Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.51 KB, 30 trang )

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN
HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu chung về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập ngày 26/4/1957
theo quyết định số 177/TTg của Thủ tướng Chính phủ với tên gọi đầu tiên là
Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (trực thuộc Bộ Tài chính) và là một trong hai
ngân hàng ra đời sớm nhất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Ngày 24/6/1981, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam được đổi tên thành
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam theo quyết định số 259/CP của Hội đồng Chính phủ. Nhiệm vụ chủ yếu
của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư
xây dựng cơ bản trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thuộc kế hoạch Nhà
nước.
Ngày 14/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam chính thức
đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo quyết định số
401/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với một nhiệm vụ mới: tiếp tục nhận
vốn ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước; huy động
các nguồn vốn trung dài hạn để cho vay đầu tư phát triển; kinh doanh tiền tệ, tín
dụng và dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát
triển.
Từ 1/1/1995 đến nay, BIDV đã có sự thay đổi cơ bản: Được phép kinh
doanh đa năng tổng hợp như một ngân hàng thương mại, phục vụ chủ yếu cho
đầu tư phát triển của đất nước. Đây được ghi nhận là thời kỳ “chuyển mình, đổi
mới, lớn lên cùng đất nước”; chuẩn bị nền móng vững chắc và tạo đà cho sự
“cất cánh” của BIDV.
Với hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam đã đạt đựoc những thành tựu quan trọng, góp phần đắc lực cùng
toàn ngành Ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
2.1.2. Thuận lợi và khó khăn


2.1.2.1. Thuận lợi
Trong thời gian vừa qua, BIDV đã gặt hái được những thành công nhất
định, tạo nên vị thế riêng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
- Là một trong hai ngân hàng ra đời sớm nhất trong hệ thống, BIDV có
mối quan hệ hợp tác lâu dài với rất nhiều doanh nghiệp, tổng công ty lớn như:
VNPT, VINACONEX, VINASHIN,…
- BIDV có mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc với 108 chi nhánh cấp I
tính đến cuối năm 2008, xếp thứ hai trong toàn ngành. Đồng thời, hệ thống công
nghệ thông tin của BIDV đã được hiện đại hoá tại tất cả các chi nhánh, tạo điều
kiện triển khai đồng bộ, hiệu quả các sản phẩm dịch vụ mới trên phạm vi toàn
quốc. Mạng lưới chi nhánh rộng không chỉ làm tăng vị thế của BIDV đối với
các NHTM trong nước mà còn là lợi thế khi cạnh tranh đối với các ngân hàng
nước ngoài.
- BIDV là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam tham gia tổ chức định hạng
toàn cầu, qua đó khẳng định cam kết minh bạch hoá tài chính và áp dụng các
chuẩn mực quốc tế. Hiện nay, năng lực tài chính độc lập của BIDV đã được xếp
hạng E+ với triển vọng ổn định, là mức xếp hạng kịch trần quốc gia.
- BIDV là ngân hàng có uy tín nổi bật trong lĩnh vực đầu tư dự án, cho
vay xây dựng cơ bản và cho vay trung dài hạn.
- Dịch vụ ngày càng trở thành lĩnh vực kinh doanh thế mạnh của BIDV.
Thu dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực, thu dịch vụ ròng năm 2008 đạt 1953
tỷ, tăng 2,19 lần so với năm 2007. BIDV không ngừng đa dạng hoá các sản
phẩm dịch vụ và chuyên nghiệp hoá trong công tác nghiên cứu, thử nghiệm và
triển khai đại trà các sản phẩm, gắn công tác phát triển dịch vụ với việc phát
triển thương hiệu và hình ảnh của BIDV, tạo ra những sản phẩm dịch vụ mang
tính riêng có và chuyên biệt, được khách hàng ghi nhận, đánh giá cao. Ví dụ
như BIDV và Techcombank là hai ngân hàng đầu tiên được NHNN cho triển
khai dịch vụ cà phê tương lai, tạo tiền đề phát triển các dịch vụ: giao dịch phái
sinh, bảo hiểm rủi ro giá đối với các hàng hoá khác như xăng, dầu thô,…
- BIDV có cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại, tiên tiến. Vừa

