Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ở đà NẴNG TRONG bối CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.81 KB, 10 trang )

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Ở ĐÀ NẴNG
TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 HIỆN NAY
DEVELOPING HUMAN RESOURCES FOR INFORMATION TECHNOLOGY IN DA
NANG IN THE CONTEXT OF THE CURRENT INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
ThS. Lê Đức Thọ
Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng
Lê Đức Minh Thuận
Sinh viên lớp 19IT2, Khoa Công nghệ thông tin – Đại học Đà Nẵng
(Bài đăng Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia: “Phát triển nguồn nhân lực công
nghệ thông tin – Thực trạng và xu thế”, ISBN 978-604-300-621-6, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, tr.187-194. Năm 2020)
TÓM TẮT
Bài viết sử dụng phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp nghiên cứu về thực trạng
nguồn nhân lực Công nghệ thông tin ở thành phố Đà Nẵng hiện nay. Kết quả cho thấy,
tính đến năm 2018, thành phố Đà Nẵng có khoảng 700 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực Công nghệ thông tin. Tuy nhiên, Đà Nẵng đang thiếu trầm trọng nguồn nhân lực
trong lĩnh vực này, đặc biệt là nhân lực giỏi đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0. Bài viết cũng đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn lực Công nghệ thông
tin ở thành phố Đà Nẵng trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
Từ khóa: Nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực Công nghệ thông tin; cách
mạng công nghiệp 4.0; Đà Nẵng.
ABSTRACT
The paper uses the method of collecting secondary materials to research the current
situation of information technology human resources in Danang City. The results show
that, as of 2018, Danang City has about 700 enterprises operating in the field of
Information Technology. However, Danang is seriously lacking human resources in this
field, especially good ones meeting the requirements of Industry revolution 4.0. The
paper also proposes some solutions to develop IT resources in Da Nang city in the
context of the current industrial revolution 4.0.
Keywords: Human Resources; developing information technology human
resources; industrial revolution 4.0; Danang.


1


1. MỞ ĐẦU
Cuộc cách công nghiệp 4.0 đang diễn ra là cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển
cho Việt Nam, cũng là thời cơ phát triển các sản phẩm công nghệ thông tin thương hiệu
Việt, đẩy mạnh thị trường công nghệ thông tin nội địa. Tuy nhiên, nguồn nhân lực công
nghệ thông tin Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng hiện nay chưa đáp ứng được
nhu cầu của xã hội. Đà Nẵng đang cần hàng chục ngàn nhân lực công nghệ thông tin
trong khi hệ thống các trường đào tạo cung cấp hằng năm rất hạn chế. Thực tế này đã
dẫn tới cuộc cạnh tranh thu hút nhân lực công nghệ thông tin không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp. Làm sao để có nguồn nhân lực công nghệ thông tin đông đảo, nhanh
chóng bắt nhịp dòng chảy cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang đặt ra nhiều thách thức
với cả nước nói chung, Đà Nẵng nói riêng. Trong đó, dù chất lượng đầu vào tăng, chất
lượng đào tạo cũng từng bước được nâng lên, nguồn nhân lực trong lĩnh vực này còn hạn
chế về ngoại ngữ, kỹ năng mềm và kỹ năng thực hành. Thêm vào đó, năng suất lao động
chưa cao. Chính vì vậy, nghiên cứu về thực trạng nguồn nhân lực công nghệ thông tin, từ
đó đề ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở thành
phố Đà Nẵng hiện nay là việc làm cần thiết.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
Nguồn nhân lực công nghệ thông tin: Có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân
lực công nghệ thông tin. Theo hiệp hội Công nghệ thông tin Mỹ, nhân lực công nghệ
thông tin là lực lượng lao động thực hiện công việc như nghiên cứu, thiết kế, phát triển,
ứng dụng, hỗ trợ và quanrn lý hệ thông thông tin dựa trên máy tính đặc biệt là những ứng
dụng phần mềm và phần cứng máy tính. Tại Quyết định số 05/2007/QĐ-BTTTT ngày
26/10/2007 của Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt Quy hoạch phát triển nguồn
nhân lực công nghệ thông tin Việt Nam đến năm 2020 xác định nguồn nhân lực công
nghệ thông tin “bao gồm nhân lực làm việc trong các doanh nghiệp viễn thông, doanh
nghiệp công nghệ công nghệ thông tin; nhân lực cho ứng dụng công nghệ thông tin; nhân

