Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Hiệp định đối tác xuyên thái bình dương (TPP) và những ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.33 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH QUỐC THỊNH

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH QUỐC THỊNH

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng (Hướng ứng dụng)
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO


TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Đinh Quốc Thịnh – là học viên lớp Cao học Khoá 27 chuyên ngành
Tài chính, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn Thạc sĩ
Kinh tế với đề tài “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).

Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện

ĐINH QUỐC THỊNH


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
TÓM TẮT
ABSTRACT
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ, HIỆP ĐỊNH
TPP/CPTPP VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN....................................................... 4
1.1.

MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ................................... 4

1.1.1. Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckscher – Ohlin (Lý thuyết H – O) ...........4
1.1.2. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon........................................... 5
1.1.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của Michael

Porter......................................................................................................................................................... 7
1.2.

TỔNG QUAN CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP...................................... 9

1.3.

MỘT SỐ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN HIỆP ĐỊNH TPP.................14

CHƯƠNG 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP ĐẾN SỰ

PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM............................................................ 26
2.1.

GIAI ĐOẠN 2009 – 2018................................................................................................ 26

2.2.

GIAI ĐOẠN 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2019............................................................... 42


2.3.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI............................................................................ 49

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT DÀNH CHO VIỆT NAM NHẰM TẬN DỤNG

TỐT HƠN HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP..................................................................................... 54
3.1.

BỐI CẢNH KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI.......................... 54

3.2.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI.............55

3.2.1. Nhóm kiến nghị dành cho cơ quan ban ngành........................................................... 55


3.2.2. Nhóm kiến nghị dành cho doanh nghiệp..................................................................... 61
3.2.3. Nhóm kiến nghị dành cho một số lĩnh vực cụ thể.................................................... 63
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC A
PHỤ LỤC B
PHỤ LỤC C
PHỤ LỤC D


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt


Từ đầy đủ

APEC

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (AsiaPacific Economic Cooperation)

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast
Asian Nations)

CNTT

Công nghệ thông tin

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

DNNVV

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)

FTA


Hiệp đinh thương mại tự do (Free Trade Agreement)

GDP

Tổng sản phẩm quốc gia (Gross Domestic Products)

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour
Organization)

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

USD

Đô-la Mỹ (United States dollar)

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu


Tên bảng biểu

Vị trí (trang)

Bảng 2.1 Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may đến năm 2030

41

Bảng 2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ các nước
thuộc CPTPP

53


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Số hiệu

Tên hình vẽ, đồ thị

Vị trí (trang)

Hình 1.1

Tóm tắt vòng đời của sản phẩm theo Raymond
Vernon

7

Hình 1.2


Lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương
của Michael Porter

10

Hình 2.1

Quy mô GDP Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018

31

Hình 2.2

Lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018

32

Hình 2.3

Tốc độ tăng trưởng GDP của một số nước và thế giới

33

Hình 2.4

Thu nhập bình quân đầu người một số nước và thế
giới

34


Hình 2.5

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai
đoạn 2009 – 2018

35

Hình 2.6

Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018

36

Hình 2.7

Cơ cấu về đối tác thương mại với Việt Nam

37

Hình 2.8

Tỷ lệ thương mại trên GDP của Việt nam và một số
quốc gia

38

Hình 2.9

Xuất nhập khẩu của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019

và cùng kỳ 2018

50

Hình 2.10 Cơ cấu đối tác thương mại của Việt Nam 9 tháng 2019
và cùng kỳ 2018
Hình 2.11

Tốc độ tăng trưởng giao dịch thương mại giữa Việt
Nam và các nước trong Hiệp định CPTPP giữa 9 tháng

50

51

đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018
Hình 2.12 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 9 tháng
đầu năm 2019 và cùng kỳ năm 2018

52


TÓM TẮT
Khởi đầu từ một đất nước nghèo trải qua giai đoạn chiến tranh dài, sau hơn
30 năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ trở thành điểm
sáng trong phát triển kinh tế không chỉ trong khu vực mà còn cả trên thế giới. Để
đạt được những bước tiến đó, Việt Nam đã tiến hành mở cửa, chủ động hội nhập
quốc tế, đẩy mạnh quan hệ thương mại với các quốc gia, các khu vực trên thế giới.
Một hiệp định thương mại thế hệ mới mà Việt Nam đã hoàn tất việc ký kết một cách
thành công và mới đi vào hiệu lực trong thời gian gần đây chính là Hiệp định Đối

tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hay sau này thay đổi thành Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Đây là một hiệp định được
cho kiểu mẫu của thế kỷ XXI, với hàng loạt các điều khoản chặt chẽ, bao trùm lên
cả các vấn đề mới mà các hiệp định trước đây không có. Việt Nam được đánh giá là
một trong những nước được hưởng lợi nhiều nhất từ hiệp định này. Cơ hội cũng sẽ
đi kèm với không ít thách thức và rào cản, khi mà hiệp định này được quy định rất
cụ thể, chi tiết và nghiêm ngặt trong các điều khoản, mục đích là để hình thành một
tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu. Việt Nam sẽ phải liên tục thay đổi, tự làm
mới mình, thậm chí còn cần phải tự phá bỏ rào cản cũ, tìm hướng đi mới để đáp ứng
những tiêu chuẩn cao cấp trong hiệp định. Việc tham gia đàm phán và đi đến thống
nhất chung giữa các bên trong khoảng một thập kỷ có lẽ cũng đã để lại cho Việt
Nam nhiều kinh nghiệm quý báu, từ đó có thể rút ra những yếu tố then chốt cần
quan tâm để có thể tạo ra thêm một cuộc đổi mới. Hiệp định đã thúc đẩy một số thay
đổi về mặt chính sách, tuy nhiên tác động tích cực lên nền kinh tế là chưa rõ ràng do
hiệp định cần có độ trễ nhất định. Vì vậy, các nghiên cứu trong tương lai cần có thời
gian quan sát dài hơn cũng như chờ đợi những thay đổi mang tính đột phá hơn về
mặt chính sách để có những phân tích chuẩn xác và rõ ràng hơn.
Từ khoá: TPP, CPTPP, phát triển, thương mại, kinh tế Việt Nam


ABSTRACT
Begin from a poor country after a long war time, after more than 30 years of
renovation and development, Vietnam has risen up and became a bright spot about
development not only in regional area but also on global position. In order to attain
such progress, Vietnam has opened its market, actively commenced international
integration, promoted commercial relationship with countries and regions all over
the world. One new trade agreement that Vietnam has successfully concluded and
just came into effect recently is Trans-Pacific Partnership (TPP), which afterwards
changed into Comprehensive and Progressive Trans-Pacific Partnership (CPTPP).
st


This agreement is seen as model for 21 century, with a bunch of tight provisions,
covering even new issues which were not included in past ones. Vietnam is
appraised with most benefits from this agreement. Chances will bring along
challenges and barriers, as this agreement was strictly and detailedly regulated, to
form a new standard for global trade. Vietnam will have to continuously renew
itself, even need to break its own box, find a new way to adapt to high standard of
the agreement. The fact that negotiation and conclusion took around a decade
between members must have left many experience for Vietnam, then importance
points can be drawn out for better attention for a new renovation. The agreement has
made some changed on policies, however, the positive impacts on the economy are
not clear as the agreement needs a specific lag time. Therefore, future researches
should have a longer observation period as well as wait for remarkable changes in
policies in order to output more precise and clearer analysis.
Keywords: TPP, CPTPP, development, trade, Vietnam economy


1

MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Khởi đầu từ một đất nước nghèo trải qua giai đoạn chiến tranh dài, sau hơn 30
năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ trở thành điểm sáng trong
phát triển kinh tế không chỉ trong khu vực mà còn cả trên thế giới. Từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, không những thế còn bị bao vây và cấm vận, Việt Nam đã xây
dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật, hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước đáp ứng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho
phát triển. So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế
duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên đạt ngưỡng thu
nhập trung bình, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu

và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh
nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được những bước tiến đó, Việt Nam đã
tiến hành mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh quan hệ thương mại với các
quốc gia, các khu vực trên thế giới. Một hình thức thường thấy chính là các hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương, các hiệp định đối tác chiến lược. Trong
đó, một hiệp định thương mại thế hệ mới mà Việt Nam đã hoàn tất việc ký kết một cách
thành công và mới đi vào hiệu lực trong thời gian gần đây chính là Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP), hay sau này thay đổi thành Hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, được ký chính thức vào tháng
02 năm 2016, dự kiến có hiệu lực vào năm 2018, là một hiệp định thương mại tự do
bao gồm 12 thành viên là Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico,
New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam. Tuy nhiên đến đầu năm 2017, Mỹ đã
chính thức tuyên bố rút khỏi TPP, vì vậy mà hiệp định này đã không thể có hiệu lực do
không thể đáp ứng được điều kiện cần thiết. Sau đó, các thành viên còn lại đã thống
nhất tiếp tục theo đuổi hiệp định mà không có Mỹ. Tháng 01 năm 2018, các nước đã ra
tuyên bố đổi tên hiệp định thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ


2

xuyên Thái Bình Dương CPTPP và ký kết chính thức vào tháng 03 năm 2018. Sau khi
Úc phê chuẩn CPTPP vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, CPTPP chính thức có hiệu lực
bắt đầu từ ngày 30 tháng 12 năm 2018. Đây là một hiệp định được cho kiểu mẫu của
thế kỷ XXI, với hàng loạt các điều khoản chặt chẽ, bao trùm lên cả các vấn đề mới mà
các hiệp định trước đây không có. Không những thế, nó còn được kỳ vọng sẽ là nền
tảng tham khảo hữu ích cho các hiệp định mang tầm vóc khu vực giai đoạn sau này,
đơn cử như Hiệp định Thương mại Tự do châu Á – Thái Bình Dương FTAAP thuộc
diễn đàn APEC, hay vòng đàm phán Doha của Liên Hợp Quốc.