qua BIDV đã ký thoả thuận sở hữu vĩnh viễn toàn bộ 6000 giấy phép Office
Standard 2007 và bất cứ phiên bản mới nào mà Microsoft đưa ra thị trường
trong 3 năm tới. Với thoả thuận này, BIDV trở thành NHTM đầu tư mạnh nhất
vào phần mềm Microsoft có bản quyền. Đặc biệt, trong năm 2008, BIDV đã đưa
vào sử dụng trung tâm dự phòng thảm hoạ, là NHTM đầu tiên trong hệ thống
xây dựng và hoàn thiện hệ thống quan trọng này, ký thoả thuận hợp tác với IBM
hỗ trợ xây dựng chiến lược phát triển thông tin của BIDV giai đoạn 2006 –
2010.
2.1.2.2. Khó khăn
- Các chỉ số tài chính, khả năng sinh lời của BIDV theo
chuẩn kế toán Việt Nam là tương đối phù hợp nhưng theo chuẩn kế toán quốc tế
thì còn thấp, chưa tương xứng với quy mô và tiềm năng. ROA là 0,75% trong
khi chuẩn mực tối thiểu là 1%, ROE là 13,6% trong khi chuẩn mực tối thiểu là
15%. Hệ số CAR mới đạt ở mức tối thiểu theo quy định và chưa ổn định. Chỉ số
này nếu so với các NHTM trong nước thì khá cao nhưng nếu so với các ngân
hàng nước ngoài thì vẫn còn rất khiêm tốn, đặc biệt trong điều kiện hội nhập
hiện nay. Đây chính là điểm yếu không chỉ của BIDV mà của tất cả các NHTM
Việt Nam khi muốn vươn lên trở thành một ngân hàng có tầm cỡ trong khu vực.
- Công tác Marketing sản phẩm cũng như quảng bá hình
ảnh chưa thực sự được chú trọng. Cán bộ chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng
bán hàng, thuyết phục khách hàng, chưa chủ động trong việc giới thiệu và bán
chéo sản phẩm ngân hàng.
- Hệ thống thông tin, nguồn dữ liệu chưa đồng bộ và
chưa được khai thác triệt để dẫn tới mặc dù nguồn thông tin nhiều nhưng tiện
ích lại kém.
- Việc thể hiện sự nhanh nhạy ứng biến với thị trường,
đặc biệt tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhận thức và đi đến các biện pháp
điều hành vẫn còn phải chờ đợi thời gian. Ví dụ như BIDV phản ứng khá nhanh
trước vụ đổ vỡ của ngân hàng Mỹ Lehman Brothers; nhưng khi thị trường Mỹ
trở nên ổn định hơn qua các giải pháp hỗ trợ của Chính phủ Mỹ thì việc đầu tư,

tham gia trở lại thị trường quốc tế lại chậm, dẫn đến giảm hiệu quả trong đầu tư
nguồn vốn ngoại tệ.
- Trong quá trình hội nhập, việc vận hành kiến thức, tri
thức về kinh tế thị trường còn nhiều bất cập ở đội ngũ quản lý điều hành các
cấp. Công tác tuyên truyền, phổ biến các quyết định của Ban lãnh đạo tới các
đơn vị thành viên chưa được quán triệt thấu đáo. Trước những đảo chiều khó
lường thì quyết định của Ban lãnh đạo đưa ra nhanh nhưng lại chưa được giải
thích cặn kẽ dẫn đến việc các chi nhánh còn nhiều băn khoăn trong quá trình tổ
chức thực hiện (điều hành tăng giảm lãi suất; xác định danh mục định chế tài
chính quốc tế cần chú ý đặc biệt).
2.1.3. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam
Năm 2008 dù là năm hoạt động kinh doanh của BIDV trải qua nhiều biến
đông, nhưng với nỗ lực của toàn hệ thống, phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch kinh
doanh chủ yếu đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức tiến độ, kế hoạch đề ra,
đặc biệt là các chỉ tiêu chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh, thể hiện
trên các mặt sau:
Bảng 2.1: Tình hình hoạt động kinh doanh của BIDV năm 2008
TT Chỉ tiêu
TH
2007
KH
2008
TH 2008
Tuyệt
đối
TT so
với 2007
%
HTKH

