Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.29 KB, 39 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM
1.1. Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1. Hoạt động cơ bản của NHTM
Sự phát triển của hệ thống các ngân hàng thương mại nói chung
và hệ thống tài chính nói chung gắn liền với lịch sử phát triển của nền
kinh tế sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện đòi
hỏi sự phát triển của ngân hàng và đến lượt sự phát triển của ngân hàng
trở thành động lực phát triển kinh tế. Với hình thức ngân hàng đầu tiên
- ngân hàng của các thợ vàng, hoặc ngân hàng của những người cho
vay nặng lãi - thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ yếu là người giàu
nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Cùng với sự phát triển của công
nghệ hoạt động của ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh. Nó là
một loại hình tổ chức quan trọng trong nền kinh tế. Cái tên NHTM là
để nói lên đây là ngân hàng của các nhà kinh doanh thương mại vì nó
vốn dĩ được hình thành trên cơ sở là các nhà kinh doanh trên lĩnh vực
thương mại và quay trở lại phục vụ các nhà kinh doanh thương mại.
Ngân hàng thương mại thực chất là một tổ chức kinh tế kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ, những người làm nghề này còn gọi là
những nhà buôn tiền,. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung là thường xuyên nhận tiền
gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán.
Hiện nay hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng thương mại
nói riêng phát triển như vũ bão mô hình ngân hàng đa năng theo hướng
hiện đại hoá với đa dạng hoá các loại hình dịch vụ và các tiện ích góp
phần tăng lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Song các hoạt
động cơ bản của ngân hàng vẫn xoay quanh ba hoạt động chính là huy
động vốn, cho vay và cung cấp dịch vụ.
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM nó đóng
một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân


hàng. Nguồn tài nguyên quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn
vốn của NHTM phải kể đến là tiền gửi của khách hàng gồm có tiền gửi
thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra ngân hàng còn huy động vốn
bằng hình thức vay NHNN vay các tổ chức tín dụng khác hay vay trên
thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, trái phiếu, tín
phiếu) ra công chúng. Ngoài ra còn có các nguồn trong thanh toán,
nguồn uỷ thác và các nguồn khác.
Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của khách tạo nên lợi nhuận
lớn nên các NHTM đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay
bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Các ngân hàng luôn tìm kiếm
những khách hàng trả lãi suất cao và không dễ vỡ nợ. Bằng cách cung
cấp nhiều tiện ích khác nhau ngân hàng huy động ngày càng nhiều tiền
gửi là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay. NHTM từ
chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài
hạn , cho vay đầu tư vào bất động sản. Nhiều ngân hàng còn mở rộng
cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê...
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế ngân hàng cũng cung cấp
thêm các danh mục dịch vụ ngân hàng với nhiều tiện ích thoã mãn nhu
cầu đa dạng của khách hàng. Như dịch vụ tư vấn uỷ thác, dịch vụ môi
giới chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý, dịch vụ bảo lãnh,
tài trợ thương mại...
Trên đây là một vài nét về các hoạt động cơ bản của NHTM song
với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ ngân hàng đã và đang góp
phần làm thay đổi dần các hoạt động này. Thanh toán điện tử đang thay
thế đần thanh toán thủ công, đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện, an toàn
trong thanh toán. Các loại thẻ phát triển không ngừng thay thế dần tiền
giấy, dịch vụ ngân hàng tại nhà đang tạo ra rất nhiều tiện ích cho cộng
đồng.
1.1.2. Hoạt động cho vay của NHTM
Hình thức ngân hàng dựa trên số tiền huy động từ khách hàng

