục và tập quán đều có quá trình hình thành, tồn tại và phát triển
lâu dài về mặt lịch sử, đều phản ánh các mặt, các khía cạnh trong hoạt động
giao tiếp, sinh hoạt của các cộng đồng người dưới dạng thói quen, nền nếp.
Giữa phong tục và tập quán có nhiều điểm tương đồng đến mức, nhiều khi
không phân biệt được một cách rõ ràng đâu là phong tục và đâu là tập quán.
Chính vì vậy, thuật ngữ “phong tục” và thuật ngữ “tập quán” thường được sử
dụng song hành với nhau, tạo thành thuật ngữ “phong tục, tập quán”.
Quá trình hình thành, phát triển của phong tục, tập quán là quá trình biến
đổi không ngừng cùng với sự biến đổi của văn hóa - xã hộiqua các thời kỳ
lịch sử, nhưng dai dẳng hơn và có những quy luật riêng của nó. Một phong
tục, tập quán không dễ gì được mọi người, mọi nhà, mọi cộng đồng xã hội
thừa nhận và tuân theo trong một sớm, một chiều. Phong tục hay thì được
nhiều người bắt chước nhau làm, tập quán dở thì nhiều người cũng sẽ bắt
chước nhau bỏ dần. Bản thân các phong tục, tập quán cũng nằm trong cuộc
đấu tranh xã hội đã, đang và sẽ tiếp diễn giữa cái cũ và cái mới. Đó cũng là
quá trình hình thành, biến đổi của các chuẩn mực phong tục, tập quán.
Chuẩn mực phong tục, tập quán là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi
được xác lập nhằm củng cố những mẫu mực giao tiếp, ứng xử trong các
cộng đồng người, các quy tắc sinh hoạt công cộng lâu đời của con người,
được hình thành qua quá trình lịch sử lặp đi, lặp lại nhiều lần, trở thành
thói quen trong lao động, cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của các cộng
đồng xã hội.
Các đặc điểm của chuẩn mực phong tục, tập quán:
4



XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
Chuẩn mực phong tục, tập quán không phải là ý chí của cá nhân đơn lẻ, mà
là sự thể hiện ý chí chung của một cộng đồng xã hội, được biểu hiện ra trong
hành vi, hoạt động của mỗi thành viên xuất phát từ sự thừa nhận, tôn trọng
và tuân thủ theo các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi chung. Không thể nói phong
tục, tập quán của cá nhân, mà phải là phong tục, tập quán của một cộng đồng
người.
Chuẩn mực phong tục, tập quán thường được hình thành một cách tự phát,
được khẳng định dần qua một quá trình lịch sử nhất định và gắn liền với các
điều kiện địa lý, hoàn cảnh kinh tế - văn hóa - xã hội nơi cộng đồng xã hội tổ
chức hoạt động sống, lao động, sinh hoạt. Chính vì vậy, chuẩn mực phong
tục, tập quán thường ít biến đổi và mang tính cục bộ. J.J Rousseau từng nhận
xét rằng: “Một khi phong tục, tập quán đã bắt rễ sâu, muốn thay đổi nó thì
thật nguy hiểm và vô hiệu; dân chúng không chịu nổi ngay khi người ta
động đến những cái xấu xa của họ để giúp họ tiễu trừ cái xấu ấy”.
Chuẩn mực phong tục, tập quán có sự hiểu biết rất đa dạng và phong phú,
thường được thể hiện ra trong nề nếp, giao tiếp, ứng xử, cách đối nhân xử
thế giữa mọi người trong cách sinh hoạt văn hóa - văn nghệ dân gian, lễ hội
cổ truyền, nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng hoặc trong lao động, sản xuất, sinh
hoạt của cộng đồng xã hội.
Chuẩn mực phong tục, tập quán được coi là các phương tiện xã hội hóa cá
nhân, góp phần giữ gìn và lưu truyền những giá trị văn hóa, lối sống, ngôn
ngữ, những kinh nghiệm quý báu về lao động, sản xuất, sinh hoạt từ thế hệ
này sang thế hệ khác, góp phần củng cố khối đoàn kết bên trong cộng đồng
xã hội.
II. Mối quan hệ giữa chuẩn mực phong tục, tập quán và chuẩn mực
pháp luật
2.1Những vấn đề lý luận chung