2008
Các chỉ tiêu quy mô
1 Tổng tài sản
204992 240000 243867 19% 111%
2 Huy động vốn CK
159964 194500 201141 25.70% 119%
Huy động vốn bình quân
142500 164000 158466 11.20% 74%
3 Dư nợ tín dụng cuối kỳ (cả
TTUT)
125660 158470 26.10%
Dư nợ tín dụng (không tính
TTUT, Leasing)
118106 150208 149419 26.50% 98%
Dư nợ tín dụng bình quân
103290 133000 135488 31.20% 108%
Các chỉ tiêu hiệu quả
4 Chênh lệch thu chi
5557 6200 6338 14.10% 102%
5 Trích dự phòng rủi ro trong năm 3445 3300 3910 13.50% 118%
6 Lợi nhuận trước thuế
2112 2900 2428 15% 84%
7 Thu nợ hạch toán ngoại bảng
1979 900 871 97%
8 Thu dịch vụ ròng
8892 2100 1953 118.90% 93%
9 ROA
0.87% 0.92% 0.75%
10 ROE
13.40% 17.20% 13.60%

11 CAR (ALCO)
11% 9.04% 8.64%
Các chỉ tiêu cơ cấu, chất lượng

12 Tỷ lệ dư nợ TDH/Tổng dư nợ 38% 40% 38%
13 Tỷ lệ dư nợ NQD/Tổng dư nợ 65% 70% 70%
14 Tỷ lệ dư nợ có TSĐB/Tổng DN
71% 70% 70%
15 Tỷ lệ nợ xấu
3.22% 3% 2.05%
16 Dư nợ xấu
3677 3125
16 Tỷ lệ dư nợ (không TTUT,
Leasing, NK)/Tổng tài sản
57.70% 62% 61%
17 Tỷ lệ dư nợ nhóm 2/Tổng dư nợ 21% 17.60% 17.80%
18 Vốn điều lệ
7699 8692 12.90%
Vốn và các quỹ
11163 15098 35.30%
19 Dư nợ/Huy động vốn
79% 80% 83%
20 Đầu tư/Tổng tài sản
12% 12%
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2008:
• Các chỉ tiêu quy mô, tăng trưởng: Đạt quy mô tăng trưởng cao, hợp lý,
đảm bảo giữ được vị thế, thị phần trên thị trường tài chính tiền tệ, đồng thời góp
phần đắc lực vào việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ:
- Tổng tài sản đạt 243.867 tỷ, tăng 19% so với năm 2007, hoàn thành
111% kế hoạch năm.

- Huy động vốn đạt 201.141 tỷ, tăng trưởng 25,7% so với năm 2007;
hoàn thành 121% kế hoạch năm. Huy động vốn bình quân đạt 158.466 tỷ, tăng
11,2% so với năm 2007. Thị phần huy động vốn của BIDV năm 2008 đạt 13,3%
tăng nhẹ so với mức 13,2% cuối năm 2007.
- Tổng dư nợ tín dụng (bao gồm TTUT và cho thuê tài chính) đạt
158.470 tỷ tăng 26,1% so với năm 2007. Thị phần tín dụng của BIDV trong hệ
thống NHTM năm 2008 đạt 12,4%; tăng 0.7% so với mức 11,7% cuối năm
2007.
- Dư nợ tín dụng cho vay nền kinh tế (không bao gồm TTUT và cho
thuê tài chính) đạt 149.419 tỷ tăng 26,5% so với năm 2007, đạt 98% kế hoạch
tăng trưởng tín dụng. Trong 9 tháng đầu năm: mức tăng tín dụng là 19.098 tỷ
đồng, đặc biệt tính riêng Quý 4/2008, mức tăng đạt 12.215 tỷ đồng (chiếm 39%
mức tăng tín dụng trong năm). Mức tăng trưởng mạnh này (khi nền kinh tế xuất
hiện dấu hiệu suy giảm) đã bổ sung nguồn vốn tập trung cho xuất khẩu, các dự
án trọng điểm cần đẩy nhanh tiến độ, cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa,… đã
góp phần quan trọng là kênh dẫn vốn kịp thời cho các doanh nghiệp đẩy mạnh
sản xuất, xuất khẩu trong Quý 4/2008.
- BIDV luôn nghiêm túc thực hiện theo chủ trương của Chính phủ và
chỉ đạo của NHNN:
+ Kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo đúng chỉ đạo, kiềm chế tốc độ
tăng trưởng tín dụng ở mức 27%.
+ Đồng thời, BIDV là ngân hàng tiên phong trong cắt giảm lãi suất
hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất ra các sản
phẩm thiết yếu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tài trợ xuất khẩu (trong vòng 5 tháng
cuối năm 2008 đã thực hiện 10 lần cắt giảm lãi suất cho vay từ 21% xuống
10%). Với động thái trên, dư nợ tín dụng của BIDV trong 5 tháng cuối năm
2008 đã tăng ròng 18943 tỷ đồng so với mức tăng dư nợ tín dụng 7 tháng đầu
năm chỉ là 12.730 tỷ đồng.
- Thu dịch vụ ròng đạt 1.953 tỷ, tuy chỉ hoàn thành 93% kế hoạch
năm nhưng đã có mức tăng trưởng rất cao; gấp 2,19 lần so với năm trước, thể