lực cho đào tạo công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông và người sử dụng các ứng dụng
công nghệ thông tin”. Đồng thời, chia nguồn nhân lực công nghệ thông tin làm ba nhóm
là nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong quản lý nhà nướ; nguồn nhân lực công nghệ
thông tin trong công nghiệp công nghệ thông tin và nguồn nhân lực phục vụ ứng dụng,
2


đào tạo công nghệ thông tin.
Phát triển nhân lực công nghệ thông tin là tổng thể các hoạt động nhằm xây dựng
lực lượng lao động công nghệ thông tin đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương nói riêng và của đất nước nói
chung thông qua các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích tài liệu: Đó là phương pháp phân tích tài liệu thông qua những nguồn tài
liệu có sẵn như: các thông tin từ các nguồn như sách, tạp chí, báo cáo liên quan đến
nguồn nhân lực công nghệ thông tin tại thành phố Đà Nẵng.
Phương pháp quan sát: Trong nghiên cứu này, phương pháp quan sát được sử dụng
nhằm quan sát đánh giá sơ bộ về nguồn nhân lực công nghệ thông tin, ngoài ra tiến hành
quan sát các hoạt động được triển khai các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực công nghệ
thông tin trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng nguồn nhân lực công nghệ thông tin tại Đà Nẵng
Những năm qua, Đà Nẵng có nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy ứng dụng và
phát triển công nghệ thông tin, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại.
Công nghệ thông tin thực sự trở thành công cụ quan trọng trong hoạt động của các cấp
chính quyền, đặc biệt trong cung cấp dịch vụ công. Nền công nghiệp công nghệ thông tin
của Đà Nẵng hình thành với gần 1.000 doanh nghiệp, doanh thu năm 2018 đạt 25.200 tỷ
đồng (tăng 16% so với cùng kỳ năm 2017), đóng góp 5% vào GRDP của thành phố [1].
Tuy nhiên, nguồn nhân lực công nghệ thông tin hiện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của
các nhà tuyển dụng, nhất là trong thời kỳ hội nhập.

Về số lượng nhân lực công nghệ thông tin ở thành phố Đà Nẵng
Theo Sở Thông tin & truyền thông, Đà Nẵng hiện có khoảng gần 1000 doanh
nghiệp công nghệ thông tin, thu hút hơn 24.500 lao động. Doanh nghiệp trong lĩnh vực
phần cứng, điện tử thường tuyển dụng lao động phổ thông nên không gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, trong lĩnh vực phần mềm và nội dung số, số lượng và chất lượng đào
tạo nhân lực vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Hiện số lao động làm trong
lĩnh vực này tại Đà Nẵng là hơn 9.500 người, trong khi dự kiến đến năm 2020 con số này
phải đạt 19.500 người mới đáp ứng đủ [2]. Hiện nay, trên địa bàn Đà Nẵng nhiều khu
công nghệ thông tin, Khu Công viên phần mềm đang hoạt động và chuẩn bị đưa vào hoạt
3