Việt Nam được đánh giá là một trong những nước được hưởng lợi nhiều nhất từ
hiệp định này. Từ việc có thêm một thị trường rộng lớn để tiêu thụ hàng hoá dịch vụ,
cho đến những ưu đãi thuế về mức 0% cho hầu hết mọi mặt hàng, điều này được xem là
một cơ hội lớn cho một đất nước chú trọng hoạt động xuất nhập khẩu như Việt Nam.
Việc Mỹ rút ra khỏi hiệp định vào những thời khắc cuối được coi như một sự kiện khá
đáng tiếc, khi đây là nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới. Không những thế, cơ hội cũng
sẽ đi kèm với không ít thách thức và rào cản, khi mà hiệp định này được quy định rất
cụ thể, chi tiết và nghiêm ngặt trong các điều khoản, mục đích là để hình thành một tiêu
chuẩn mới cho thương mại toàn cầu. Việc tham gia đàm phán và đi đến thống nhất
chung giữa các bên trong khoảng một thập kỷ có lẽ cũng đã để lại cho Việt Nam nhiều
kinh nghiệm quý báu, từ đó có thể rút ra những yếu tố then chốt cần quan tâm để có thể
tạo ra thêm một cuộc đổi mới. Nắm bắt được tính cấp thiết cùng với mong muốn có
một nghiên cứu về đề tài này, tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn là:
“Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những ảnh hưởng đến sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam”.

Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung vào tìm hiểu, phân tích và đánh giá các tác động của Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) lên những khía cạnh về sự phát triển
của nền kinh tế Việt Nam, tìm ra những khó khăn, bất cập, hạn chế còn tồn tại để từ
đó đề xuất các chính sách, phương án nhằm tận dụng hiệu quả và tối đa hoá lợi ích
có thể đạt được từ hiệp định này.


3

Câu hỏi nghiên cứu
-

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã tác động như thế nào


đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam từ năm 2009 đến tháng 09 năm 2019?
-

Việt Nam cần làm gì để có thể tận dụng tối đa các cơ hội và hoá giải

những thách thức do hiệp định này mang đến?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: những ảnh hưởng từ Hiệp định Đối tác xuyên Thái

-

Phạm vi nghiên cứu: nền kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2009 đến tháng

09 năm 2019. Năm 2009 là năm mà Việt Nam bắt đầu tham gia vào các vòng đàm
phán của Hiệp định TPP.
Phương pháp nghiên cứu
-

Thông tin, dữ liệu cần thu thập: tổng sản phẩm nội địa, thu nhập bình quân

đầu người, kim ngạch xuất nhập khẩu và các chỉ tiêu kinh tế quan trọng khác cùng
với các chính sách của Việt Nam giai đoạn 2009 đến tháng 09 năm 2019.
-

Nguồn của thông tin, dữ liệu: website và các báo cáo của Chính phủ và các

bộ ngành, Cục Thống kê, Thông tấn xã và các cổng thông tin điện tử các cơ quan có


liên quan, Ngân hàng Thế giới (WB), Liên Hợp Quốc (UN), v.v.
-

Kỹ thuật thu thập và phân tích số liệu: luận văn sử dụng các phương pháp

mô tả, so sánh, phân tích định tính với thông tin và số liệu thứ cấp được tổng hợp từ
nhiều nguồn khác nhau.
Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Tổng quan về thương mại quốc tế, Hiệp định TPP/CPTPP và các
nghiên cứu có liên quan
Chương 2: Những ảnh hưởng của Hiệp định TPP/CPTPP đến sự phát triển
của nền kinh tế Việt Nam
Chương 3: Những đề xuất dành cho Việt Nam nhằm tận dụng tốt hơn Hiệp
định TPP/CPTPP


4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ, HIỆP ĐỊNH
TPP/CPTPP VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.1.

MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

1.1.1. Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckscher – Ohlin (Lý thuyết H – O)
Trong lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so sánh của
David Ricardo, hai nhà kinh tế học đã mô tả được sản lượng có thể gia tăng nếu hai
quốc gia chuyên môn hoá sản xuất vào các sản phẩm mà họ có lợi thế. Lợi thế tuyệt đối
mà Adam Smith nêu lên chính là lượng sản phẩm được sản xuất ra nhiều hơn với cùng

