Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng mắc ĐTĐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.44 KB, 6 trang )

Một số yếu tố ảnh hưởng đến
khả năng mắc ĐTĐ

Tuổi
Tuổi trung bình của bệnh nhân ĐTĐ type 2 (chiếm 90% số trường hợp mắc
ĐTĐ) vào khoảng 60 – 65 tuổi. Tỷ lệ bệnh bắt đầu gia tăng nhanh ở nhóm người
> 45 tuổi; trên 65 tuổi: tỷ mắc bệnh có thể tới 16 % dân số chung. Gần một nửa số
người mắc ĐTĐ thuộc nhóm người trên 65 tuổi. Theo thống kê của WHO: ở
người trên 70 tuổi tỷ lệ người mắc ĐTĐ cao gấp 3 đến 4 lần so với tỷ lệ mắc ĐTĐ
chung ở người lớn.
Tuy nhiên với nhịp điệu phát triển cuộc sống hiện nay, ngày càng có nhiều
người trẻ tuổi, thậm chí trẻ vị thành niên mắc ĐTĐ týp 2. Quan sát sự xuất hiện
bệnh ĐTĐ type 2 trong gia đình có tiền căn di truyền rõ ràng, người ta thấy rằng ở
thế hệ thứ nhất thường mắc bệnh vào độ tuổi 60-70, đến thế hệ thứ 2 tuổi xuất
hiện bệnh giảm xuống ở lứa tuổi 40-50 tuổi và ngày nay những người được chẩn
đoán ĐTĐ týp 2 dưới 20 tuổi không còn là hiếm. [Theo Saad M.F., Knowler
W.C., Pettitt D.J et al (1998) “Transient impaired glucose tolerance in Pima
Indians: Is it important”, BMJ 297, pp.1438-1441].

Giới tính
Tỷ lệ mắc ĐTĐ ở 2 giới nam và nữ thay đổi tuỳ thuộc vào các vùng dân
cư khác nhau. Ở Bắc Mỹ và Tây âu tỷ lệ nữ /nam thường là 1/4. Ngay trong một
quần thể nghiên cứu tỷ lệ nữ/nam mắc ĐTĐ còn tuỳ thuộc vào tuổi, điều kiện
sống. ở các vùng đô thị Thái Bình Dương tỷ lệ nữ/ nam là 3/1, [Theo Paul
Zimmet, (1983), “Epidemiology of Diabetes Mellitus”. Diabetes Mellitus Theory
and Practice, 451 – 465] trong khi ở Trung Quốc, Malaysia, ấn độ tỷ lệ mắc ĐTĐ
ở cả 2 giới tương đương nhau [Theo Kenneth Hughes, (1999), “Coronary Heart
Desease and Coronary Risk Profiles of asian in Singapore”. Medical Progress 2.
Vol.26 No.2].
Ở Việt Nam nữ giới mắc ĐTĐ nhiều hơn nam giới và chiếm tới 2/3 số
người ĐTĐ. Ảnh hưởng của giới tính lên khả năng mắc bệnh ĐTĐ diễn biến


không theo quy luật, nó tuỳ thuộc vào chủng tộc, độ tuổi, điều kiện sống, mức độ
béo phì. [Phan sĩ Quốc và cs, (1994), “Blood Glucose Distribution and Prevalence
of Diabetes in Hà nội”. American Journal of Epidemiology. Vol 139, No.7.]
Địa dư sinh sống
Các nghiên cứu tỷ lệ ĐTĐ đều cho thấy rằng lối sống công nghiệp hiện đại
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mắc bệnh ĐTĐ. Tỷ lệ mắc ĐTĐ tăng gấp 2 - 3
lần ở người sống trong nội thành so với người sống ở ngoại thành theo các công
bố nghiên cứu dịch tễ ở Tunisie, Úc, Puerto – Rico [Theo Laure Papoz, (1990),
“Epidemiologie du Diabetes non insulinodependant”, Traité de diabetologie, 329 –
333.] và ở Việt Nam tỷ lệ mắc ĐTĐ chiếm khoảng 4,4% người trên 16 tuổi sống
trong nội thành Hà Nội, nhưng ở ngoại thành tỷ lệ mắc ĐTĐ chỉ vào khoảng 1%
(theo số liệu điều tra dịch tễ năm 2000).
Với cùng một chủng tộc, dân tộc, về mặt nguyên tắc yếu tố di truyền liên
quan đến khả năng mắc bệnh ĐTĐ là như nhau, song những nghiên cứu tỷ lệ ĐTĐ
ở những người di cư từ Nhật đến Hawai, từ châu Phi đến châu Mỹ cho thấy tỷ lệ
mắc ĐTĐ ở những người di cư này thường cao hơn 2 đến 3 lần thậm chí hơn nữa
so với cộng đồng người không di cư [Theo Laure Papoz, (1990), “Epidemiologie
du Diabetes non insulinodependant”, Traité de diabetologie, 329 – 333.].
Yếu tố địa dư ảnh hưởng đến tỷ lệ ĐTĐ thực chất là sự thay đổi lối sống: ít
vận động, ăn uống nhiều dẫn đến béo phì gây ra.
Béo phì


Theo các chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới, yếu tố nguy cơ mạnh
mẽ nhất tác động lên khả năng mắc ĐTĐ týp 2 là béo phì. Tỷ lệ mắc béo
phì trong cộng đồng dân cư và tỷ lệ mắc ĐTĐ týp 2 luôn song hành bên nhau
[Theo Paul Zimmet, (1983), “Epidemiology of Diabetes Mellitus”. Diabetes
Mellitus Theory and Practice, 451 – 465)].

Theo nghiên cứu Nurses Health Study trên 100.000 y tá trong vòng 14 năm

liên tục thấy ngưỡng tăng tỷ lệ mắc ĐTĐ với chỉ số BMI ≥ 22kg/m2, và nếu BMI
tăng thêm 1kg/m2 sẽ làm nguy cơ mắc ĐTĐ tăng thêm 25%, nếu BMI > 28kg/m2
nguy cơ mắc ĐTĐ và các bệnh tim mạch tăng gấp 3 -4 lần.
[BMI= cân nặng (kg) : chiều cao2 (m2)]
Béo bụng
Béo bụng còn được gọi là béo dạng nam là một thuật ngữ chỉ những người
mà phân bố mỡ ở bụng, nội tạng và phần trên cơ thể chiếm tỷ trọng đáng kể. Béo
bụng, ngay cả với những người cân nặng không thực sự xếp vào loại béo phì hoặc
chỉ béo vừa phải (BMI < 25 kg/m2) là một yếu tố nguy cơ độc lập gây ra rối loạn
mỡ máu, tăng huyết áp và rối loạn chuyển hoá đường [BASDEVANT Arnaud,
(1998), “Guide pratique pour le diagnostic, la prévention, le traitement des obésité
en France”, Diabetes & Metabolism, Vol 24, 10– 21.].
Sở dĩ béo dạng nam được coi là một trong những nguyên nhân làm gia tăng
tỷ lệ bệnh ĐTĐ và bệnh tim-mạch vì mô mỡ nhiều ở bụng làm gia tăng nồng độ

×