Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Một số nội dung lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.03 KB, 34 trang )

Một số nội dung lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
I - Kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1. Kinh doanh của doanh nghiệp
1.1 Khái niệm về kinh doanh
Thuật ngữ kinh doanh có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau, nhưng
nói chung có thể định nghĩa như sau: Kinh doanh là các hoạt động kinh tế nhằm
mục tiêu sinh lợi của các chủ thể kinh doanh.
Từ định nghĩa trên có thể thấy hoạt động kinh doanh có các đặc điểm chủ
yếu như sau:
Hoạt động kinh doanh phải được thực hiện bởi một chủ thể nhất định gọi
là chủ thể kinh doanh. Chủ thể kinh doanh có thể là cá nhân, hộ gia đình hay
một tổ chức.
Hoạt động kinh doanh phải diễn ra trên thị trường.Thị trường và kinh
doanh luôn đi đôi với nhau. Không có thị trường thì sẽ không có hoạt động kinh
doanh.
Kinh doanh còn gắn với sự vận động của nguồn vốn nhằm mang lại các
lợi ích kinh tế cho chủ thể kinh doanh. Như vậy chủ thể kinh doanh không chỉ là
người có vốn mà còn phải biết cách làm cho đồng vốn đó vận động không
ngừng và ngày càng tăng lên.
Ngoài ra còn cách hiểu khác về kinh doanh như sau: “ Kinh doanh là việc
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi”.
Theo định nghĩa này, một hành vi được coi là kinh doanh nếu nó đáp ứng
được các yêu cầu sau:
Hành vi đó phải mang tính chất nghề nghiệp nghĩa là chủ thể kinh doanh
khi thực hiện một hành vi kinh doanh là họ đã thực hiện nguyên tắc phân công
lao động xã hội. Họ sống bằng hành vi đó, được pháp luật thừa nhận và bảo hộ.
Hoạt động kinh doanh phải diễn ra trên thị trường, theo quan điểm
marketing thì “ thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có
một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi


để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó”.
Mục đích của hoạt động kinh doanh là kiếm lời, dấu hiệu này cho thấy
hành vi kinh doanh chứa đựng khả năng và yêu cầu cần được thanh toán mà
người kinh doanh luôn theo đuổi mục đích tìm kiếm lợi nhuận trong hoạt động
của mình. Đây là dấu hiệu quan trọng để phân biệt hành vi kinh doanh với các
hoạt động khác như hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động từ thiện xã hội…
1.2 Vai trò của hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp
Kinh doanh là hoạt động cốt yếu của doanh nghiệp. Trong điều kiện sản
xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường thì để tồn tại và phát triển đòi hỏi các
doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Để có kết quả cao nhất trong sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định phương hướng đầu tư, biện pháp sử
dụng các điều kiện sẵn có về các nguồn nhân tài và vật lực. Muốn vậy các
doanh nghiệp cần nắm được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác
động của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp muốn tồn tại trên thị trường thì phải dựa vào hoạt động
kinh doanh của mình và hơn thế nữa hoạt động kinh doanh đó phải có lãi. Hoạt
động kinh doanh có vai trò to lớn với không chỉ doanh nghiệp mà cả người lao
động và nhà nước. Khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và có thể tồn tại trên thị
trường thì trước tiên là bản thân doanh nghiệp sẽ có thể tồn tại trên thị trường.
Ngoài ra còn mang lại nguồn lợi cho các chủ sở hữu doanh nghiệp, người lao
động có việc làm và có thu nhập, nhà nước cũng sẽ thu được các khoản thuế từ
hoạt động của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp góp phần tạo đà cho
nền kinh tế phát triển hơn.
Do vậy hoạt động kinh doanh là nội dung cốt yếu đối với doanh nghiệp
và ngoài ra cũng tạo ra hiệu ứng tích cực với nền kinh tế.
2. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
2.1 Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
2.1.1 Khái niệm
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các
mục tiêu hoạt động mà chủ thể đưa ra và chi phí mà chủ thể phải bỏ ra để có kết