5


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
Chuẩn mực phong tục, tập quán và pháp luật có mối quan hệ hữu cơ với
nhau. Do gắn bó chặt chẽ với những thói quen, nếp sống của các cộng đồng
xã hội nên chuẩn mực phong tục, tập quán được coi là các quy tắc xử sự
chung, điều chỉnh các quan hệ xã hội ngay từ khi trong xã hội còn chưa xuất
hiện nhà nước và pháp luật. Nhiều phong tục, tập quán trở thành luật tục, ăn
sâu, bén rễ rất bền chặt trong nhân dân và có sức mạnh hơn cả những đạo
luật. Nhiều thuần phong mĩ tục rất cần thiết cho đạo lý làm người, giữ gìn
trật tự, kỷ cương xã hội. Khi nhà nước xuất hiện, nhà nước đã tìm cách vận
dụng các phong tục, tập quán để phục vụ cho lợi ích của mình, thay đổi nội
dung của chúng cho phù hợp, thừa nhận và nâng cấp chúng thành các quy
phạm pháp luật hoặc coi chúng là tập quán pháp. Như vậy, chuẩn mực phong
tục, tập quán là một nguồn quan trọng để hình thành pháp luật.
Chuẩn mực phong tục, tập quán là sự thể hiện ý chí chung của cộng đồng xã
hội, được các thành viên của nó thừa nhận, tuân thủ và thực hiện một cách tự
nguyện. Nó là một trong những nhân tố tạo nên sự đồng thuận xã hội. Với ý
nghĩa đó, chuẩn mực phong tục, tập quán góp phần quan trọng trong việc
đưa pháp luật vào đời sống cộng đồng xã hội một cách thuận lợi.
Pháp luật cũng có tác động quan trọng đối với chuẩn mực phong tục, tập
quán. Pháp luật có thể góp phần củng cố, khẳng định, phát huy các phong
tục, tập quán; hoặc ngược lại, có thể can thiệp, cưỡng bức để loại bỏ chúng
ra khỏi đời sống cộng đồng. Trong mối liên hệ này, cần lưu ý hai khía cạnh
sau:
Một là, đối với những phong tục, tập quán có giá trị truyền thống, mang tính
nhân văn sâu sắc, đã trở thành thuần phong mỹ tục, có tác dụng tích cực đối
với cộng đồng xã hội thì pháp luật cần thừa nhận, củng cố, giữ gìn và phát
huy vai trò của chùng trong đời sống xã hội; vận dụng chúng vào trong nếp

sống, suy nghĩ, hành vi pháp luật của mỗi người.
6


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
Hai là, đối với những phong tục, tập quán đã lạc hậu, lỗi thời đã trở thành hủ
tục, thậm chí mang màu sắc mê tín dị đoan (đồi phong bài tục), thì bên cạnh
việc tích cực vận động, tuyên truyền để nhân dân nhận thức được và tự giác
loại bỏ; trong những trường hợp cần thiết, nhà nước, chính quyền các cấp
phải dùng tới sức mạnh cưỡng chế của pháp luật nhằm loại trừ chúng ra khỏi
đời sống của cộng đồng, góp phần xây dựng lối sống văn minh, phù hợp với
tiến bộ xã hội.
2.2 Thực tiễn
a, Tác động của chuẩn mực phong tục, tập quán tới chuẩn mực pháp luật
Thứ nhất, chuẩn mực phong tục, tập quán là một nguồn quan trọng để hình
thành pháp luật.
Trước khi có pháp luật, phong tục, tập quán là công cụ chính điều chỉnh các
quan hệ trong xã hội. Khi có pháp luật, một số phong tục, tập quán được nhà
nước thừa nhận và nâng lên thành pháp luật, gọi là tập quán pháp. Điều đó
dẫn đến cùng một quan hệ xã hội, có thể vừa do phong tục, tập quán điều
chỉnh, có thể vừa do pháp luật nhà nước điều chỉnh.
Ví dụ:
Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “Trong trường hợp pháp luật
không quy định và các bên không thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán,(...)
Tập quán (...) không được trái với những nguyên tắc quy định trong bộ luật
này”. Hay tạiĐiều 409 có quy định về việc giải thích hợp đồng dân sự “khi
hợp đồng thiếu một số điều khoản thì có thể bổ sung theo tập quán đối với
loại hợp đồng có tại địa điểm giao kết hợp đồng”.
Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “trong quan hệ hôn
nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân

tộc mà không trái với nguyên tắc quy định của luật này thì được tôn trọng
và phát huy”. Ngoài ra việc áp dụng tập quán trong pháp luật ở nước ta còn
7


