NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢNLÝ DỰ ÁN
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ ĐẶC ĐIỂM QUẢN LÝ DỰ ÁN
TRONG NGÀNH ĐƯỜNG SẮT Ở VIỆT NAM
1. Dự án đầu tư xây dựng:
1.1. Khái niệm:
1.1.1. Dự án đầu tư:
Để hiểu về dự án đầu tư xây dựng, trước hết cần tìm hiểu thế nào là
dự án và các đặc điểm cơ bản của một dự án.
Dự án – với tư cách là đối tượng của quản lý – là một nhiệm vụ
mang tính chất một lần, có mục tiêu rõ ràng (trong đó bao gồm số lượng,
chức năng và tiêu chuẩn chất lượng), yêu cầu phải được hoàn thành trong
một khoảng thời gian quy định, có dự toán tài chính từ trước.
Dự án đầu tư mang những đặc trưng cơ bản sau:
- Dự án có mục đích và kết quả xác định. Mỗi dự án là một tập hợp của rất
nhiều các nhiệm vụ khác nhau cần được thực hiện, mỗi nhiệm vụ cụ thể lại
có một kết quả riêng, độc lập. Tập hợp các kết quả cụ thể của các nhiệm vụ
trong mối quan hệ tương tác giữa chúng hình thành nên kết quả chung của
dự án.
- Dự án có chu kì phát triển riêng và có thời gian tồn tại hữu hạn. Không có dự
án nào kéo dài mãi mãi, có dự án hoàn thành trong thời gian rất ngắn, một
vài tháng, cũng có dự án để hoàn thành phải mất hàng chục năm, … nhưng
dự án nào cũng có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Khi dự án kết
thúc, kết quả dự án sẽ được chuyển giao cho bộ phận quản lý vận hành,
nhóm quản trị dự án khi đó giải tán.
- Sản phẩm của dự án mang tính chất đơn chiếc. Kết quả của dự án không phải
là sản phẩm sản xuất hàng loạt, mà có tính khác biệt cao. Sản phẩm và dịch
vụ do dự án đem lại là duy nhất, hầu như không lặp lại, và luôn luôn khác
biệt nhau một cách tương đối.
- Dự án sử dụng các nguồn lực có giới hạn: Mọi dự án đều bị giới hạn bởi các
nguồn lực về nhân lực, nguồn vốn, và thời gian nhất định.
- Dự án liên quan đến nhiều bên và có sự tương tác phức tạp giữa các bộ phận
quản lý chức năng với quản lý dự án. Dự án nào cũng có sự tham gia của
nhiều bên hữu quan như: Chủ đầu tư, đối tượng hưởng thụ dự án, cơ quan
quản lý nhà nước, nhà thầu, các nhà tư vấn, quần chúng nhân dân ở địa
phương diễn ra dự án, … Tùy theo từng dự án mà mức độ tham gia cũng như
vai trò của các đối tượng hữu quan trên là khác nhau.
- Dự án có tính bất định và độ rủi ro cao: Hầu hết các dự án đều huy động một
khối lượng nguồn lực rất lớn về con người, tài nguyên thiên nhiên, vốn, …
và đều được thực hiện trong thời gian tương đối dài. Do đó, dự án thường có
tính bất định và độ rủi ro cao.
1.1.2. Dự án đầu tư xây dựng:
Dự án đầu tư xây dựng là một tập hợp những đề xuất có liên quan
đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất
định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng
cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Như vậy, có thể thấy dự án đầu tư xây dựng, ngoài những đặc điểm
của dự án đầu tư nói chung, còn mang những đặc trưng khác biệt, đó là:
i. Mỗi dự án đầu tư xây dựng là một đơn vị xây dựng được cấu thành bởi
một hoặc nhiều công trình đơn lẻ có mối liên hệ nội tại, thực hiện hạch
toán thống nhất, quản lý thống nhất trong quá trình xây dựng trong
phạm vi thiết kế sơ bộ.