quả đó trong điều kiện nhất định.
Từ đó ta có công thức hiệu quả chung là:
Công thức hiệu quả tuyệt đối: E = K – C
Công thức hiệu quả tương đối: E = K / C
Trong đó: K là kết quả nhận được và được đo bằng các đơn vị khác nhau
C là chi phí bỏ ra và được đo bằng các đơn vị khác nhau
E là hiệu quả
Kết quả (K) mà chủ thể nhận được trong quá trình hoạt động của mình
càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. Vì vậy hiệu
quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương án hành
động có lợi nhất.
Hiệu quả tài chính, còn gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả
doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả
tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được
với chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế đó. Hiệu quả
tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
2.1.2 Các nguyên tắc xác định hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh được xác định dựa theo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc 1: Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu với tiêu chuẩn hiệu
quả.
Theo nguyên tắc này thì tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở các
mục tiêu. Với những mục tiêu đặt ra khác nhau thì hiệu quả sẽ khác nhau, khi
mục tiêu thay đổi thì tiêu chuẩn hiệu quả cũng thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả
được xem như là thước đo để thực hiện các mục tiêu.
+ Nguyên tắc 2: Nguyên tắc về sự thống nhất của lợi ích.
Một phương án được xem như là có hiệu quả khi nó kết hợp được trong
đó các loại lợi ích. Bao gồm trong đó là lợi ích của chủ doanh nghiệp, lợi ích
của xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi ích tinh
thần, lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
+ Nguyên tắc 3: Nguyên tắc về tính chính xác và tính khoa học.

Để đánh giá hiệu quả của các phương án thì cần phải dựa trên một hệ
thống các chỉ tiêu có thể lượng hoá đuợc và không lượng hoá được. Tức là phải
kết hợp được phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Khi mà
phân tích định lượng chưa đủ bảo đảm tính chính xác và chưa cho phép phản
ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm thì ta không thể
thay thế phân tích định lượng bằng phân tích định tính được.
+ Nguyên tắc 4: Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế.
Theo như nguyên tắc này thì phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả
kinh tế phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin đơn giản, thực tế và dễ
hiểu. Không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi ta chưa có được
đầy đủ các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo được độ
chính xác.
2.2 Vai trò của hiệu quả kinh doanh
2.2.1 Hiệu qủa hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu và công cụ của
quản trị doanh nghiệp
Để bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào được tiến hành thì con
người cần phải kết hợp yếu tố con người và yếu tố vật chất nhằm thực hiện công
việc phù hợp với ý đồ trong chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh của
mình trên cơ sở những nguồn lực sẵn có. Để thực hiện được điều này thì bộ
phận quản trị doanh nghiệp sử dụng rất nhiều công cụ trong đó có công cụ hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu quan trọng
trong đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá những điều mà doanh
nghiệp đạt được sau khi bỏ ra một khoản chi phí để thực hiện các hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, hiệu quả kinh doanh cao luôn là mục tiêu
hướng tới của các doanh nghiệp hiện nay. Việc xem xét và tính toán hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ cho biết việc sản xuất đạt được ở trình
độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả đạt được. Điều đó giúp cho các nhà quản trị tìm ra các nhân tố để đưa ra các
biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh
doanh nhằm nâng cao hiệu quả.