một nguồn lực. Trong khi đó, David Ricardo nhấn mạnh tới năng suất lao động và lập
luận rằng những sự khác biệt về năng suất lao động giữa các nước là ngụ ý về lợi thế so
sánh. Hai lý thuyết trên còn khá nhiều hạn chế, vì vậy hai nhà kinh tế học là Eli
Heckscher và Bertil Ohlin đã cho ra đời Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố (Lý thuyết
H – O) nhằm đưa ra cách giải thích khác về lợi thế so sánh. Hai ông đã lập luận rằng
lợi thế so sánh xuất phát từ những khác biệt trong độ sẵn có các yếu tố sản xuất.
Lý thuyết H – O cho rằng trong tiến trình sản xuất người ta phải phối hợp các
yếu tố sẵn có theo nhiều tỷ lệ khác nhau. Các yếu tố sẵn có được đề cập ở đây là mức
độ mà một quốc gia có sẵn các nguồn lực như đất đai, lao động và vốn. Các nước có độ
sẵn có các yếu tố là khác nhau, và sự sẵn có các yếu tố khác nhau đó giải thích sự khác
biệt về giá cả của các nhân tố, độ dồi dào của nhân tố càng lớn thì giá cả của nhân tố đó
càng rẻ. Cụ thể, đất nhiều thì giá thuê đất càng rẻ, vốn nhiều thì lãi suất thấp, thất
nghiệp nhiều thì tiền lương thấp. Chi phí thấp sẽ giúp các nước sản xuất và xuất khẩu
sản phẩm sử dụng nhân tố sản xuất dư thừa và do đó sẽ rẻ hơn. Nhưng giá sản phẩm
khác nhau không chỉ phụ thuộc vào sự khác biệt trong giá cả các yếu tố đầu vào mà còn
phải kể đến kỹ thuật sản xuất và sự phối hợp các yếu tố sản xuất, mỗi thứ hàng có hàm
số sản xuất riêng, mỗi quốc gia có kỹ thuật sản xuất riêng.
Nội dung cơ bản của Lý thuyết H – O là: “Một quốc gia sẽ chuyên môn hoá sản
xuất để xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó dư thừa tương đối, đổng
thời nhập khẩu trở lại sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó khan hiếm tương
đối”. Theo đó, nguồn lực sản xuất vốn có của mỗi quốc gia quy định sự khác


5

nhau về yếu tố sản xuất dư thừa tương đối, dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ cân đối
các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia, tạo nên sự khác biệt về giá cả sản phẩm. Đây
là nguồn gốc để xác định lợi thế so sánh và mô hình mậu dịch của mỗi quốc gia.
Một ví dụ có thể thấy là Mỹ, với sự dồi dào về diện tích đất có thể canh tác đã trở
thành một nước xuất khẩu lớn về hàng nông sản. Hay ngược lại, Trung Quốc nổi

trội về xuất khẩu những hàng hoá được sản xuất trong những ngành thâm dụng lao
động như là dệt may và giày dép, điều này phản ánh mức độ dồi dào tương đối của
Trung Quốc về lao động giá rẻ. Trong khi đó Mỹ vốn không có nhiều lao động giá
rẻ, từ lâu đã là nước nhập khẩu chủ yếu những mặt hàng này.
1.1.2. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon
Raymond Vernon là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về vòng đời sản phẩm
vào giữa thập kỷ 1960 của thế kỷ trước. Lý thuyết của ông dựa trên những quan sát
thực tế là trong suốt thế kỷ XX một tỷ lệ rất lớn các sản phẩm mới của thế giới đã
được phát triển bởi các công ty Mỹ và được tiêu thụ ban đầu tại thị trường Mỹ (ví
dụ như sản xuất ô tô ở quy mô công nghiệp, máy thu hình, máy ảnh chụp lấy ngay,
máy photocopy, máy tính cá nhân, và các chíp bán dẫn). Để giải thích thực tế này,
Raymond Vernon lập luận rằng sự thịnh vượng và quy mô của thị trường Mỹ đã
mang lại cho các công ty Mỹ một động lực rất lớn đề phát triển các sản phẩm tiêu
dùng mới. Thêm vào đó, chi phí nhân công cao ở Mỹ cũng khiến cho các công ty
Mỹ có lý do để sáng chế ra các quy trình công nghệ tiết kiệm chi phí sản xuất.
Raymond Vernon đã lập luận rằng ở giai đoạn đầu trong vòng đời của một sản
phẩm mới điển hình, khi nhu cầu đang bắt đầu tăng cao một cách nhanh chóng ở Mỹ thì
nhu cầu tại các nước tiên tiến khác chỉ giới hạn ở một số nhóm khách hàng có thu nhập
cao mà thôi. Do nhu cầu ban đầu tại các nước tiên tiến khác còn hữu hạn vậy nên các
công ty chưa thấy cần thiết phải đầu tư vào sản xuất tại các nước này, nhưng vẫn thấy
cần thiết phải xuất khẩu một số sản phẩm từ Mỹ sang các thị trường đó.
Theo thời gian, nhu cầu đối với sản phẩm mới sẽ tăng dần tại các nước phát
triển khác ngoài Mỹ (ví dụ như Anh, Pháp, Đức và Nhật Bản) cho đến khi các nhà sản
xuất tại đó thấy đã đến lúc phải tiến hành sản xuất để phục vụ cho thị trường nước


6

mình. Thêm nữa, các công ty Mỹ cũng có thể sẽ thiết lập các dây chuyền sản xuất
tại các nước phát triển có nhu cầu đang tăng nhanh và như vậy, quá trình sản xuất

tại các nước này bắt đầu hạn chế bớt tiềm năng xuất khẩu từ nước Mỹ.
Khi thị trường ở Mỹ và một số nước phát triển khác trở nên bão hoà thì sản
phẩm mới cũng đạt tới mức độ tiêu chuẩn hoá, và giá cả bắt đầu trở thành vũ khí cạnh
tranh chủ yếu trên thị trường. Khi điều này xảy ra, những cân nhắc về chi phí bắt đầu
đóng một vai trò lớn hơn trong quá trình cạnh tranh. Các nhà chế tạo tại các nước phát
triển nơi mà chi phí lao động thấp hơn so với chi phí lao động tại Mỹ (ví dụ như