đưa tiền cho vay với cam kết khách hàng sẽ trả gốc và lãi trong thời
gian xác định. Cho vay là hoạt động rất quan trọng tạo nên lợi nhuận
lớn cho ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản và là hoạt
động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro ảnh hưởng đến thu nhập, hiệu quả kinh
doanh và uy tín của ngân hàng.
Có rất nhiểu tiêu thức để phân loại hoạt động cho vay.
Phân loại theo hình thức cấp tín dụng có thể phân loại thành cho
vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay
luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp...
Căn cứ vào thời gian có thể phân thành
- Cho vay ngắn hạn: khoản vay có thời hạn dưới 1 năm
- Cho vay trung hạn: khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
- Cho vay dài hạn: Khoản vay có thời hạn từ 5 năm trở lên
Căn cứ vào mục đích cho vay có thể phân thành cho vay thương
mại, cho vay tiêu dùng, cho vay theo dự án.
Các khoản cho vay trung và dài hạn chủ yếu để mua sắm thiết bị,
xây dựng cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ...với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học và công nghệ, để tồn tại và phát triển nhu cầu vốn
trung và dài hạn ngày càng gia tăng. Các hoạt động đầu tư này thực
hiện thông qua các dự án. Hoạt động đầu tư và dự án có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Đầu tư theo dự án đang trở thành xu hướng phổ biến
trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy có thể nói dự án có một vai trò rất
quan trọng. Dự án là nguồn gốc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật nguồn
lực mới cho sự phát triển, là phương tiện chuyển dịch và phát triển cơ
cấu kinh tế, giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn, về sản phẩm dịch
vụ trên thị trường, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, cải thiện bộ
mặt kinh tế xã hội quốc gia.
1.1.3. Hoạt động cho vay theo dự án của NHTM
Cho vay theo dự án là một xu thế tất yếu hiện nay mà các NHTM
không thể bõ lỡ cơ hội đầu tư hiệu quả này.

Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định
nhằm thực hiện dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong
những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể
hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án.
Phân tích dự án là cơ sở để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và
xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
Đặc điểm của cho vay theo dự án là vốn vay thường tài trợ cho
dựa án lớn, thời hạn vay thường trung và dài hạn, lãi suất thường cao,
khả năng tiềm ẩn rủi ro là rất lớn, việc quản lý tiền vay rất phức tạp.
Việc ra quyết định cho vay phụ thuộc rất nhiều yếu tố đòi hỏi
ngân hàng phải xem xét phân tích thật kỹ lưỡng. Trong đó công tác
thẩm định tài chính dự án là rất quan trọng mục tiêu quan tâm đầu tiên
của ngân hàng khi ra quyết định. Một dự án muốn hiệu quả hay không
phải cho ta biết được hiệu quả tài chính của nó dựa trên các phương
pháp để đánh giá như phân tích qua NPV, thời gian hoàn vốn, tỷ suất
thu nhập bình quân...Hoạt động cho vay theo dự án có hiệu quả hay
không là phụ thuộc vào chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự
án (TĐTCDA).
1.2 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của
NHTM
1.2.1. Khái niệm chung về dự án
Đầu tư là hoạt động quan trọng của bất kỳ tổ chức nào trong nền
kinh tế. Đó là hoạt động bỏ vốn với hy vọng đạt được lợi ích tài chính,
kinh tế xã hội trong tương lai. Ngày nay nhằm tối đa hoá hiệu quả đầu
tư, các hoạt động đầu tư đều được thực hiện theo dự án.
Trong Quy chế đầu tư và xây dựng theo Nghị định 52/1999/NĐ-
CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 của Chính phủ nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: Dự án là một tập hợp những đề xuất có liên quan
đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất
nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì cải

tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời
gian xác định.
Với các quan điểm khác nhau có thể có rất nhiều khái niệm khác
nhau về dự án. Song một cách tổng quát nhất dự án được hiểu là một
tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau
nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đặt ra với nguồn lực và thời
gian xác định.
Dự án có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà
quản lý và tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển kinh tế, xã hội.
Đặc điểm của dự án là :
- Dự án không chỉ là một ý tưởng hay phác thảo mà còn hàm ý
hành động với mục tiêu cụ thể.
- Dự án không chỉ là một nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng
mà phải nhằm đáp ứng một nhu cầu cụ thể đã được đặt ra tạo nên một
thực tế mới.
- Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn. Môi
trường triển khai dự án thường xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố
bất định nên rủi ro trong dự án thường là rất lớn.
- Dự án bị khống chế thời hạn. Là một tập hợp các hoạt động đặc
thù phải có thời hạn kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ
làm mất cơ hội phát triển, kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu
tư và cho nền kinh tế.
- Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực về vốn vật tư và lao
động. Với những dự án càng lớn mức độ ràng buộc càng cao.
1.2.2. Phân loại dự án
Trên thực tế, các dự án rất đa dạng về cấp độ loại hình, quy mô
và thời hạn và được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
- Theo người khởi xướng: Dự án được phân loại thành dự án cá
nhân; dự án tập thể; dự án quốc gia; dự án quốc tế.
- Theo lĩnh vực dự án: Dự án được phân thành dự án xã hội; dự