Về bản chất, hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực đầu vào. Do đó, xét trên phương diện lý luận và thực tiễn thì hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá,
so sánh và phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu nhất để đạt được
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Với vai trò là phương tiện đánh giá và phân tích
hiệu quả kinh tế, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ được sử
dụng ở mức độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng các nguồn lực đầu
vào ở toàn bộ doanh nghiệp mà còn đánh giá được trình độ sử dụng từng yếu tố
đầu vào ở phạm vi toàn doanh nghiệp cũng như đánh giá được từng bộ phận của
doanh nghiệp.
2.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Các nguồn tài nguyên trên trái đất đều là hữu hạn và ngày càng cạn kiệt,
khan hiếm so hoạt động khai thác và sử dụng hầu như không có kế hoạch của
con người. Trong khi đó, mật độ dân số của từng vùng, từng quốc gia ngày càng
tăng và nhu cầu sử dụng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cũng ngày càng nhiều,
càng đa dạng và đòi hỏi chất lượng càng cao. Sự khan hiếm đó đòi hỏi con
người phải có sự lựa chọn kinh tế nhất. Trước đây khi trình độ phát triển còn
thấp, con người đã lựa chọn sự phát triển kinh tế theo chiều rộng, tức là tăng
trưởng kết quả sản xuất trên cơ sở gia tăng các yếu tố sản xuất. Tuy nhiên trong
điều kiện hiện nay, khi đời sống con người được nâng cao về chất lượng, cùng
với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng có nhiều phương pháp khác
nhau để tạo ra sản phẩm dịch vụ, cho phép cùng những nguồn lực đầu vào nhất
định, người ta có thể tạo ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Đó là sự phát
triển theo chiều dọc nhường chỗ cho sự phát triển theo chiều sâu, sự tăng trưởng
kết quả kinh tế của sản xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố sản xuất về
mặt chất lượng, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới, hoàn thiện
công tác quản trị và cơ cấu kinh tế. Nói một cách khái quát đó là nhờ vào việc
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường việc giải quyết ba vấn đề kinh tế: sản xuất cái gì,
sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào được quyết định theo quan hệ cung cầu,

giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác. Doanh nghiệp phải tự mình đưa ra
chiến lược kinh doanh và chịu trách nhiệm với kết quả kinh doanh của mình, lúc
này mục tiêu lợi nhuận trở thành mục tiêu quan trọng mang tính chất quyết
định. Trong điều kiện các nguồn lực khan hiếm thì việc nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh là yếu tố tất yếu đối với mọi doanh nghiệp. Mặt khác,
doanh nghiệp còn luôn phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, nên để
tồn tại và phát triển được, phương châm của các doanh nghiệp luôn phải là
không ngừng nâng cao chất lượng và năng suất lao động, dẫn đến việc tăng
năng suất là tất yếu.
2.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
2.3.1 Thu nhập trên tài sản
Chỉ tiêu thu nhập trên tài sản được tính như sau:
Thu nhập trên tài sản Lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính (EBIT)
(ROA) Tổng giá trị tài sản bình quân
Trong đó: Lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính(EBIT) lấy số liệu từ
báo cáo kết quả kinh doanh được xác định bằng lợi nhuận kế toán trước thuế
cộng với chi phí tài chính.
Tổng giá trị tài sản bình quân Tổng TS đầu kỳ + Tổng TS cuối kỳ
2
Tổng giá trị tài sản được lấy số liệu từ bảng cân đối kế toán.
Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đồng tài sản tham gia vào quá trình
hoạt động của doanh nghiệp thì sẽ tạo ra bao nhiêu lợi nhuận trước thuế và chi
phí tài chính. Chỉ tiêu thu nhập trên tài sản cho phép đánh giá thực trạng hoạt
động của doanh nghiệp từ số liệu của báo cáo tài chính.
Thu nhập trên tài sản là chỉ tiêu quan trọng cho biết vấn đề nằm ở đâu
thông qua nghiên cứu hai nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập trên tài sản là lợi
nhuận trước thuế và chi phí tài chính (EBIT) và tổng giá trị tài sản bình quân.
Hai nhân tố này có quan hệ thương số nên có thể sử dụng phương pháp xác định
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến thu nhập trên tài sản, ta cũng có thể sử
dụng kỹ thuật phân tích độ nhạy để kiểm tra sự thay đổi của ROA khi một trong