Ý, Tây Ban Nha) bây giờ có thể sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Nếu các sức ép về chi phí trở nên mạnh hơn nữa thì quá trình cũng sẽ không
dừng ở đó. Chu kỳ theo đó nước Mỹ đánh mất lợi thế của mình cho các nước phát triển
khác có thể tiếp tục lặp lại một lần nữa, khi các nước đang phát triển (ví dụ như Thái
Lan) bắt đầu có được những lợi thế sản xuất so với các nước phát triển. Do vậy, chu kỳ
của sản xuất toàn cầu sẽ theo trật tự: bắt đầu từ Mỹ chuyển sang các nước phát triển
khác và tiếp đó là từ những nước này chuyển sang các nước đang phát triể n.

Giai đoạn đầu
Nước đi đầu (phát minh sản

Giai đoạn hai
Sản xuất tại chỗ ở các nước nhập

phẩm mới) chiếm ưu thế cạnh

khẩu tăng, xuất khẩu của nước đi

tranh và dẫn đầu về xuất khẩu.

đầu giảm tương ứng.

Giai đoạn cuối


Giai đoạn ba

Sản xuất được di chuyển đến cả

Các nước công nghiệp có chi phí

một số nước đang phát triển,

rẻ hơn tăng sản xuất để xuất

nơi có chi phí thấp nhất.

khẩu trở lại nước đi đầu.

Hình 1.1 Tóm tắt vòng đời của sản phẩm theo Raymond Vernon
Theo thời gian, kết quả của những xu hướng này đối với các mô hình trao đổi
của thương mại thế giới là một nước xuất khẩu sản phẩm sẽ trở thành một nước nhập


7

khẩu khi quá trình sản xuất được tập trung tới những địa điểm ở nước ngoài có chi
phí sản xuất thấp hơn. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon có thể
được tóm tắt trong hình 1.1.
1.1.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của
Michael Porter
Michael Porter đã xây dựng lý thuyết về bốn thuộc tính lớn của một quốc gia
hình thành nên môi trường cạnh tranh cho các công ty tại nước đó, và những thuộc
tính này thúc đẩy hoặc ngăn cản sự tạo ra lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó. Đây là

kết quả nghiên cứu chuyên sâu của Michael Porter và các cộng sự nhằm tìm hiểu về
sự thành công và thất bại của một số quốc gia trong thương mại quốc tế. Bốn thuộc
tính lớn trong mô hình của Michael Porter bao gồm:
-

Điều kiện về các yếu tố sản xuất: Michael Porter đã phân cấp các yếu tố

sản xuất thành hai nhóm gồm các yếu tố cơ bản (ví dụ như vị trí địa lý, khí hậu,
tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực) và các yếu tố tiên tiến (ví dụ như cơ sở
hạ tầng truyền thông, lao động có kỹ năng và trình độ cao, các bí quyết công
nghệ). Không giống như nhóm yếu tố cơ bản được ưu đãi một cách tự nhiên,
nhóm yếu tố tiên tiến thường được hình thành trên cơ sở các yếu tố cơ bản thông
qua các hoạt động đào tạo cơ bản và nâng cao, cải thiện trình độ kiến thức và kỹ
năng chung cũng như kích thích nghiên cứu tiên tiến. Michael Porter cũng lập
luận rằng các yếu tố tiên tiến có vai trò quan trọng hơn.

-

Các điều kiện về nhu cầu: Michael Porter nhấn mạnh tới vai trò của cầu

trong nước trong việc giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Thông
thường, các công ty thường tỏ ra nhạy cảm nhất với những nhu cầu của
những khách hàng ở gần với họ nhất. Vì vậy, nhu cầu nội địa cao cấp sẽ đặt
ra chuẩn mực buộc các doanh nghiệp sáng tạo đổi mới, cải tiến chất lượng và
hạ giá thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh. Cũng vậy, thị trường
nước ngoài đặt ra những tiêu chuẩn cao đối với những sản phẩm và dịch vụ
đòi hỏi các công ty muốn thành công trên thị trường nước ngoài củng phải
liên tục thay đổi, cải thiện để đáp ứng những tiêu chuẩn này.