động, cần rất nhiều nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Khu FPT Complex hiện có
3.500 người làm việc; đang hướng đến mục tiêu 10.000 nhân lực, trung bình mỗi năm
cần cung cấp hơn 3.000 nhân lực công nghệ thông tin; Khu Công viên phần mềm số 2 (5
ha) được quy hoạch để phục vụ cho từ 6.000-8.000 nhân lực công nghệ thông tin làm
việc; Khu công nghệ thông tin tập trung Đà Nẵng vừa khánh thành giai đoạn 1 vào ngày
29/3/2019, ước tính đến 2025 cần khoảng 10.000 người làm việc; Khu Công viên phần
mềm số 1 mở rộng (Hòa Xuân, Cẩm Lê) được quy hoạch để phục vụ cho 12.000 nhân lực
công nghệ thông tin làm việc.
Về chất lượng nhân lực công nghệ thông tin ở thành phố Đà Nẵng
Khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp cho thấy, chất lượng lao động làm việc trong
ngành công nghệ thông tin trên địa bàn thành phố Đà Nẵng những năm gần đây tăng rõ
rệt, trình độ trên đại học trong 3 năm tăng thêm hơn 700 người (tăng gần 20%/năm), trình
độ đại học tăng thêm 5.870 người (tăng 10,67%/năm), lao động chưa qua đào tạo có tỷ
trọng thấp (chiếm 1,76%) nhưng có xu hướng giảm dần (giảm gần 3%/năm) [1]. Như
vậy, nguồn nhân lực công nghệ thông tin hiện nay có chất lượng đầu vào cao và tăng dần.
Bên cạnh trình độ chuyên môn cơ bản, người lao động cần có kỹ năng mềm như: xây
dựng kế hoạch, quản lý tiến độ, khả năng nghiên cứu nắm bắt công nghệ mới, ngoại
ngữ... Nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Đà Nẵng hiện nay có trình độ chuyên môn

khá cao nhưng vẫn còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ, kỹ năng thuyết trình, giao tiếp,
năng lực tổ chức dẫn đến năng suất lao động chưa cao.
Về công tác đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng hiện có 38 cơ sở đào tạo nhân lực công nghệ thông tin, trong đó có 13
trường Đại học, Cao đẳng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin, các cơ sở còn lại
là các trung tâm đào tạp lập trình viên quốc tế và các trung tâm dạy nghề trên địa bàn
thành phố (bảng 1). Trong đó, Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Đại học sư phạm Đà Nẵng là
hai trường tham gia đào tạo nhân lực công nghệ thông tin sớm nhất trong khối các trường
Đại học. Một số các trường Cao đẳng đào tạo chuyên sâu về công nghệ thông tin như:
Cao đẳng Công nghệ thông tin, Cao đẳng Công nghệ thông tin hữu nghị Việt – Hàn,…
Khối giáo dục nghề nghiệp có Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng và một số các trường
trung cấp nghề, các trung tâm dạy nghề cũng tham gia đào tạo nguồn nhân lực công nghệ
thông tin ở các trình độ Cao đẳng Nghề, Trung cấp Nghề, sơ cấp Nghề [5]. Công tác đào
tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin đã có nhiều cải thiện đáng kể trong việc giúp
4


sinh viên định hướng nghề nghiệp, trang bị kiến thức trước khi bước vào môi trường lao
động chuyên nghiệp, bằng cách liên kết với các doanh nghiệp công nghệ thông tin để tổ
chức các sự kiện giới thiệu công nghệ mới, hướng nghiệp, kết nối việc làm. Ở một số
ngành học, doanh nghiệp cũng tham gia định hướng chương trình đào tạo của nhà trường
để đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng.
Bảng 1. Các trường Đại học, Cao đẳng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở
thành phố Đà Nẵng hiện nay
TT
1
2
3
4
5

6
7
8
9
10
11
12
13

Cở sở đào tạo

Quy mô tuyển
sinh hàng năm
Đại học sư phạm Đà Nẵng
650
Đại học Bách khoa Đà Nẵng
300
Đại học Đông Á
240
Đại học Duy Tân
800
Đại học FPT
500
Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin
300
Trường Cao đẳng CNTT Hữu nghị Việt Hàn
600
Đại học sư phạm kỹ thuật Đà Nẵng
180
Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng

150
Trường Cao đẳng Bách khoa Đà Nẵng
100
Khoa CNTT&Truyền thông – Đại học Đà Nẵng
500
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kế hoạch Đà Nẵng
100
Trường Cao đẳng Lương thực – Thực phẩm
100
(Nguồn: Kết quả điều tra, tổng hợp do tác giả thực hiện)