án kinh tế, dự án tổ chức, dự án kỹ thuật và dự án hỗn hợp.
- Theo loại hình dự án: Dự án được phân thành dự án Giáo dục
đào tạo; dụa án Nghiên cứu và Phát triển; dự án đổi mới; dự án hỗn
hợp.
- Theo thời hạn: Dự án ngắn hạn; dự án trung hạn; dự án dài hạn.
- Theo cấp độ: Dự án được phân loại thành dự án lớn và dự án
nhỏ. Đây là cách phân loại tổng hợp nhất của dự án.
Dự án lớn thường là các chương trình phức hợp và chuyên ngành
tầm cỡ quốc tế, quốc gia, miền vùng lãnh thổ liên ngành, địa phương.
Đặc trưng của dự án này là vốn đầu tư lớn, số lượng các chủ thể tham
gia đông, sử dụng nhiều công nghệ phức tạp khác nhau, thời hạn dài,
có ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh tế và sinh thái. Các dự án lớn
thường đòi hỏi nhà quản lý phải có phẩm chất tốt, đặc biệt là khả năng
giao tiếp tốt và năng lực tổ chức cao nhằm thiết lập hệ thống quản lý và
tổ chức thực hiện dự án thành công.
Dự án nhỏ thường là dự án cá nhân, dự án của tổ chức kinh tế
hoặc tổ chức xã hội. Các dự án này không đòi hỏi nhiều vốn thời gian
thực hiện thường ngắn và ít được ưu tiên hơn.
PHÂN LOẠI DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
(Ban hành kèm theo Nghị định số 16/2005/NĐ-CP
ngày 07 tháng 02 năm 2005 của Chính phủ)
Loại dự án đầu tư xây dựng công trình Tổng mức đầu

I Dự án quan trọng Quốc gia Theo Nghị
quyết của Quốc
hội
II Nhóm A
1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuộc lĩnh vực
bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật
quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng.

Không kể mức
vốn
2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: sản xuất chất
độc hại, chất nổ; hạ tầng khu công nghiệp.
Không kể mức
vốn
3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp
điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo
máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng
sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông,
sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu
nhà ở.
Trên 600 tỷ
đồng
4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi, giao
thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công
trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị
thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế,
công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính,
viễn thông.
Trên 400 tỷ
đồng
5 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp
nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Trên 300 tỷ
đồng
6 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hoá, Trên 200 tỷ
giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng

khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể
dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
đồng
III Nhóm B
1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp
điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo
máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng
sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông,
sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu
nhà ở.
Từ 30 đến 600
tỷ đồng
2 - Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi,
giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và
công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất
thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y
tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu
chính, viễn thông,
Từ 20 đến 400
tỷ đồng
3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: hạ tầng kỹ
thuật khu đô thị mới, công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ
tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản
xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến
nông, lâm sản.
Từ 15 đến 300
tỷ đồng
4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hoá,
giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng
khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể

dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Từ 7 đến 200
tỷ đồng
IV Nhóm C
1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp
điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo
máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng
sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông,
sân bay, đường sắt, đường quốc lộ). Các trường phổ
Dưới 30 tỷ
đồng
thông nằm trong quy hoạch (không kể mức vốn), xây
dựng khu nhà ở.
2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi, giao
thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công
trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị
thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế,
công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính,
viễn thông.
Dưới 20 tỷ
đồng
3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp
nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Dưới 15 tỷ
đồng
4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hoá,
giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng
khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể

dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Dưới 7 tỷ đồng
Ghi chú:
1. Các dự án nhóm A về đường sắt, đường bộ phải được phân đoạn theo chiều
dài đường, cấp đường, cầu theo hướng dẫn của Bộ Giao thông vận tải.
2. Các dự án xây dựng trụ sở, nhà làm việc của cơ quan nhà nước phải thực hiện
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
1.2.3. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án trong hoạt
động cho vay của NHTM
Lý thuyết về sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đã cho ta
thấy rằng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại và đặc
biệt là cho vay theo dự án tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Với mục tiêu tối đa
hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro các NHTM phải quan tâm và xem
xét kỹ lưỡng mọi thông tin trước khi ra quyết định cho vay. Để đánh
giá một dự án có khả thi hay không, có mang lại lợi nhuận cho nhà đầu
tư và ngân hàng hay không thì công việc quan trọng nhất là phải tiến
hành thẩm định dự án. Trên khía cạnh là ngân hàng thì thẩm định dự án
là một quá trình rà soát kiểm tra lại một cách khách quan và toàn diện
mọi nội dung của dự án và liên quan đến dự án nhằm khẳng định lại
tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi ra quyết định
đầu tư. Trong đó ngân hàng quan tâm hàng đầu đến các chỉ tiêu hiệu
quả tài chính của dự án vì vậy TĐTCDA là một nội dung quan trọng
nhất trong công tác thẩm định tại các NHTM. Thẩm định tài chính dự
án sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng đồng thời cho ra những
kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả tài chính, khả năng trả nợ
và những rủi ro có thể xảy ra của dự án để quyết định chấp nhận hoặc
từ chối cho vay.
Hoạt động cho vay theo dự án như trên đã nói là chứa đựng rất
nhiều rủi ro với những đặc điểm đặc thù của nó thì nếu công tác thẩm
định dự án nói chung hay công tác TĐTCDA nói riêng không được