hiện sự nỗ lực và cố gắng của toàn ngành trong công tác dịch vụ. Kết quả này
đã đưa BIDV lần đầu tiên đứng đầu hệ thống NHTM về kết quả hoạt động dịch
vụ.
- Doanh số mua bán ngoại tệ: ước đạt 41 tỷ USD, tăng 80% so với
năm 2007.
Nhìn chung các chỉ tiêu quy mô thực hiện đến 31/12/2008 đều có tăng
trưởng so với năm 2007 và hoàn thành 100% kế hoạch kinh doanh đề ra. Tuy
nhiên tính bền vững vẫn chưa được đảm bảo: tốc độ tăng trưởng huy động vốn
thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng thể hiện qua số bình quân (11,2% huy
động vốn bình quân và 31,2% so với dư nợ tín dụng bình quân)…ảnh hưởng
đến khả năng thanh khoản, khả năng cân đối nguồn vốn – sử dụng vốn theo loại
tiền và kỳ hạn.
• Các chỉ tiêu chất lượng: Tiếp tục chuyển dịch theo đúng hướng chỉ
đạo của Hội đồng quản trị:
- Thu nợ hạch toán ngoại bảng đạt 871 tỷ, hoàn thành 97% kế hoạch
năm. Nếu tính cả các khoản nợ đã ký hợp đồng bán nợ nhưng chưa thu được
tiền trong năm thì chỉ tiêu này đạt 1.043 tỷ đồng, hoàn thành 116% kế hoạch
năm.
- Tỷ lệ nợ xấu: theo điều 7 quyết định 493 (tương đương với chuẩn
mực quốc tế) được kiểm soát chặt chẽ. Tỷ lệ nợ xấu đến 31/12/2008 đã được
kiểm soát <3% (đạt 2,05%, giảm tuyệt đối 552 tỷ so với đầu năm). Chất lượng
tín dụng được cải thiện mạnh mẽ so với năm 2007 là do trong năm 2008 BIDV
đã tập trung thực hiện thu nợ vay chứng khoán, thắt chặt cho vay bất động sản,
cơ cấu lại các khoản nợ gặp khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính
thế giới theo chủ trương của Chính phủ, tập trung thu nợ xấu trong bảng, đồng
thời gắn với đánh giá định hạng doanh nghiệp, cho vay có chọn lọc, kiểm soát
chặt chẽ tăng trưởng gắn với chất lượng tín dụng.
- Tỷ trọng nợ nhóm 2/Tổng dư nợ: đạt 17,8%, giảm so với tỷ trọng
21% thời điểm đầu năm, gần đạt so với kế hoạch được giao (kế hoạch: 17,6%,
theo khuyến nghị của Moody’s: ≤12%).