Các trường Đại học, Cao đẳng ở Đà Nẵng mỗi năm cung ứng cho thị trường khoảng
3.000 sinh viên tốt nghiệp. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin trẻ, trình độ chuyên môn
khá, cần cù và chịu khó, bên cạnh chi phí nguồn nhân lực rẻ. Trong quá trình đào tạo
nguồn nhân lực công nghệ thông tin, các trường Đại học, Cao đẳng đã có nhiều cách làm
mới, sáng tạo. Tuy nhiên, kết quả tuyển sinh, đào tạo những năm qua đạt thấp, nhất là hệ
giáo dục nghề nghiệp có năm tuyển sinh chỉ đạt hơn 1.000 học sinh, sinh viên ở cả 3 cấp
(từ sơ cấp đến cao đẳng) và chỉ đạt dưới 50% công suất đào tạo của các trường. Do đó,
nguồn nhân lực cho ngành công nghệ thông tin thành phố chưa đáp ứng được yêu cầu.
Một số hạn chế của nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở thành phố Đà Nẵng
Nguồn nhân lực công nghệ thông tin đang bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, rơi vào tình
trạng “vừa thừa, vừa thiếu”, mâu thuẫn cung - cầu khá nghiêm trọng, đặc biệt trong lĩnh
vực phần mềm và nội dung số, số lượng và chất lượng đào tạo chưa tiệm cận được nhu
cầu tuyển dụng của doanh nghiệp.
Phần lớn nhân lực công nghệ thông tin còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ và các kỹ
5


năng mềm, như: Giao tiếp, thuyết trình, làm việc nhóm, quản lý thời gian, thiếu định
hướng nghề nghiệp, sự chủ động và khả năng tự nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới. Các

cơ sở đào tạo cũng chưa chú trọng đào tạo các kỹ năng mềm cho sinh viên . Điều này làm
giảm năng lực cạnh tranh của nhân sự công nghệ thông tin Đà Nẵng.
Thiếu nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, như: Trưởng nhóm (team
leader), quản trị dự án (project manager), kỹ sư cầu nối (bridge engineering)... khan hiếm,
trong khi nhu cầu doanh nghiệp về lực lượng này rất cao, dẫn đến tình trạng doanh
nghiệp chèo kéo, người lao động nhảy việc gây nên sự xáo trộn và thiếu tính bền vững.
Đặc biệt, Đà Nẵng hiện đang thiếu hụt trầm trọng nhân lực công nghệ thông tin có trình
độ chuyên môn sâu và kinh nghiệm làm việc trong các lĩnh vực ưu tiên, như: Sản xuất
các sản phẩm ứng dụng chuyên cho thiết bị di động; ứng dụng phục vụ chính quyền điện
tử, thành phố thông minh, nhất là nhân lực lĩnh vực an toàn, an ninh thông tin [1]. Thành
phố chỉ mới chú trọng công tác đào tạo nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao để
làm việc trong khu vực công, chưa quan tâm thu hút được các chuyên gia công nghệ
thông tin hàng đầu trong và ngoài nước đến làm việc tại Đà Nẵng, chưa quan tâm chuyển
giao nhân lực chất lượng cao đã đào tạo từ nguồn ngân sách của thành phố cho các đối
tượng thụ hưởng là doanh nghiệp.
Sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực công
nghệ thông tin chưa thật sự hiệu quả. Nhà trường cũng khó xác nhận chất lượng đào tạo
từ doanh nghiệp, khó sắp xếp lịch đào tạo để thuận tiện đôi bên. Để hợp tác đào tạo thành
công, doanh nghiệp cần cam kết duy trì, bảo đảm nguồn lực và chất lượng khóa học.
Mặc dù thành phố đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách phát triển nhân lực công
nghệ thông tin nhưng chưa có đầu tư nguồn lực thỏa đáng, nhất là lĩnh vực phần mềm và
nội dung số; chưa đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút các thành phần kinh tế tham gia đào tạo
nhân lực hay ưu đãi sử dụng nhân lực công nghệ thông tin, dẫn đến sự thiếu hụt nhân lực
cung ứng cho thị trường việc làm. Công tác hướng nghiệp nói chung và hướng nghiệp
ngành công nghệ thông tin nói riêng trên địa bàn đối với học sinh tại các trường trung
học phổ thông chưa được quan tâm và đổi mới phương thức thực hiện.
Như vậy, thành phố Đà Nẵng đang cần rất nhiều nhân lực công nghệ thông tin. Dự
báo đến năm 2025, Đà Nẵng cần khoảng 46.000 nhân lực về lĩnh vực phần mềm và nội
dung số. Chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin là vấn đề rất cần
thiết đối với thành phố Đà Nẵng hiện nay.