ii. Dự án đầu tư xây dựng coi việc hình thành tài sản cố định là một mục
tiêu đặc biệt trong một điều kiện ràng buộc nhất định. Điều kiện ràng
buộc thứ nhất là ràng buộc về thời gian, tức là một dự án xây dựng
phải có mục tiêu hợp lý về kỳ hạn của công trình xây dựng; thứ hai là
ràng buộc về nguồn lực, tức là một dự án xây dựng phải có được mục
tiêu nhất định về tổng lượng đầu tư; thứ ba là ràng buộc về chất lượng,
tức là dự án xây dựng phải có mục tiêu xác định về khả năng sản xuất,
trình độ kỹ thuật và hiệu quả sử dụng.
iii. Các dự án đầu tư xây dựng phải tuân theo một trình tự xây dựng cần
thiết và trải qua một quá trình xây dựng đặc biệt, tức là mỗi dự án xây
dựng là cả một quá trình theo thứ tự từ lúc đưa ra ý tưởng xây dựng và
đề nghị xây dựng đến lúc lựa chọn phương án, đánh giá, quyết sách,
điều tra thăm dò, thiết kế, thi công cho đến lúc công trình hoàn thiện,
đi vào sản xuất hoặc đi vào sử dụng.
iv. Dự án đầu tư xây dựng dựa theo nhiệm vụ đặc biệt để có được hình thức
tổ chức có đặc điểm dùng một lần. Điều này được biểu hiện ở việc đầu
tư duy nhất một lần, địa điểm xây dựng cố định một lần, thiết kế và thi
công đơn nhất.
v. Mọi dự án đầu tư xây dựng đều có tiêu chuẩn về hạn ngạch đầu tư. Chỉ
khi đạt đến một mức độ đầu tư nhất định mới được coi là dự án xây
dựng, nếu không đạt được tiêu chuẩn về mức đầu tư này thì chỉ được
coi là đặt mua tài sản cố định đơn lẻ, mức hạn ngạch về đầu tư này
được Nhà nước quy định và ngày càng được nâng cao.
1.2. Phân loại dự án đầu tư xây dựng:
Để phân loại dự án đầu tư xây dựng, người ta dựa vào nhiều tiêu
chí khác nhau: theo người khởi xướng, theo ngành kinh tế - xã hội, theo địa
chỉ khách hàng, theo thời gian thực hiện, theo quy mô dự án, …
Ở Mỹ, dự án đầu tư xây dựng công trình được chia thành 4 loại chủ
yếu: dự án xây dựng nhà ở, dự án xây dựng nhà cao tầng, dự án xây dựng
công trình lớn, dự án xây dựng công nghiệp.
Ở Việt Nam, theo Điều 2 Nghị định số 16/NĐ – CP ban hành ngày
07/02/2005 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, các dự án đầu tư
xây dựng công trình được phân loại như sau:
Theo quy mô và tính chất dự án, gồm có:
- Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội thông qua chủ trương và
cho phép đầu tư;
- Các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A, B, C (Theo Phụ lục
đính kèm Nghị định số 16/NĐ – CP ngày 07/02/2005).
Theo nguồn vốn đầu tư, gồm có:
- Dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn
hợp nhiều nguồn vốn.
1.3. Chu trình dự án đầu tư xây dựng:
Chu trình dự án đầu tư xây dựng là các công việc, các giai đoạn mà
một dự án xây dựng phải trải qua kể từ khi hình thành ý tưởng cho đến khi
kết thúc dự án, gắn liền với quá trình đầu tư và xây dựng công trình.
Một cách khái quát, chu trình dự án xây dựng bao gồm 3 giai đoạn
cơ bản là: chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án đầu tư và kết thúc xây dựng đưa
dự án vào khai thác; bao gồm các bước công việc như sau:
SƠ ĐỒ 1.1. CHU TRÌNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ
Nghiên cứu cơ hội
(xác định dự án)
Nghiên cứu tiền khả thi
Nghiên cứu khả thi
VẬN HÀNH DỰ ÁN
2. Quản lý dự án đầu tư xây dựng:
Khái niệm:
Theo giáo trình Quản lý dự án đầu tư, TS. Từ Quang Phương, Bộ
môn Kinh tế đầu tư, đại học Kinh tế quốc dân định nghĩa: “Quản lý dự án là
quá trình lập kế hoạch, điều phối thời gian, nguồn lực và giám sát quá trình
phát triển của dự án nhằm đảm bảo cho dự án hoàn thành đúng thời hạn,
trong phạm vi ngân sách được duyệt và đạt được các yêu cầu đã định về kỹ
thuật và chất lượng sản phẩm dịch vụ, bằng những phương pháp và điều kiện
tốt nhất cho phép.”