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
được thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác như tập quán trong quan hệ hôn nhân,
quyền nuôi con khi vợ chồng ly hôn...
Không chỉ trong quan hệ hôn nhân và gia đình, trong quan hệ dân sự, kinh
doanh - thương mại cũng có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định
việc áp dụng tập quán. Điều 5 Luật Thương mại năm 2005 nêu những trường
hợp áp dụng tập quán thương mại: “1. Trường hợp điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là thành viên có quy định áp
dụng (…) tập quán thương mại quốc tế (…) thì áp dụng quy định của điều
ước quốc tế đó; 2. Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài
được thoả thuận áp dụng (…) tập quán thương mại quốc tế nếu (…) tập quán
thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam". Điều 235 Luật Thương mại năm 2005 khi quy định về quyền,
nghĩa vụ của người kinh doanh dịch vụ logistics khẳng định, khi thực hiện
việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ này phải tuân
thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.
Thứ hai, chuẩn mực phong tục, tập quán góp phần quan trọng trong việc
đưa pháp luật vào đời sống cộng đồng xã hội một cách thuận lợi.
Từ ngàn đời xa xưa, nhiều phong tục tập quán đã in sâu vào tâm thức người
Việt Nam, có nhiều phong tục tập quán được nhà nước, pháp luật thừa nhận
hoặc sửa đổi sao cho phù hợp.
Ví dụ:
Điều 625 Bộ luật Dân sự năm 2005 về việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do súc vật gây ra quy định “trong trường hợp súc vật thả rông theo tập
quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập

quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”, như vậy phong tục,
tập quán trong một số trường hợp mặc dù không được pháp luật hóa nhưng
được pháp luật thừa nhận. Phong tục, tập quán đã thay pháp luật giải quyết
8


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
vụ việc giúp việc điều chỉnh của pháp luật thực thi có hiệu quả cao hơn trong
thực tiễn.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 53 quy định “cái chết của
một trong hai vợ chồng bắt đầu cho thời kì để tang, kết thúc bằng lễ đóng
cửa phần mộ”, điều này đã phản ánh rõ phong tục bỏ mả và giữ mả vốn xuất
phát từ vùng Tây Nguyên. Phong tục này yêu cầu nhân thân của người quá
cố phải thường xuyên chăm sóc, dọn dẹp trong thời kì giữ mả, phải tuyệt đối
chung thủy với người quá cố cho đến khi thời kì giữ mả kết thúc. Phong tục
này thể hiện một cách ứng xử tốt đẹp của những người còn sống với người
đã mất. Nguồn gốc hình thànhdựa trên tinh thần tốt đẹp từ thuần phong mỹ
tục, quy địnhpháp luật đã được đưa vào đời sống cộng đồng xã hội một cách
thuận lợi, hợp lý hợp tình nên dễ dàng đi vào cuộc sống và được mọi người
tự giác thực hiện.
b, Tác động của chuẩn mực pháp luật đối với chuẩn mực phong tục, tập
quán
Thứ nhất,pháp luật có thể góp phần củng cố, khẳng định, phát huy các
phong tục, tập quán tốt đẹp.
Do được nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện nên pháp luật mang tính
quyền lực nhà nước và tác động mạnh đến phong tục, tập quán. Còn phong
tục, tập quán lại có một đời sống thực tế đa dạng,phong phú về cả con đường
hình thành và phương thức tồn tại.Có những phong tục, tập quán phù hợp
với pháp luật,thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc nhưng cũng có những
phong tục tập quán trở thành hủ tục,trái pháp luật.Chính vì vậy nhà nước ghi

nhận,củng cố và bảo vệ phong tục tập quán tốt đẹp dưới nhiều hình thức và
biện pháp khác nhau là hết sức cần thiết.Ở một khía cạnh nào đó nhà nước
thừa nhận các phong tục tập quán và nâng lên thành các quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung là quy phạm pháp luật. Điểu này giúp cho phong tục tập
9