6


2.2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Đà Nẵng
hiện nay
Một là, đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Trước tiên
các trường đại học, cao đẳng phải kiện toàn đội ngũ chuyên gia, giảng viên trực tiếp
giảng dạy. Các trường cần có chính sách thu hút giảng viên có trình độ chuyên môn cao
trong lĩnh vực này, nhất là những tiến sĩ, thạc sĩ trẻ, năng động, tràn đầy tâm huyết được
đào tạo, tu nghiệp trong và ngoài nước. Phương pháp giảng dạy đối với môn thuộc về
công nghệ nên tăng cường tính thực tiễn thông qua khảo sát thực tế, thực hành tại phòng
thí nghiệm chuyên ngành, thực tập tại các cơ sở sản xuất. Vì vậy, nhà trường và doanh
nghiệp luôn luôn gắn kết, cần thiết kế các buổi giới thiệu công nghệ mới do hai bên phụ
trách. Đổi mới nội dung chương trình đào tạo theo hướng cập nhật và ứng dụng thực tiễn
cao vừa bảo đảm giảm thiểu khối kiến thức hàn lâm và tập trung nhiều vào kiến thức ứng
dụng thực tế.
Hai là, đầu tư cơ sở vật chất phục vụ đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin.
Bên cạnh đó, để có các điều kiện nhằm thực hiện đào tạo đạt chất lượng, các trung tâm,
các trường đại học, cao đẳng cũng phải tập trung đầu tư các trang thiết bị, máy móc để
phục vụ cho quá trình giảng dạy ở ngành này. Các trung tâm, đơn vị đào tạo phải đề xuất
tư duy mới, cập nhật ứng dụng thực tiễn địa phương để xây dựng chương trình đào tạo
một cách hiệu quả nhất kể cả việc đổi mới phương pháp dạy và học phù hợp, tạo điều
kiện tối đa để sinh viên có thể tiếp cận với các tài liệu, phần mềm hỗ trợ cần thiết như
giáo trình điện tử, kho học liệu. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông
tin có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng, phù hợp với sự phát triển của xã hội, trước tiên
cần có sự phân bố hợp lý giữa đào tạo cơ bản và đào tạo công nghệ thực tiễn, giữa lý
thuyết và thực hành. Trong thời gian qua, sinh viên tốt nghiệp có kiến thức cơ bản tốt, tuy
nhiên những kiến thức về công nghệ mới lại không được cập nhật. Do đó, chương trình
đào tạo, bài giảng phải có phần mở, phần linh hoạt để bổ sung kiến thức công nghệ mới
[4].

Ba là, xây dựng các chương trình đào tạo định hướng ứng dụng, trong đó chú trọng
kỹ năng thực hành của sinh viên tại cơ sở đào tạo. Thậm chí, thiết kế chương trình có
thời lượng dày đặc về thực hành, trải nghiệm tại doanh nghiệp, tham gia giải quyết các
vấn đề. Các trường Đại học, Cao đẳng cần phát triển các mô hình đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao cho những người đã tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng đi làm nhưng muốn chuyển
7