8

-

Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan: Những lợi ích của việc đầu

tư vào các yếu tố sản xuất tiên tiến bởi các ngành hỗ trợ và liên quan có thể
sẽ lan tỏa sang một ngành, từ đó giúp ngành này đạt được một vị trí cạnh
tranh vững mạnh. Các mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa các ngành giúp cho
các ngành phát huy được thế mạnh kết hợp, tăng được khả năng cạnh tranh
của từng ngành trong cụm công nghiệp đó. Cụ thể là các ngành hỗ trợ có thể
giúp các công ty nhận thức được các phương pháp mới và những cơ hội mới
để ứng dụng công nghệ mới. Quá trình trao đổi thông tin sẽ diễn ra mạnh hơn
giữa chúng và các hoạt động phối hợp nghiên cứu và triển khai, phối hợp giải
quyết các vấn đề sẽ thúc đẩy các công ty gia tăng khả năng thích ứng với các
cơ hội và vấn đề. Đây là quá trình gia tăng khả năng cạnh tranh về lâu dài.
-

Chiến lược, cấu trúc công ty và môi trường cạnh tranh: Chiến lược của

công ty có ảnh hưởng lâu dài đến khả năng cạnh tranh trong tương lai bởi vì
các mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức công ty trong các ngành công
nghiệp khác nhau rất lớn giữa các quốc gia. Yếu tố này liên quan đến hoạt
động đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm
và thị trường của từng công ty và cả ngành. Khả năng cạnh tranh quốc gia là
kết quả của sự kết hợp hợp lý giữa các lựa chọn này với các nguồn lực của
lợi thế cạnh tranh trong một ngành công nghiệp cụ thể. Bên cạnh đó, cạnh
tranh trong nội bộ ngành và giữa các công ty trong một nước càng gay gắt thì
khả năng cạnh tranh quốc tế của các công ty đó càng cao. Các đối thủ cạnh
tranh trong nội bộ ngành gây sức ép lẫn nhau đối với việc giảm chi phí, cải

thiện chất lượng, giá cả và sáng tạo ra các sản phẩm và các quá trình mới.
Điều này kích thích hoạt động đổi mới để vượt qua mối lo ngại bị tụt hậu
trong quá trình vượt lên phía trước.
Ngoài bốn nhóm yếu tố trên, cơ hội và vai trò của chính phủ là những yếu tố tác
động rất quan trọng đến khả năng cạnh tranh. Điều kiện về yếu tố sản xuất có thể bị ảnh
hưởng bởi các khoản trợ cấp, các chính sách đối với thị trường vốn, các chính sách đối
với giáo dục, v.v. Chính phủ có thể xác lập nhu cầu nội địa thông qua các


9

tiêu chuẩn sản phẩm nội địa hoặc bằng các quy định bắt buộc hoặc ảnh hưởng tới nhu
cầu của người mua hàng. Chính sách của chính phủ có thể tác động tới các ngành hỗ
trợ và liên quan thông qua các quy định và ảnh hưởng tới đối thủ cạnh tranh thông qua
các công cụ như quy định trên thị trường vốn, chính sách thuế, và luật chống độc
quyền. Các cơ hội thường tạo ra những thay đổi đột ngột và làm thay đổi vị thế cạnh
tranh. Các cơ hội có thể làm vô hiệu hoá các lợi thế của đối thủ cạnh tranh được hình
thành trước đó và tạo ra tiềm năng mà các công ty của một quốc gia mới có thể loại bỏ
chúng để đạt được lợi thế cạnh tranh khi có các điều kiện mới và khác trước.

Theo lý thuyết của Michael Porter, các nước nên xuất khẩu những sản phẩm
của những ngành mà tại đó cả bốn thành phần của mô hình kim cương có điều kiện
thuận lợi, và nhập khẩu trong những lĩnh vực tại đó các thành phần không có điều
kiện thuận lợi. Mô hình kim cương của Michael Porter được tóm tắt trong hình 1.2.

Chính phủ

Chiến lược, cấu
trúc công ty và môi
trường cạnh tranh


Điều kiện về các
yếu tố sản xuất

Các điều kiện về
nhu cầu

Các ngành công
nghiệp hỗ trợ và có
liên quan

Chính phủ

Hình 1.2 Lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của Michael
Porter 1.2. TỔNG QUAN CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP là một hiệp định thương mại
tự do bao gồm 12 thành viên là Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia,


10

Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam. Tiền thân của TPP là Hiệp
định Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPSEP hay P4) do Brunei, Chile,
New Zealand và Singapore ký kết vào năm 2005 và đi vào hiệu lực năm 2006. Đến
tháng 02 năm 2008, Mỹ chính thức tham gia vào các vòng thảo luận TPP. Sự tham
gia của Mỹ đã kéo thêm các thành viên khác tham gia là Úc, Peru và Việt Nam vào
tháng 11 năm 2008. Đến tháng 10 năm 2010, thành viên tiếp theo gia nhập là
Malaysia. Sau đó, đến tháng 10 năm 2012, Canada và Mexico chính thức gia nhập.
Và đến tháng 05 năm 2013, thành viên cuối cùng là Nhật Bản đã gia nhập các vòng
thảo luận. Hiệp định TPP được ký chính thức vào tháng 02 năm 2016, dự kiến có