Tùy theo các loại dự án khác nhau mà công tác quản lý dự án cũng
rất khác nhau. Đối với các dự án thuộc lĩnh vực đầu tư xây dựng công trình,
công tác quản lý dự án mang những đặc trưng khác biệt.
Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý đã đưa ra định nghĩa sau về
Quản lý dự án đầu tư xây dựng trong cuốn sách “Quản lý dự án công trình
xây dựng”:
“Quản lý dự án đầu tư xây dựng là một loại hình của quản lý dự án,
đối tượng của nó là các dự án đầu tư xây dựng công trình, được định nghĩa
như sau:
THỰC HIỆN DỰ ÁN
Thiết kế, đấu thầu
Thi công xây lắpVận hành dự án
Đánh giá sau dự án
Kết thúc dự án
Chu kỳ dự án mới
Trong chu kỳ tuổi thọ của dự án công trình, quản lý dự án là dùng
lý luận, quan điểm và phương pháp của công trình hệ thống để tiến hành các
hoạt động quản lý mang tính hệ thống và tính khoa học như kế hoạch, quyết
định, tổ chức, điều hành, khống chế, … một cách hiệu quả. Từ đó dựa vào
yêu cầu chất lượng, thời gian sử dụng, tổng mức đầu tư, phạm vi nguồn lực
và điều kiện môi trường mà dự án đã đề ra để thực hiện một cách tốt nhất
mục tiêu của dự án.”
Các chức năng của QLDA đầu tư xây dựng:
QLDA đầu tư xây dựng công trình có những chức năng chính như
sau:
2.2.1. Chức năng ra quyết định:
Quá trình xây dựng của dự án là một quá trình ra quyết định có tính
hệ thống, việc khởi công mỗi một giai đoạn xây dựng đều phải dựa vào
quyết định đó. Việc đưa ra quyết định ngay từ đầu có ảnh hưởng quan trọng
đến giai đoạn thiết kế, giai đoạn thi công cũng như sự vận hành sau khi dự
án đã được hoàn thành.
2.2.2. Chức năng kế hoạch:
Chức năng kế hoạch có thể đưa toàn bộ quá trình, toàn bộ mục tiêu
và toàn bộ hoạt động của dự án vào quỹ đạo kế hoạch, dùng hệ thống kế
hoạch ở trạng thái động để điều hành và khống chế toàn bộ dự án. Sự điều
hành hoạt động công trình là sự thực hiện theo trình tự mục tiêu dự định.
Chính nhờ chức năng kế hoạch mà mọi công việc của dự án đều có thể dự
kiến và khống chế.
2.2.3. Chức năng tổ chức:
Chức năng tổ chức nghĩa là thông qua việc xây dựng một tổ chức
dưới sự lãnh đạo của giám đốc dự án để bảo đảm dự án được thực hiện theo
hệ thống, xác định chức trách và trao quyền cho hệ thống đó, thực hiện chế
độ hợp đồng, hoàn thiện chế độ quy định để hệ thống đó có thể vận hành một
cách hiệu quả, đảm bảo cho mục tiêu dự án được thực hiện theo kế hoạch.
2.2.4. Chức năng điều hành:
Quá trình quản lý dự án là sự phối hợp của rất nhiều các bộ phận
có mối quan hệ mâu thuẫn và phức tạp, do đó nếu xử lý không tốt các mối
quan hệ này sẽ tạo nên những trở ngại trong việc phối hợp hoạt động giữa
các bộ phận, ảnh hưởng đến mục tiêu dự án. Vì vậy, phải thông qua chức
năng điều hành của quản lý dự án để tiến hành kết nối, khắc phục trở ngại,
đảm bảo cho hệ thống có thể vận hành một cách bình thường.