- Tỷ trọng dư nợ trung dài hạn chiếm 38% tổng dư nợ (kế hoạch:
40%)
- Dư nợ có tài sản đảm bảo chiếm 70% tổng dư nợ (kế hoạch: 70%).
- Dư nợ ngoài quốc doanh chiếm 70% tổng dư nợ (kế hoạch: 70%).
Như vậy, nhìn chung các chỉ tiêu chất lượng đều diễn biến tương đối theo
hướng mục tiêu, dù một số tỷ trọng biến động chưa đạt yêu cầu (tỷ lệ nợ nhóm
2/ Tổng dư nợ còn cao, tỷ lệ bán lẻ/Tổng dư nợ đạt thấp,…).
• Các chỉ tiêu, chỉ số về hiệu quả và an toàn hoạt động: Hoàn thành xuất
sắc và tiếp tục duy trì hiệu quả kinh doanh ở mức cao:
- Chênh lệch thu – chi (gồm thu nợ hạch toán ngoại bảng) đạt 6.338
tỷ, đạt 102% kế hoạch năm, tăng 14,1% so với năm 2007.
- Trích đủ dự phòng rủi ro theo quyđịnh: Năm 2008 trích được 3.910
tỷ dự phòng rủi ro, hoàn thành 118% kế hoạch, đưa dư quỹ dự phòng rủi ro đạt
5.874 tỷ đồng.
- Lợi nhuận trước thuế đạt 2.428 tỷ, hoàn thành 84% kế hoạch năm.
- Các chỉ số về hiệu quả kinh doanh còn thấp hơn mục tiêu đề ra:
Chỉ sos ROE đạt 13,6%. Chỉ số ROA đạt 0,75%. Hệ số an toàn vốn CAR đạt
8,64%.
Có thể nói, các chỉ số hiệu quả về cơ bản vẫn duy trì ở mức năm 2007 là
do trong năm BIDV đã quán triệt quan điẻm chỉ đạo của Chính phủ và NHNN
về việc chủ động chia sẻ khó khăn với khách hàng thong qua công cụ lãi suất
dẫn đến thu nhập ròng từ lãi giảm sút so với tiềm năng thực tế.
Tóm lại: Trong bối cảnh nền kinh tế trong và ngoài nước diễn biến
nhanh, phức tạp và khó dự đoán, kết quả đạt được trong giai đoạn 2006-2008 và
đặc biệt năm 2008, của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam có thể nói là một sự nỗ
lực, sự cố gắng phi thường của tập thể cán bộ công nhân viên trong toàn hệ
thống BIDV, đặc biệt là sự quyết liệt, tỉnh táo, sự năng động, sáng tạo trong
điều hành của Ban lãnh đạo đã đưa ra các quyết sách điều chỉnh kịp thời, thích
ứng với tình hình thị trường đưa hoạt động của BIDV vượt qua những khó
khăn, thách thức để hoàn thành một cách toàn diện, xuất sắc, vượt trội các chỉ

tiêu KHKD đề ra. BIDV đã luôn đi đầu, gương mẫu, chủ động thực hiện nhanh
và có hiệu quả các chỉ đạo của Chính phủ về việc cung ứng vốn cho các dự án
quan trọng, chấp hành nghiêm túc chính sách tiền tệ thắt chặt của Ngân hàng
Nhà nước, góp phần không nhỏ vào thành quả, kết quả chung của kinh tế Việt
Nam nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng.
2.2. Thực trạng quản lý rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
2.2.1. Diễn biến lãi suất trong thời gian qua (từ năm 2006 đến nay)
2.2.1.1. Lãi suất VND
Năm 2006, Chính phủ đã có bước tiến dài về môi trường pháp lý cho hoạt
động NH. Cơ chế tín dụng, cơ chế bảo đảm tiền vay được hoàn thiện theo
hướng một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp vay
vốn. Mặt khác, mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín
dụng, bảo đảm an toàn cho toàn hệ thống. Chính sách tiền tệ được điều hành
một cách thận trọng, linh hoạt và phù hợp với diễn biến thực tế. Chính vì vậy
việc cho áp dụng lãi suất thỏa thuận, bước đột phá thực hiện tự do hóa lãi suất,
lãi suất trên thị trường vẫn tương đối ổn định. Lãi suất VND có xu hướng tăng
nhẹ phản ánh đúng quan hệ cung cầu: lãi suất huy động tăng khoảng 0,1 –
0,4%/năm, lãi suất cho vay tương đối ổn định. Cụ thể, trong 7 tháng đầu năm
2006, lãi suất huy động có xu hướng tăng chủ yếu ở nhóm NHTM cổ phần; các
NHTM Nhà nước không tăng lãi suất huy động tiết kiệm nhưng mở rộng phát
hành giấy tờ có giá ngắn hạn với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn
khoảng 0,1-0,3%/năm. Điều này phần nào tác động đến tâm lý thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên, trong những tháng cuối năm, lãi suất huy động VND về cơ bản ít
biến động. Lãi suất huy động phổ biến kỳ hạn 3 tháng là 7,56 - 8,52%/năm, 6
tháng là 7,8 - 8,76%/năm, 12 tháng là 8,4 - 9,24%/năm. Lãi suất cho vay ít
biến động so với mặt bằng lãi suất cho vay cuối năm 2005 nhưng vẫn ở mức
khá cao, nhất là các NHTM cổ phần. Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 10,2 -
13,8%/năm đối với cho vay ngắn hạn và 10,8 - 15,3%/năm đối với cho vay
trung, dài hạn.