hai hoặc cả hai cùng biến động.
Có thể triển khai công thức thu nhập trên tài sản như sau:
Thu nhập trên EBIT EBIT Doanh thu thuần
TS Tổng TS bình quân Doanh thu thuần Tổng TS bình quân
Mà Lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính (EBIT)
Doanh thu thuần
Thể hiện mức lợi nhuận trên doanh số bán ra khi tiến hành kinh doanh,
thường được gọi là tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tính bằng %.
Doanh thu thuần
Tổng giá trị TS bình quân
thể hiện mức doanh thu được tạo ra trên tổng tài sản của doanh nghiệp. Nó
còn cho biết vòng quay của tài sản mà doanh nghiệp sử dụng bình quân.
Từ việc triển khai chỉ tiêu thu nhập trên tài sản cho thấy thu nhập trên tài
sản phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận tính trên doanh thu và vòng quay của tài
sản. Để tăng tỷ suất lợi nhuận trên tài sản thì về mặt lý thuyết có thể tác động
làm tăng một trong hai hoặc cả hai là tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và vòng
quay tài sản. Nếu như tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu nhỏ thì có thể gia tăng
vòng quay tài sản và ngược lại. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường có sự cạnh
tranh thì việc gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu không phải là điều dễ
thực hiện.
Trường hợp cả tỷ suất lợi nhuận lẫn vòng quay tài sản đều thấp thì điều
đó có nghĩa doanh nghiệp đang có vấn đề cần xử lý. Từ đó cần có những biện
pháp phù hợp để giúp doanh nghiệp có thể tăng trưởng ở các thời kỳ sau đó.
2.3.2 Thu nhập trên vốn chủ (ROE)
Chỉ tiêu thu nhập trên vốn chủ được tính theo công thức sau:
Thu nhập trên vốn chủ Lợi nhuận sau thuế (LN
st
)
(ROE) Vốn chủ sở hữu bình quân (VC)
Trong đó: Lợi nhuận sau thuế lấy số liệu từ báo cáo kết quả kinh doanh chỉ

tiêu lợi nhuận sau thuế.
Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu đầu kỳ + Vốn chủ sở hữu cuối kỳ
bình quân 2
Vốn chủ sở hữu đầu kỳ và cuối kỳ được lấy số liệu từ bảng cân đối kế toán.
Chỉ tiêu thu nhập trên vốn chủ phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu
của doanh nghiệp, nó cho biết bình quân một đồng vốn chủ sở hữu bỏ vào kinh
doanh bình quân trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Phân tích chỉ tiêu vốn chủ có thể triển khai công thức trên trong mối quan
hệ với tỷ suất lợi nhuận sau thuế, vòng quay tài sản và cấu trúc tài chính. Cách
triển khai được công thức như sau:
ROE LN
st
LN
st
DT TS
VC DT TS VC
(1) (2) (3)
Trong công thức trên:
(1) : Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần
(2) : Hệ số quay vòng tài sản
(3) : Hệ số tài sản
Từ phương trình trên cho thấy công thức (1) thể hiện đòn bẩy tài chính phản
ánh chính sách tài chính, các hệ số còn lại phản ánh tình hình hoạt động của
doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn chủ phụ thuộc vào ba nhân tố trên, nếu một hoặc
ba hệ số trên thay đổi thì hiệu quả sử dụng vốn cũng sẽ thay đổi theo. Điều đó
cho thấy rằng muốn có hiệu quả sử dụng vốn cao thì tốt nhất là tác động vào (1)
và (2) tức là cải thiện tình hình hoạt động, nếu không thì phải chuẩn bị phương
án thay đổi chính sách tài chính.
2.3.3 Hiệu quả sử dụng vốn

Hiệu quả sử dụng vốn được tính toán chủ yếu qua hệ số doanh lợi của
vốn kinh doanh, công thức tính như sau:
HSDLVKD = ∏ / V
Trong đó: HSDLVKD : hệ số doanh lợi vốn kinh doanh
∏ : lợi nhuận
V : vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết khi bỏ ra một đồng vốn kinh doanh thì sẽ mang lại
bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này so với các doanh nghiệp khác hoặc so
với các kỳ khác càng cao càng chứng tỏ khả năng sinh lợi của doanh nghiệp
ngày càng cao, hiệu quả kinh doanh càng lớn và ngược lại.
- Ngoài ra còn có công thức tính hệ số doanh lợi của doanh thu thuần như sau:
HSDLDTT = ∏ / DTT
Trong đó: HSDLDTT : hệ số doanh lợi doanh thu thuần
∏ : lợi nhuận của doanh nghiệp
DTT : doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu thuần sẽ mang lại mấy đồng lợi
nhuận. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ khả năng sinh lợi của vốn
càng cao, hiệu quả kinh doanh càng lớn và ngược lại.
2.3.4 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định hay tài sản cố định
Giá trị bình quân của tài sản cố định trong kỳ là tổng giá trị còn lại của tài
sản cố định và được tính theo nguyên giá của tài sản cố định sau khi trừ đi phần
hao mòn luỹ tiến đến kỳ tính toán. Để phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định
thì sử dụng hai công thức tính toán sau:
- Tính sức sản xuất của tài sản cố định:
SSXTSCĐ = DT / nguyên giá TSCĐ
Trong đó : SSXTSCĐ : sức sản xuất tài sản cố định
DT : doanh thu
Chỉ tiêu này cho ta biết cứ một đồng giá trị tài sản cố định trong kỳ tạo ra
được bao nhiêu đồng doanh thu. Sức sản xuất của tài sản cố định càng lớn thì
càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định càng tăng và ngược lại.