2.2.5. Chức năng khống chế:
Chức năng khống chế là biện pháp đảm bảo cho việc thực hiện
mục tiêu chính của dự án công trình. Đó là vì dự án công trình thường rất dễ
rời xa mục tiêu dự định, phải lựa chọn các phương pháp quản lý khoa học để
đảm bảo mục tiêu được thực hiện.
2.3. Sự cần thiết của công tác quản lý dự án:
Mỗi dự án được xây dựng nhằm thực hiện những mục tiêu xác định
trong khuôn khổ nguồn lực cho trước. Để thực hiện dự án cần có sự phối hợp
hoạt động của rất nhiều các đối tượng có liên quan đến dự án như chủ đầu tư,
nhà thầu, tư vấn, các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan, …
Các kết quả của dự án có thể có được nếu tất cả các công việc của
dự án lần lượt được hoàn thành. Tuy nhiên, vì tất cả các hoạt động của dự án
đều có liên quan đến nhau và có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, nên nếu từng
công việc được thực hiện một cách độc lập sẽ cần rất nhiều thời gian và chi
phí để trao đổi thông tin giữa các đơn vị thực hiện. Một số công việc chỉ có
thể được thực hiện khi một số công việc khác bắt buộc phải hoàn thành trước
nó, và phải hoàn thành trong khuôn khổ chất lượng cho phép. Do đó, việc
thực hiện dự án theo cách này không thể kiểm soát nổi tiến độ dự án, cũng
như khó có thể đảm bảo các điều kiện về chi phí và chất lượng.
Như vậy, mọi dự án đều cần có sự phối hợp hoạt động của tất cả
các đối tượng liên quan đến dự án một cách hợp lý. Cơ chế phối hợp đó
chính là quá trình quản lý dự án, dự án càng phức tạp và có quy mô càng lớn
thì càng cần được tổ chức quản lý một cách khoa học.
Nói cách khác, công tác QLDA chính là việc áp dụng các phương
pháp, công cụ khác nhau, trong sự phù hợp với các quy định, các văn bản
pháp lý của Nhà nước có liên quan đến dự án để phối hợp hoạt động giữa các
đối tượng hữu quan của dự án, nhằm đạt được mục tiêu hoàn thành dự án với
chất lượng cao nhất, trong thời gian nhanh nhất và với chi phí thấp nhất có
thể.
Công tác QLDA hợp lý và khoa học sẽ giúp chủ đầu tư đạt được
các mục tiêu đã định của dự án với hao tổn nguồn lực ít hơn dự kiến, có thể
là trong thời gian ngắn hơn với chi phí thấp hơn, từ đó làm tăng hiệu quả đầu
tư vốn của xã hội; hoặc là, cùng các điều kiện về thời gian, chi phí, nhân lực
đã giới hạn, công tác quản lý tốt cho phép nâng cao chất lượng dự án. Điều
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các dự án đầu tư xây dựng có quy
mô lớn khi mà chất lượng các công trình xây dựng không đảm bảo có thể
gây ra những tổn thất lớn cho xã hội.
Ngược lại, nếu công tác QLDA được thực hiện thiếu khoa học, dự
án có thể phải tốn nhiều nguồn lực hơn để hoàn thành hoặc hoàn thành với
chất lượng không đảm bảo, gây nhiều thất thoát lãng phí cho xã hội và có thể
để lại những hậu quả nghiêm trọng, nhất là với các dự án xây dựng công
trình công cộng quy mô lớn được thực hiện bởi nguồn vốn của Nhà nước.
Chính vì vậy, hoàn thiện công tác QLDA luôn luôn là nhiệm vụ
quan trọng của mọi đối tượng liên quan đến dự án. Những biện pháp cải tiến
công tác tổ chức QLDA, hoàn thiện các công cụ hỗ trợ quá trình QLDA, …
từ lâu đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà quản lý tâm huyết.