Năm 2007 Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì các mức lãi suất chủ đạo.
Lãi suất cơ bản được giữ vững ở mức 8,25%/năm. Tuy nhiên diễn biến lãi suất
VND trên thị trường vẫn có nhiều biến động.
Những tháng đầu năm 2007, lãi suất của các NHTM Nhà nước khá ổn định do khả năng cung vốn dồi
dào, phổ biến ở mức 2,4% - 3%/năm (không kỳ hạn), 3 tháng là 7,2 - 7,74%/năm, 6 tháng là 7,44 - 7,8%/năm,
12 tháng là 8,04 - 8,4%/năm. Tuy nhiên, mặt bằng lãi suất huy động của khối các NHTMCP tăng khoảng 0,05 -
0,45%/năm do nhu cầu vốn của thị trường chứng khoán tăng mạnh. Khi đó, nhiều người dân rút tiền gửi tiết
kiệm để đổ vào chứng khoán, buộc các NH phải tăng lãi suất để giữ chân khách hàng và cạnh tranh với kênh
đầu tư chứng khoán. Lãi suất huy động vốn ngắn hạn có thời điểm tăng tới trên 10%/năm.
Không chỉ dừng lại ở đó, đến cuối tháng 11, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng biến động mạnh, có
thời điểm vọt lên 12%/năm, cao hơn cả lãi suất cho vay của các NHTM. Cộng thêm nhu cầu vốn giải ngân của
các doanh nghiệp cuối năm tăng cao, tác động tới lượng vốn khả dụng đã đẩy lãi suất huy động của các NHTM
vào đợt tăng mới, buộc NHNN phải bơm 10.000 tỷ đồng vào thị trường để bình ổn lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng ở mức 8%/năm.
Lãi suất cho vay VND tương đối ổn định. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 9,84 -
13.8%/năm, trung dài hạn ở mức 11,4 – 16,2%/năm.
Tuy nhiên, năm 2008 mới thực sự là một năm mặt bằng lãi suất có nhiều biến động mà nổi bật nhất là
những cuộc chạy đua lãi suất của các NHTM cổ phần. Ngay từ đầu năm, lãi suất đã có xu hướng tăng nhẹ khi
nhu cầu vốn từ các doanh nghiệp vẫn cao cho kỳ kinh doanh Tết Nguyên đán. Tháng 2/2008, NHNN quyết định
tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm nhằm tiến tới thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất điều
hành của NHNN với lãi suất thị trường, phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ về điều hành chính sách tiền tệ năm
2008. Trong thời gian này, lãi suất huy động phổ biến ở mức không kỳ hạn 3,48%/năm, kỳ hạn 3 tháng
10,38%/năm, kỳ hạn 6 tháng 10,5%/năm, kỳ hạn 12 tháng 10,78%/năm; lãi suất cho vay phổ biến ở mức ngắn
hạn 14,6%/năm, trung và dài hạn 16,2%/năm.
Tháng 5/2008, NHNN chính thức bỏ cơ chế lãi suất thỏa thuận, bỏ trần lãi suất. Thay vào đó, quy định
các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bao gồm lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay VND theo
nguyên tắc lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản mà NHNN công bố áp dụng cho từng thời
kỳ. Đồng thời công bố điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 12%/năm. Không lâu sau đó, lãi suất cơ bản tiếp tục được
đưa lên một mốc mới 14%/năm báo hiệu một cuộc đua lãi suất mới bắt đầu. Đã có thời điểm, lãi suất huy động
tăng lên đến 19,8%/năm. Tuy nhiên việc điều chỉnh các mức lãi suất bằng đồng Việt