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
quán được tôn trọng,bảo vệ và phát huy tác dụng trong cuộc sống, góp phần
bảo tồn phát huy những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp khi chúng
phù hợp với ý chí nhà nước và được thừa nhận trong pháp luật.
Ví dụ:
Điều 5 Hiến pháp năm 1992 quy định “ Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và phát huy những phong tục
tập quán truyền thống văn hoá tốt đẹp của mình”.
HayĐiều 6 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nêu rõ: “Trong quan hệ
HN&GĐ, những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà
không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật này thì được tôn trọng và
phát huy”. Để củng cố, khẳng định các phong tục, tập quán tốt đẹp, cũng
như phát huy tác dụng quy định của luật trong cuộc sống, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng
Luật Hôn nhân và gia đìnhnăm 2000 đối với các dân tộc thiểu số. Điều 2,
Nghị định này khẳng định “1.Phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và
gia đình của các dân tộc thiểu số (được ghi trong Phụ lục A ban hành kèm
theo Nghị định này) thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với những
nguyên tắc quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì được tôn
trọng và phát huy (...)”.
Những phong tục, tập quán có giá trị truyền thống, mang tính nhân văn sâu
sắc, đã trở thành thuần phong mỹ tục, có tác dụng tích cực đối với cộng
đồng xã hội thì pháp luật thừa nhận, củng cố, giữ gìn và phát huy vai trò của

chùng trong đời sống xã hội; vận dụng chúng vào trong nếp sống, suy nghĩ,
hành vi pháp luật của mỗi người.
Ví dụ: Luật pháp Việt Nam quy định “con cái có quyền và nghĩa vụ chăm
sóc ông bà, cha mẹ” (Khoản 2 Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000). Điều luật này của nhà nước xuất phát từ đạo lý làm người, truyền
10


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
thông “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta và cũng nhờ truyền thông tốt
đẹp đó mà việc thực hiện quyền và nghĩa vụ chăm sóc ông bà, cha mẹ của
mỗi công dân sẽ xuất phát từ tình cảm và phẩm chất đạo đức vốn có từ lâu
đời, kéo theo việc thực hiện pháp luật đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, pháp luật có thể can thiệp, cưỡng bức để loại bỏ phong tục, tập
quán lạc hậu, hủ tục ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội.
Cùng với việc ghi nhận,củng cố,bảo vệ và giữu gìn phong tục tập quán tốt
đẹp,pháp luật giữ vai trò quan trọng trong việc hạn chế loại trừ những phong
tục tập quán lạc hậu,những tập tục mang tính hủ tục không phù hợp với đời
sống cộng đồng và pháp luật.Bằng những qui định cụ thể,pháp luật không
cho phép hay liệt kê những phong tục tập quán bị cấm.Pháp luật tuyên
truyền,vận động các chủ thể trong xã hội không thực hiện các phong tục tập
quán được coi là hủ tục,lạc hậu. Ngay trong điều 30 Hiến pháp 1992 đã xác
định cần phải “bài trừ mê tín,hủ tục”.
Ví dụ:
Tư tưởng trọng nam khinh nữ thời phong kiến đã ăn sâu, bén rễ vào suy
nghĩ tiềm thức của người Việt. Mặc dù đã được khắc phục rất nhiều từ khi
đất nước giành độc lập nhưng cho đến nay vẫn còn tồn tại, tác động trực tiếp
đến việc thực hiện bình đẳng giới nói riêng và việc thực hiện pháp luật nói
chung. Phần lớn phụ nữ nước ta đảm nhận hầu hết các công việc trong gia
đình như quét dọn, nấu ăn, chăm con... Do đó việc đóng góp của họ trong

kinh tế gia đình không nhiều dẫn đến người phụ nữ hầu như dần phụ thuộc
vào người chồng.
Hay phong tục của hoàng thất thời xưa và xuất hiện trong một số dân tộc ít
người thời nay, đó là kết hôn giữa những người có cùng trực hệ, những
người có liên quan dòng họ với nhau. Phong tục này là hủ tục lạc hậu, có
ảnh hưởng xấu tới giống nòi về sau,vì theo khoa học chứng minh đứa trẻ
11