đổi ngành nghề. Họ có thể theo học khóa ngắn hạn bồi dưỡng chuyên sâu trong một lĩnh
vực của công nghệ thông tin để được cấp chứng chỉ. Nhà nước sớm thống nhất quản lý về
hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, chuẩn đào tạo, chuẩn nghề nghiệp công nghệ thông
tin và cấp chứng chỉ đối với các cơ sở đào tạo cho mọi loại hình đào tạo nguồn nhân lực
công nghệ thông tin.
Bốn là, tăng cường liền kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn
nhân lực công nghệ thông tin. Doanh nghiệp và cơ sở đào tạo phải có chiến lược, vừa chủ
động tự xây dựng nguồn lực vừa hợp tác chặt chẽ để khai thác thế mạnh của nhau. Việc
doanh nghiệp liên kết với nhà trường không nên chỉ dừng lại ở các buổi hội thảo, ngày
hội tuyển dụng được tổ chức tại trường mà còn mở rộng ra các nội dung như: trực tiếp
tham gia xây dựng chương trình đào tạo; tham gia hội đồng và tài trợ các cuộc thi học
thuật; tài trợ học bổng, cho sinh viên tham quan, kiến tập, thực tập. Để tăng cường sự
phối hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực công nghệ
thông tin, nên quan tâm đến 4 yếu tố: doanh nghiệp dự báo nhu cầu nhân sự và các yêu
cầu chất lượng; doanh nghiệp đặt hàng, xây dựng chuẩn đầu ra cho nhà trường; nhà
trường và doanh nghiệp phối hợp cung cấp địa điểm, giảng viên; mạng lưới các trường và
doanh nghiệp trao đổi chương trình, công nhận tín chỉ của nhau.
Đối với việc liên kết đào tạo, nhà trường cũng linh hoạt bằng cách cho phép các
khóa đào tạo chuyên môn trực tuyến của một số doanh nghiệp công nghệ thông tin lớn
thành các tín chỉ, sinh viên học xong vừa được doanh nghiệp cấp bằng vừa có tín chỉ từ
nhà trường. Để nhà trường và doanh nghiệp có thể gắn kết nhau hơn, chính quyền thành
phố nên có một diễn đàn, nơi các cơ sở đào tạo gặp gỡ với các giám đốc của các doanh

nghiệp. Mặc dù, các cơ sở đào tạo hiện nay đều rất nỗ lực đưa doanh nghiệp đến gần với
nhà trường hơn, nhưng để có tiếng nói chung, thì nhà trường và doanh nghiệp phải cùng
bắt tay nhau hợp tác chặt chẽ hơn nữa. Các cơ sở đào tạo nên cập nhật thông tin về sinh
viên của mình như ngành nghề đào tạo, các kỹ năng… lên hệ thống dữ liệu này để doanh
nghiệp chủ động chọn sinh viên phù hợp với môi trường doanh nghiệp để thực tập cũng
như phối hợp nhà trường đào tạo nguồn nhân lực này.
Năm là, chú trọng đào tạo các kỹ năng ngoại ngữ cho sinh viên, tổ chức tuyển sinh
đầu vào ngành công nghệ thông tin có thêm môn ngoại ngữ, ngoài việc nâng cao chất
lượng tuyển sinh đầu vào, rèn luyện kỹ năng ngoại ngữ cho sinh viên, thành lập Quỹ học
bổng cho các bạn sinh viên có nỗ lực học ngoại ngữ. Đồng thời, đưa vào chương trình
8


đào tạo các kỹ năng mềm cần thiết cho sinh viên để giúp các em có được những kỹ năng
cần thiết sau khi ra trường có thể tự tìm kiếm được việc làm.
Sáu là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công
nghệ thông tin. Hợp tác đào tạo với các trường nước ngoài đang là xu hướng chung của
rất nhiều trường đại học. Hình thức này mở ra cơ hội cho sinh viên được tiếp cận với nền
giáo dục quốc tế ngay tại Việt Nam với chi phí rẻ hơn rất nhiều so với học tại chính quốc.
Phương pháp đào tạo nên được thiết kế theo chuẩn quốc tế, tập trung vào năm khối kiến
thức: Ngoại ngữ, Kiến thức xã hội, Phát triển cá nhân, Giáo dục chuyên nghiệp và Thực
tập công nghiệp. Sinh viên tốt nghiệp ra trường không chỉ có năng lực chuyên môn tốt
nhờ rèn luyện từ trên ghế nhà trường và qua giai đoạn thực tập công nghiệp như một
nhân sự chính thức tại các công ty công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam, mà còn có
khả năng làm việc trong môi trường quốc tế [4].
Bảy là, nâng cao chất lượng công tác thống kê, dự báo, xây dựng kế hoạch, quy
hoạch phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Để triển khai công tác quy hoạch
nguồn nhân lực công nghệ thông tin, trên cơ sở quy hoạch phát triển công nghệ thông tin
của thành phố, cần xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin thành
phố đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 nhằm đề ra các giải pháp hữu hiệu để