thực hiện đầy đủ và nghiêm túc có thể làm giảm thu nhập lớn của ngân
hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh cũng như uy tín của ngân
hàng. Rủi ro có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường không chỉ đến
với một ngân hàng riêng lẻ mà còn đến cả hệ thống ngân hàng và cả
nền kinh tế. Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án thể hiện tính khả
thi, an toàn và hợp lý của dự án vì vậy TĐTCDA là một công tác vô
cùng quan trọng. Nó là thẩm định tài chính dự án là một quá trình rà
soát kiểm tra lại một cách khách quan và toàn diện mọi khía cạnh tài
chính của dự án nhằm khẳng định lại tính hiệu quả cũng như tính khả
thi của dự án trước khi ra quyết định đầu tư.
Vai trò của công tác TĐTCDA đối với ngân hàng là rất quan
trọng nó thể hiện ở rất nhiều khía cạnh. Những thông tin đã được kiểm
tra lại sau khi phân tích là căn cứ để ra các quyết định tài trợ đánh giá
tính khả thi, hiệu quả tài chính, khả năng trả nợ vốn, rủi ro tiềm tàng
của dự án. Đây cũng là cơ sở để người cho vay xác định lãi suất kỳ
hạn, cách thức trả nợ,...thích hợp với khả năng tài chính cả hai bên.
Ngoài ra người cho vay còn có thể phát hiện các khiếm khuyết trong
quá trình lập dự án và kiến nghị với chủ đầu tư để đưa ra những điều
chỉnh phù hợp.
Qua phân tích ở trên ta có thể thấy rằng thẩm định tài chính dự án
là công việc quan trọng nhất và không thể thiếu trong công tác thẩm
định dự án đối với hoạt động cho vay theo dự án của các NHTM.
1.2.4. Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho
vay của NHTM
Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt
chẽ đến nhau. Tài chính là một nội dung quan trọng của dự án các chỉ
tiêu hiệu quả tài chính của dự án thể hiện tính khả thi, an toàn và hợp lý
của dự án. Nó cũng thể hiện được hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu
tư vào dự án. Do đó nội dung tài chính của dự án được chủ đầu tư và
đặc biệt là ngân hàng thương mại quan tâm hàng đầu. Công tác thẩm

định tài chính dự án trở nên vô cùng quan trọng. Nó phụ thuộc rất
nhiều yếu tố mà trước hết là yếu tố thị trường, các giải pháp công nghệ
- kỹ thuật và quản trị quá trình thực hiện dự án. Vì vậy thẩm định tốt
nội dung thị trường kỹ thuật của dự án là cơ sở quan trọng để đảm bảo
cho thẩm định tài chính được tiến hành thuận lợi. Để kiểm tra lại độ
chính xác của thông tin được đưa ra từ khâu lập dự án, các nhà phân
tích cần rà soát lại từng vấn đề chi tiết với việc đặt ra các câu hỏi như:
Tại sao lại chọn quy mô hoạt động như vậy? Các nguồn tài trợ cho dự
án đã phù hợp về tiến độ và số lượng chưa?...
Tóm lại thẩm định tài chính dự án là nội dung quan trọng nhất
trong quá trình thẩm định dự án. Nội dung thẩm định tài chính dự án
gồm các vấn đề sau đây:
12.4.1. Xác định tổng mức đầu tư
Tổng mức đầu tư của dự án là giá trị của toàn bộ số tiền và tài
sản cần thiết để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động.
Tổng mức vốn đầu tư được xác định dựa trên cơ sở năng lực sản
xuất theo thiết kế, khối lượng và công tác chủ yếu và sản xuất vốn đầu
tư, giá chuẩn hay đơn giá tổng hợp do cơ quan có thẩm quyền. Việc
tính toán xác định tổng mức đầu tư có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với tính khả thi của dự án. Sở dĩ như vậy vì đầu tư là một trong những
quyết định có ý nghĩa chiến lược đối với doanh nghiệp, có tác động tới
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm của các dự
án là thường yêu cầu một lượng vốn lớn và sử dụng trong một thời gian
dài. Sai lầm trong việc dự toán vốn đầu tư có thể dẫn tới tình trạng lãng
phí vốn lớn, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng đối với doanh nghiệp.
Vì vậy, quyết định đầu tư của doanh nghiêp là quyết định có tính chiến
lược, đòi hỏi phải phân tích và cân nhắc kỹ lưỡng các căn cứ dự toán.
Tổng mức vốn đầu tư bao gồm các khoản mục sau đây:
 Vốn đầu tư vào tài sản cố định
Đây là hoạt động đầu tư nhằm mua sắm, cải tạo, mở rộng tài sản