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
sinh ra có bố mẹ cùng chung huyết thống hoặc cận huyết thống trong
phạmsẽ dị dạng hoặc mang bệnh tật di truyền như mù màu (không phân biệt
được màu đỏ và màu xanh), bạch tạng, da vảy cá... Cụ thể, phong tục tập
quán kết hôn cận huyết thống của một số dân tộc ít người đã dẫn đến bệnh
tật, tỷ lệ tử vong cao, chất lượng giống nòi suy thoái: Người Si La đang có
xu hướng nhỏ dần, cân nặng tối đa chỉ từ 40-45kg, chiều cao chỉ khoảng
1,45-1,60m. Người Brâu, Rơ Măm có nhiều dị tật bẩm sinh, lắm bệnh tật,
tình trạng sức khỏe kém, tỷ lệ chết cao. Theo thống kê, dân tộc Si La ở Lai
Châu năm 1996 có 400 người, đến năm 2004 chỉ có 451 người, như vậy
trong 8 năm chỉ tăng được 51 người. Dân tộc Brâu từ năm 1999 có 352
người đến 2003 giảm chỉ còn 330 người... Như vậy, kết hôn cận huyết thống
không duy trì và phát triển dân tộc mà gây suy thoái nòi giống, giảm số
người của dân tộc do tỷ lệ chết cao hơn. Để loại trừ “đồi phong bài tục” này,
pháp luật về Hôn nhân và gia đình quy định “cấm kết hôn giữa những người
cùng dòng họ trong phạm vi ba đời” (Khoản 3 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000).
Ngoài ra, Nghị định số 32/2002/NĐCP ngày 27/3/2002 quy định về việc áp
dụng luật Hôn nhân gia đình đối với các dân tộc thiểu số cũng đã liệt kê
những phong tục tập quán lạc hậu cần được xóa bỏ hoặc bị nghiêm cấm, như
chế độ hôn nhân đa thê hay tục cướp vợ để cưỡng ép người phụ nữ làm vợ,

tảo hôn…
Những liên hệ trên đây để có được cái nhìn khách quan nhất trong mối quan
hệ giữa chuẩn mực phong tục, tập quán và pháp luật, có những phong tục tập
quán phù hợp với ý chí của nhà nước và của xã hội đã được nâng lên thành
những điều luật, nhưng cũng có những phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ
hạn chế pháp luật cần phải loại bỏ.

12


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ở nước ta hiện nay, pháp
luật giữ vị trí quan trọng nhất, song nó cũng không phải là công cụ duy nhất
để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Cùng với pháp luật còn có rất nhiều công
cụ điều chỉnh khác, trong đó phải kể đến những phong tục, tập quán. Một hệ
thống pháp luật dù hoàn chỉnh đến đâu cũng không thể đạt hiệu quả cao nhất
nếu không biến thành tình cảm, thói quen và niềm tin của đại bộ phận nhân
dân. Vì vậy, muốn nhà nước vừa mang tính nhân dân và tính dân tộc cần biết
kết hợp với phong tục, tập quán; biết chắt lọc tính ưu việt của nó đề cùng
pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Phong tục tập quán với nội
dung, bản chất, chức năng của nó chứa đựng những tri thức dân gian, giá trị
truyền thống sẽ giúp nâng cao được đời sống pháp lí, trình độ pháp lí, góp
phần ngăn chặn những hủ tục, lạc hậu, giữ gìn trật tự xã hội, ngăn chặn văn
hóa ngoại lai xâm nhập, bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Trên đây là bài tập của em, do thời gian có hạn và vốn kiến thức còn hạn
chế nên không tránh khỏi những thiếu xót, mong thầy cô thông cảm!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật

1. Hiến pháp năm 1992
13


XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
2. Bộ luật Dân sự năm 2005
3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
4. Luật Thương mại năm 2005
5. Nghị định số 32/2002/NĐCP ngày 27/3/2002 quy định về việc áp dụng
luật Hôn nhân gia đình đối với các dân tộc thiểu số
II. Sách, giáo trình
1. TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nhà xuất bản Hồng Đức, năng
2013.
III. Website
1.
2.

14



×