phát triển nhân lực công nghệ thông tin đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có cơ cấu
hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực công nghệ thông tin.
Tám là, có chính sách thu hút và sử dụng nhân tài công nghệ thông tin. Chính sách
phát triển nguồn nhân lực và thu hút nhân tài công nghệ thông tin phải bao gồm khả năng
tuyển chọn và sử dụng hợp lý có hiệu quả nguồn nhân lực công nghệ thông tin, tạo động
lực kích thích tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi con người, hạn chế và khắc phục
tính thụ động, từ đó tạo ra nội lực phát triển của mỗi cá nhân và xã hội. Sử dụng và đãi
ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin chuyên trách, nhất là những
chuyên gia đầu đàn về công nghệ thông tin. Để thực hiện được chính sách phát triển, thu
hút nguồn nhân lực công nghệ thông tin thực sự có tài năng, thành phố cần phải xây dựng
và hướng dẫn tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ công nghệ thông tin cho các cơ quan hành
chính công, xác lập chức danh chuyên viên công nghệ thông tin trong hệ thống công chức
nhà nước và phải có chính sách trả tiền lương và đãi ngộ thỏa đáng, có những hình thức
tuyên dương, khen thưởng cho đối tượng này, tạo một “sân chơi” về công nghệ thông tin
để đội ngũ cán bộ công chức học tập, rèn luyện.
9


4. KẾT LUẬN
Những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng có sự
đóng góp không nhỏ của ngành công nghệ thông tin. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu thực
tế, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Đà Nẵng cần chú trọng phát
triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng. Nguồn
nhân lực công nghệ thông tin của thành phố cần được phát triển theo chiều rộng và chiều
sâu theo hướng được đào tạo về chuyên môn, kỹ thuật bài bản; có kỹ năng mềm, có đạo
đức, kỷ luật nghề nghiệp. Đồng thời, thành phố cũng sẽ thu hút nhân lực chất lượng cao
về công nghệ thông tin trong khu vực và trên thế giới. Thành phố Đà Nẵng cần đầu tư
nguồn lực thỏa đáng cho phát triển nhân lực ngành công nghệ thông tin; phối hợp với các
bộ, ngành liên quan, chỉ đạo các cơ sở đào tạo điều chỉnh, tăng chỉ tiêu tuyển sinh ngành
công nghệ thông tin gắn với nâng cao chất lượng đào tạo. Các nhà trường, cơ sở đào tạo

ngành công nghệ thông tin cần chủ động đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, chú
trọng tăng thời lượng thực hành, các kỹ năng mềm cho sinh viên; chủ động phối hợp, liên
kết hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ thông tin trong đào tạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Văn Chung (2019), “Chú trọng phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông
tin”, .
[2]. Khang Ninh (2018), “Đầu tư nguồn nhân lực công nghệ thông tin”,
.
[3]. Võ Đức Hòa (2016), “Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin của việt
Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế, Đại học
Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[4]. Lê Đức Thọ, Ngô Quang Hùng (2019), “Phát triển nguồn nhân lực công nghệ
thông tin ở nước ta trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 – Thực trạng và một
số giải pháp”, Kỷ yếu hội thảo: “Tác động của cách mạng công nghiệp đến quan hệ lao
động và chất lượng việc làm trong doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hiện nay”, Nxb. Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
[5]. Lê Đức Thọ (2019), “Đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin tại các
trường Đại học, Cao đẳng hiện nay – Thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học: “Đào tạo ngành công nghệ thông tin và du lịch đáp ứng nguồn nhân lực theo cơ chế
đặc thù”, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, tr.34-41.
10



×