Trong khoảng một thập niên trở lại đây, cùng với xu hướng hội
nhập khu vực hóa, toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực và cả trong lĩnh vực đầu
tư xây dựng, công tác QLDA đầu tư xây dựng ngày càng trở nên phức tạp,
phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều đối tác liên
quan. Do đó, công tác QLDA đầu tư xây dựng đòi hỏi phải có sự phát triển
sâu rộng và mang tính chuyên nghiệp mới có thể đáp ứng nhu cầu xây dựng
các công trình xây dựng ở nước ta trong thời gian tới.
Tuy nhiên, sự yếu kém trong chất lượng hoạt động của các Ban
QLDA ở nước ta qua thực tiễn hoạt động trái pháp luật đã bị phanh phui của
một số đơn vị đã gây ra những tổn thất không nhỏ cho xã hội và sự suy giảm
niềm tin đáng kể vào khả năng thực hiện QLDA của các đơn vị trong nước.
Điều này đặt ra một thách thức lớn cho các Ban QLDA trong việc làm thế
nào để từng bước hoàn thiện công tác QLDA ở đơn vị mình, gây dựng được
niềm tin của chủ đầu tư và góp phần thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài, nhất là đối với các Ban QLDA thực hiện quản lý các dự án sử dụng
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA.
2.4. Các lĩnh vực quản lý dự án đầu tư xây dựng:
Chu trình sống của mọi dự án xây dựng đều phải chịu sự tác động
mạnh mẽ của 3 điều kiện ràng buộc chặt chẽ:
- Điều kiện ràng buộc thứ nhất là ràng buộc về thời gian, tức là một dự án
xây dựng phải có mục tiêu hợp lý về kỳ hạn của công trình xây dựng;
- Điều kiện ràng buộc thứ hai ràng buộc về nguồn lực, tức là một dự án
xây dựng phải có được mục tiêu nhất định về tổng lượng đầu tư;
- Điều kiện ràng buộc thứ ba là ràng buộc về chất lượng, tức là dự án xây
dựng phải có mục tiêu xác định về khả năng sản xuất, trình độ kỹ thuật
và hiệu quả sử dụng.
Dựa trên 3 điều kiện ràng buộc trên, QLDA được chia làm 3 lĩnh
vực chính như sau:
2.4.1. Quản lý thời gian và tiến độ dự án:
Thực hiện dự án trong phạm vi thời gian đã hoạch định là một
trong những mục tiêu quan trọng nhất của QLDA xây dựng.
Công việc quản lý thời gian và tiến độ thực hiện dự án đầu tư xây
dựng phải trả lời được các câu hỏi chủ yếu sau:
- Cần bao nhiêu thời gian để thực hiện hoàn thành toàn bộ dự án?
- Khi nào bắt đầu? Khi nào kết thúc mỗi công việc thuộc dự án?
- Cần tập trung chỉ đạo những công việc nào (công việc được ưu tiên
thực hiện) để đảm bảo thực hiện hoàn thành đúng hạn dự án như đã
hoạch định?
- Những công việc nào có thể kéo dài và có thể kéo dài bao lâu mà vẫn
không làm chậm tiến độ thực hiện dự án?
- Có thể rút ngắn tiến độ thực hiện dự án được không? Nếu có thì có thể
rút ngắn thời gian thực hiện những công việc nào và thời gian rút ngắn
là bao lâu?
Đối với các dự án đầu tư xây dựng, công tác quản lý thời gian và
tiến độ có vai trò hết sức quan trọng, nhất là trong trường hợp có yêu cầu
khắt khe về thời gian hoàn thành dự án. Lĩnh vực quản lý này chính là cơ sở
cho việc quản lý chi phí và nguồn lực, đồng thời cũng là căn cứ để phối kết
hợp các bên có liên quan trong việc tổ chức thực hiện dự án.
Quy trình quản lý thời gian và tiến độ thực hiện dự án bao gồm các
bước công việc được thể hiện thông qua sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ 1.2. QUY TRÌNH QUẢN LÝ THỜI GIAN VÀ TIẾN ĐỘ
Quản lý thời gian
1. Xác định các hoạt động
1. Đầu vào:
- Cấu trúc phân chia dự án
- Báo cáo phạm vi dự án
- Các thông tin của dự án tương tự
- Những yếu tố ràng buộc và giả định
2. Công cụ và kỹ thuật:
- WBS