hiệu lực vào năm 2018. Tuy nhiên đến tháng 01 năm 2017, Mỹ đã chính thức tuyên
bố rút khỏi TPP, vì vậy mà hiệp định này đã không thể có hiệu lực do không thể đáp
ứng được điều kiện cần thiết. Sau đó, vào tháng 05 năm 2017, các thành viên còn lại
đã thống nhất tiếp tục theo đuổi hiệp định mà không có Mỹ. Tháng 01 năm 2018, các
nước đã ra tuyên bố đổi tên hiệp định thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP hay TPP-11) và ký kết chính thức vào tháng 03
năm 2018. Sau khi Úc phê chuẩn CPTPP vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, CPTPP
chính thức có hiệu lực bắt đầu từ ngày 30 tháng 12 năm 2018 theo như điều kiện
trong hiệp định. Tính đến hết 2018, đã có 7 thành viên phê chuẩn CPTPP theo thứ tự
là Mexico, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Canada, Úc và Việt Nam (Việt Nam
chính thức phê duyệt CPTPP vào ngày 15 tháng 11 năm 2018). Cơ quan lưu chiểu
được chỉ định là Chính phủ New Zealand. Ngày hiệp định chính thức đi vào hiệu lực
đối với Việt Nam là ngày 14 tháng 01 năm 2019.
Một số nội dung chính trong TPP/CPTPP
Sau khi TPP không thể đi vào hiệu lực, CPTPP tiếp nối hầu như toàn bộ các
cam kết của TPP ngoại trừ các cam kết riêng của Mỹ hoặc với Mỹ, tạm hoãn một số
cam kết trong các chương, và sửa đổi/điều chỉnh một số thư song phương giữa các
thành viên.
Tất cả các hiệp định song phương giữa các thành viên và các hiệp định khu
vực đang đàm phán sẽ có hiệu lực song song với CPTPP, kể cả WTO.


11

Các thành viên đã cam kết xoá bỏ thuế quan cho Việt Nam ngay sau khi Hiệp
định có hiệu lực đối với 78% đến 95% số dòng thuế, và 97% đến 100% số dòng thuế
khi đến cuối lộ trình. Lộ trình xoá bỏ thuế là 5 đến 10 năm cho hàng hoá thông thường,
trên 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan cho hàng hoá nhạy cảm.

Về phía mình, Việt Nam đưa ra biểu thuế ưu đãi áp dụng chung cho các

thành viên khác, cam kết loại bỏ 65.8% số dòng thuế ngay khi CPTPP có hiệu lực,
86.5% số dòng thuế vào năm thứ 4, 97.8% vào năm thứ 11, phần còn lại có lộ trình
tối đa vào năm thứ 16 hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan.
Đối với một số sản phẩm đặc thù như tạm nhập tái xuất, sản phẩm CNTT, tài
nguyên thiên nhiên, nông sản, có các cam kết về không đánh thuế xuất nhập khẩu,
tuy nhiên các thành viên vẫn có quyền bảo lưu đối với các trường hợp cụ thể. Các
thành viên cũng không được ban hành hoặc duy trì các biện pháp cấm xuất nhập
khẩu trừ khi có cam kết hoặc ngoại lệ, và phải chấp hành nghiêm túc nguyên tắc
không phân biệt đối xử đối với các thành viên khác.
CPTPP xem hàng hoá là có xuất xứ CPTPP khi: (a) có xuất xứ thuần tuý, (b)
được sản xuất toàn bộ trong CPTPP và chỉ từ nguyên liệu có xuất xứ CPTPP hoặc,
(c) hàng hoá được sản xuất tại CPTPP, sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ
CPTPP nhưng đáp ứng được các quy tắc xuất xứ cụ thể. Có 3 phương pháp xác định
xuất xứ là: (i) quy tắc chuyển đổi mã hàng hoá (CTC), (ii) quy tắc hàm lượng giá trị
nội khối (RVC) và (iii) quy tắc công đoạn chế biến. Lưu ý là có thể kết hợp các
phương pháp khi xác định cho từng loại hàng hoá. Một số trường hợp được miễn
chứng nhận xuất xứ khi có giá trị hải quan không quá $1,000 hoặc thuộc diện xuất
khẩu nhiều lần cùng một loại hàng hoá.
CPTPP có một chương riêng dành cho Dệt may do đây là ngành quan trọng
đối với một số thành viên. Quy tắc xuất xứ chủ đạo là “yarn-forward” (“từ sợi trở đi”).
Đồng thời có một khái niệm quan trọng là Tỷ lệ tối thiểu (De minimis) quy định khối
lượng các nguyên liệu không đáp ứng xuất xứ CPTPP không được quá 10% tổng khối
lượng sản phẩm. Tuy nhiên, cũng có các ngoại lệ linh hoạt trong một số trường hợp,
cũng như danh mục một mặt hàng thuộc nguồn cung thiếu hụt tạm thời hoặc vĩnh viễn
vẫn sẽ được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan.


12

Về vấn đề đầu tư, CPTPP có quy định khá rõ ràng về các nguyên tắc đầu tư, bao

gồm: (i) các nguyên tắc về mở của thị trường và xoá bỏ rào cản đầu tư (gồm các
nguyên tắc về không phân biệt đối xử NT và MFN, nguyên tắc liên quan tới “Các yêu
cầu về hoạt động”, và nguyên tắc liên quan tới “Nhân sự quản lý cao cấp và Ban lãnh
đạo”), (ii) nhóm các nguyên tắc nhằm đảm bảo các quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư
(gồm nguyên tắc chuẩn đối xử tối thiểu MST, nguyên tắc bảo vệ tài sản của nhà đầu tư
trước các biện pháp tịch thu, cưỡng chế, quốc hữu hoá, và nguyên tắc đảm bảo việc
chuyển vốn tự do), và (iii) các bảo lưu và ngoại lệ được CPTPP thừa nhận trong đối xử
với nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, CPTPP còn có một phần riêng quy định rất chi tiết
về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư (ISDS).