- Tính sức sinh lợi của tài sản cố định:
SSLTSCĐ = LNST / nguyên giá bình quân TSCĐ
Trong đó: SSLTSCĐ : sức sinh lợi tài sản cố định
LNST : lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này cho biết đơn vị nguyên giá bình quân của tài sản cố định
đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ
hiệu quả sử dụng tài sản cố định càng cao và ngược lại. Khi nghiên cứu hiệu
quả sử dụng vốn cố định có thể thấy các nguyên nhân của việc sử dụng vốn cố
định không có hiệu quả thường là đầu tư tài sản cố định quá mức cần thiết, tài
sản cố định không sử dụng chiếm tỷ trọng lớn và sử dụng tài sản cố định với
công suất thấp hơn mức cho phép.
2.3.5 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Chỉ tiêu này được phản ánh qua hai chỉ tiêu:
- Sức sản xuất của tài sản tài sản lưu động:
SSXTSLĐ = tổng giá trị sản xuất / tài sản lưu động bình quân
Trong đó: SSXTSLĐ : sức sản xuất tài sản lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị tài sản lưu động bình quân sẽ đem lại mấy
đơn vị tổng giá trị sản xuất. Sức sản xuất của tài sản lưu động càng lớn thì hiệu
quả sử dụng tài sản lưu động càng cao và ngược lại.
- Sức sinh lợi của tài sản lưu động:
SSLTSLĐ = LNST / tài sản lưu động bình quân
Trong đó: LNST : lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị tài sản lưu động bình quân đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng chứng tỏ khả năng
sử dụng tài sản lưu động càng cao và ngược lại.
II – Các nhân tố quản lý ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp
1. Các nhân tố quản lý theo quá trình
Chiến lược và sách lược kinh doanh
Lập chiến lược kinh doanh

Lập chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình quản trị
nhằm tạo ra và duy trì sự ăn khớp về chiến lược giữa các mục tiêu, khả năng của
doanh nghiệp với các cơ hội marketing đầy biến động.
Quá trình lập chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các nội
dung sau:
+ Xác định cương lĩnh của doanh nghiệp: Cương lĩnh của doanh nghiệp là
phương châm hành động mà doanh nghiệp luôn theo đuổi. Cương lĩnh định
hướng hoạt động và mục tiêu của doanh nghiệp.
+ Đề ra nhiệm vụ của doanh nghiệp: Cương lĩnh của doanh nghiệp cần được cụ
thể hoá thành các nhiệm vụ rõ ràng.
+ Kế hoạch phát triển các lĩnh vực kinh doanh: Để lập chiến lược kinh doanh
chung của doanh nghiệp thì cần phải đánh giá hoạt động của từng bộ phận, nhãn
hiệu, chủng loại hàng hoá…Sau đó cần đánh giá nhằm phát hiện khả năng sinh
lời của từng bộ phận, từng chủng loại hàng hoá, từng nhãn hiệu và từng mặt
hàng…Từ đó sẽ có kế hoạch phát triển hay thu hẹp bộ phận, hàng hoá nào đó để
phân bổ nguồn lực cho hợp lý.
Để có được sự đánh giá chính xác cần dựa vào các chỉ tiêu xem xét sau:
+ Qui mô, sự tăng trưởng của thị trường
+ Khả năng cạnh tranh về giá cả và sản lượng của doanh nghiệp
+ Chiến lược phát triển của doanh nghiệp
+ Mức độ am hiểu thị trường
+ Mức lợi nhuận thu được từ thị phần đó
Từ những sự xem xét đánh giá trên thì doanh nghiệp có thể phát triển
theo ba hướng như sau:
+ Chiến lược phát triển hợp nhất
+ Chiến lược phát triển theo chiều sâu
+ Chiến lược phát triển theo chiều rộng
Quản lý chiến lược
Quản lý chiến lược được hiểu là quá trình nghiên cứu các môi trường hiện
tại cũng như tương lai, hoạch định các mục tiêu của tổ chức. Đề ra, thực hiện và