cố định. Vốn đầu tư vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng vốn đầu tư cho dự án, đặc biệt là các dự án sản xuất. Do vậy
cần kiểm soát chặt chẽ bằng cách chi tiết hoá các khoản mục, tham
khảo các dự án cùng loại từng được thực hiện, ý kiến các chuyên gia tư
vấn về xây dựng và công nghệ, giá cả trên thị trường. Các tài sản cố
định được đầu tư có thể là tài sản cố định hữu hình hoặc tài sản cố định
vô hình. Vốn đầu tư vào tài sản cố định bao gồm:
+ Chi phí điều tra, khảo sát để lập, trình duyệt dự án, chi phí tư
vấn, thiết kế dự án, chi phí đào tạo, huấn luyện, chuyển giao công
nghệ, chi phí ban đầu về mặt đất, mặt nước, chi phí chuẩn bị mặt bằng
xây dựng.
+ Giá trị nhà xưởng hoặc kết cấu hạ tầng sẵn có, chi phí xây dựng
mới hoặc cải tạo nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng.
+ Giá trị máy móc thiết bị, phương tiện vận tải sẵn có, chi phí
mua máy móc thiết bị, phương tiện vận tải mới (gồm cả chi phí vận
chuyển, lắp đặt, chạy thử).
+ Chi phí khác
 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động ban đầu (vốn lưu động ban đầu =
vốn lưu động ròng - vốn lưu động thường xuyên) là điều kiện cần thiết
để đảm bảo cho dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các
điều kiện kinh tế kỹ thuật dự tính, bao gồm:
+ Dự trữ tiền mặt, các khoản phải thu và trả trước
+ Dự trữ hàng hoá: nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành
phẩm tồn kho.
Lượng vốn đầu tư vào vốn lưu động ban đầu thường không lớn
sontrắc nghiệm công việc nếu không dự tính huy động nguồn vốn dài
hạn để tài trợ, các dự án sẽ phải huy động nguồn vốn ngắn hạn để tài
trợ và như vậy rất bị động trước khi đến hạn trả.
 Vốn dự phòng

Là lượng vốn để đề phòng phát sinh thêm chi phí đầu tư so với
dự tính. Trong dài hạn với nền kinh tế thị trường cạnh tranh khắc
nghiệt thì giá cả có thể thay đổi như giá nguyên vật liệu, giá thuê nhân
công, máy thi công, tỷ giá hối đoái... thường xuyên biến động. Bên
cạnh đó cũng phải kể đến rủi ro về kỹ thuật hay nảy sinh các chi phí
bất thường trong quá trình thi công dự án. Chính vì những lí do đó mà
phải dự trù một khoản dự phòng để kịp thời đối phó với những bất trắc
có thể xảy ra, đáp ứng nhu cầu thu chi để đảm bảo tiến độ của dự án.
Lượng vốn này thường chiếm tới từ 1% đến 5% tổng mức vốn đầu tư,
tuỳ thuộc vào quy mô của dự án và biến động của các biến số chính.
1.2.4.2. Thẩm định nguồn vốn và sử dụng vốn cho dự án
Trên cơ sở xác định tổng mức vốn đầu tư cho dự án, ngân hàng
xác định các nguồn tài trợ cho dự án. Các phương thức tài trợ cho dự
án gồm có tài trợ bằng vốn tự có, tài trợ bằng nợ. Ngoài ra còn có tài
trợ bằng leasing và tài trợ kết hợp. Mỗi phương thức tài trợ đều có
những đặc trưng riêng cũng như lợi thế và bất lợi đôí với ngân hàng.
Việc thẩm định lại sự đảm bảo của các nguồn này rất quan trọng đối
với ngân hàng.Trên đây là ta phân tích cơ cấu vốn đầu tư theo các

×