Nam lần này nhằm tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ “thắt chặt”, kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Bảng 2.2: Diễn biến lãi suất cơ bản trong năm 2008
Loại Lãi suất Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
Lãi suất cơ bản 7%/năm 172/QĐ-NHNN 01/02/2009
Lãi suất cơ bản 8.5%/năm 3161/QĐ-NHNN 22/12/2008
Lãi suất cơ bản 10%/năm 2948/QĐ-NHNN 05/12/2008
Lãi suất cơ bản 11%/năm 2809/QĐ-NHNN 21/11/2008
Lãi suất cơ bản 12%/năm 2559/QĐ-NHNN 05/11/2008
Lãi suất cơ bản 13.%/năm 2316/QĐ-NHNN 21/10/2008
Lãi suất cơ bản 14%/năm 2131/QĐ-NHNN 01/10/2008
Lãi suất cơ bản 14%/năm 1906/QĐ-NHNN 01/09/2008
Lãi suất cơ bản 14%/năm 1434/QĐ-NHNN 01/07/2008
Lãi suất cơ bản 14%/năm 1317/QĐ-NHNN 11/06/2008
Lãi suất cơ bản 12%/năm 1257/QĐ-NHNN 01/06/2008
Lãi suất cơ bản 12%/năm 1099/QĐ-NHNN 19/05/2008
Lãi suất cơ bản 8.75%/năm 978/QĐ-NHNN 01/05/2008
Lãi suất cơ bản 8.75%/năm 689/QĐ-NHNN 01/04/2008
Lãi suất cơ bản 8.75%/năm 479/QĐ-NHNN 01/03/2008
Lãi suất cơ bản 8.75%/năm 305/QĐ-NHNN 01/02/2008
Lãi suất cơ bản 8.25%/năm 3096/QĐ-NHNN 01/01/2008
Càng về những tháng cuối năm 2008, áp lực ngăn chặn suy giảm kinh tế,
duy trì tốc độ tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội càng tăng cao. Để thúc đẩy
sản xuất và xuất khẩu, kích cầu đầu tư, tiêu dùng và thực hiện chính sách tiền tệ
linh hoạt, NHNN liên tục hạ lãi suất cơ bản. Mặt bằng lãi suất trên thị trường
nhờ đó có xu hướng giảm dần tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đảm bảo
khả năng huy động vốn và thanh toán, hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả,
giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản
xuất tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh
phát triển.

Năm 2009 là năm được báo hiệu là một năm cực kỳ khó khăn cho nền
kinh tế thế giới nói chung cũng như kinh tế Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy,
để ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho
người lao động, NHNN đã quyết định đưa lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam từ
mức 8,5% xuống còn 7%/năm, đồng thời các tổ chức tín dụng được thực hiện
lãi suất thỏa thuận đối với một số nghiệp vụ cho vay. Như vậy, trần lãi suất cho
vay trên thị trường sẽ chỉ còn 10,5%/năm, đúng bằng một nửa đỉnh cao đạt được
giữa năm ngoái.
Hiện nay, NHNN cũng đang triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất
4%/năm cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh.
Do đó, mặt bằng lãi suất cho vay của các NHTM sau khi đã được hỗ trợ hiện
đang dao động trong khoảng 4-6,5%/năm.
2.2.1.2. Lãi suất USD
Lãi suất USD của các NHTM trong nước thường diễn biến theo sự điều
chỉnh của FED. Tuy nhiên, NHNN hiện chưa có quy định nào về việc điều
chỉnh lãi suất đối với USD, nói cách khác lãi suất USD đang được thả nổi một
cách bất hợp lý.

×