kiểm tra việc thực hiện các quyết định nhằm đạt được các mục tiêu đó trong môi
trường hiện tại cũng như tương lai.
Hay quản lý chiến lược còn được hiểu là một quá trình quản lý bao gồm
lập kế hoạch chiến lược và thực thi chiến lược đó.
Vậy quản lý chiến lược có thể phân thành hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Lập kế hoạch chiến lược gồm việc xác định mục tiêu và hình thành
chiến lược.
Giai đoạn 2: Thực hiện chiến lược gồm việc quản lý hành chính và kiểm tra
chiến lược.
Việc xác định mục tiêu nhằm mục đích chính là chuyển hoá sứ mệnh và
định hướng của tổ chức thành cái cụ thể để đo lường kết quả hoạt động của tổ
chức trong ngắn hạn và dài hạn. Ngoài ra để xác định được mục tiêu còn cần căn
cứ vào các nguồn lực hiện tại và nguồn lực tương lai có thể huy động được. Việc
xác định mục tiêu được đặt ra cho tất cả các nhà quản lý và các bộ phận của tổ
chức.
Mục tiêu chính và mục tiêu chiến lược là hai mục tiêu quan trọng hàng
đầu với tổ chức. Mục tiêu tài chính quan trọng vì kết quả của hoạt động tài chính
khả quan là điều cốt yếu đối với sự sống còn của tổ chức. Mục tiêu của chiến
lược là rất cần thiết vì nó chỉ ra định hướng phát triển nhằm giúp cho tổ chức
khẳng định được vị trí của mình trong môi trường hoạt động.
Chiến lược hình thành chính là công cụ quản lý để có thể thực hiện các
mục tiêu chiến lược nhiệm vụ, hình thành chiến lược được bắt đầu với việc phân
tích thực trạng bên trong và bên ngoài tổ chức.
Việc thực hiện chiến lược liên quan trước tiên tới công tác quản lý hành
chính, công tác này bao gồm các công việc như sau:
+ Xây dựng một tổ chức có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện thành công
chiến lược.
+ Xây dựng ngân sách để phân chia các nguồn lực cho mọi hoạt động của tổ
chức.
+ Động viên, khuyến khích con người trong tổ chức nhằm thu hút họ hăng hái

theo đuổi các mục tiêu đề ra của tổ chức.
+ Ban hành một số chính sách và thủ tục nhằm hỗ trợ chiến lược.
+ Mục đích của quản lý hành chính là cố gắng tạo ra sự gắn kết giữa cách thức
sử dụng với phong cách làm việc để tạo hiệu quả cao.
+ Kiểm tra chiến lược nhằm theo dõi và đánh giá hướng đi hiện tại của tổ chức,
những biến động của môi trường và ảnh hưởng của biến động đó đối với tổ chức.
Như vậy quản lý chiến lược là một quá trình liên tục. Sự biến đổi của
những yếu tố bên trong và bên ngoài của tổ chức là động lực cho những điều
chỉnh chiến lược.
Tổ chức quản lý kinh doanh
Việc tổ chức quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp được thể hiện là cơ
cấu tổ chức của doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức là tập hợp các vị trí công tác, các
bộ phận, phân hệ của tổ chức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo những tính
quy luật nhất định nhằm thực hiện các hoạt động của tổ chức để đạt được các
mục tiêu và mục đích của tổ chức.
Cơ cấu tổ chức có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp lựa chọn được một cơ cấu tổ chức phù hợp

×