Đối với DNNN, các nguyên tắc áp dụng chung gồm: (a) phải hoạt động dựa
trên tính toán thương mại thuần tuý, (b) không được phân biệt đối xử khi mua bán
hàng hoá, dịch vụ và, (c) phải tuân thủ các nghĩa vụ của hiệp định khi được nhà
nước uỷ quyền. Hơn nữa, CPTPP cũng đề ra những nguyên tắc dành cho nhà nước
khi quản lý và kiểm soát DNNN gồm: (a) không hỗ trợ phi thương mại riêng đến
mức gây ra tác động tiêu cực đến lợi ích của thành viên khác, (b) cơ quan nhà nước
phải hành xử khách quan trong quản lý và điều hành, (c) toà án nội địa phải xử lý
các khiếu kiện với DNNN nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ của mình và, (d) minh
bạch hoá các thông tin cơ bản về DNNN.
Về vấn đề sở hữu trí tuệ, CPTPP đã đưa ra những cam kết cụ thể về tiêu
chuẩn bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cho nhãn hiệu thương mại (trade mark), chỉ
dẫn địa lý, sáng chế, quyền tác giả và kiểu dáng công nghiệp. Song song đó, có cam
kết về sở hữu trí tuệ cho một số sản phẩm đặc thù như nông hoá phẩm và dược
phẩm. Bên cạnh đó, CPTPP cũng đặt ra các yêu cầu chi tiết về các nguyên tắc và thủ
tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ, quy định rõ về các hành vi vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ và các biện pháp xử lý hình sự tương ứng.
Đối với một số lĩnh vực như quản lý hải quan, phòng vệ thương mại, an toàn
thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
(TBT), nhập cảnh tạm thời, lao động, mội trường, minh bạch hoá và chống tham



13

nhũng, giải quyết tranh chấp, CPTPP khẳng định lại các nguyên tắc trong các hiệp
định của WTO, các công ước của Liên Hợp Quốc và của các tổ chức có liên quan.
Tuy nhiên, CPTPP cũng có đưa ra thêm một số quy định chi tiết và chặt chẽ hơn.
Đối với các lĩnh vực thương mại dịch vụ xuyên biên giới, dịch vụ tài chính,
thương mại điện tử, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh, CPTPP xây dựng
các quy định và cam kết dựa trên các nguyên tắc chung như Đối xử quốc gia (NT),
Đối xử tối huệ quốc (MFN), công bằng và minh bạch, mở cửa thị trường, bảo vệ
người tiêu dùng, chia sẻ thông tin.
Ngoài ra, CPTPP cũng sẽ thành lập và vận hành một số uỷ ban chuyên môn
như uỷ ban về môi trường, uỷ ban về DNNVV như những đầu mối để xúc tiến hợp
tác giữa các thành viên.
Một số điểm đáng chú ý trong TPP/CPTPP
Chứng nhận xuất xứ theo CPTPP không có mẫu cố định, tuy nhiên cần phải
có đầy đủ thông tin theo quy định, có thể theo dạng văn bản hoặc điện tử. Chứng
nhận còn cho phép người nhập khẩu, người xuất khẩu hay người sản xuất đều có thể
tự chứng nhận, khác với nhiều FTA khác.
Trong lĩnh vực thương mại điện tử, có các cam kết không yêu cầu đặt hệ
thống máy chủ ở nước sở tại thì mới được hoạt động, và cam kết cho phép truyền
thông tin qua biên giới bằng phương tiện điện tử.
Đối với mua sắm chính phủ, hình thức chỉ định thầu chỉ được áp dụng trong
rất ít các trường hợp theo quy định, và mỗi trường hợp đều đi kèm các điều kiện rất
chi tiết và cụ thể.
Việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin DNNN được xem như một bước tiến
lớn về minh bạch hoá vì hiện nay thông tin này ở Việt Nam không được công bố.

Các DNNVV được CPTPP quan tâm nhằm giúp nhóm này có thể tiếp cận
được thông tin và tận dụng tốt các lợi ích từ CPTPP. Cam kết về DNNVV cũng nằm

rải rác trong nhiều chương.
Cơ chế đảm bảo thực thi trong CPTPP đa dạng và chặt chẽ hơn so với WTO,
giúp các thành viên tăng khả năng giám sát việc thực thi của các thành viên khác,
đồng thời cũng đặt mỗi thành viên dưới áp lực phải thực thi đúng theo CPTPP.


14

Những cơ hội từ Hiệp định TPP/CPTPP
Thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện môi trường kinh doanh cho doanh
nghiệp. Do hiệp định đưa ra các tiêu chuẩn cao về mặt thể chế cũng như khuôn khổ
pháp luật, từ đó sẽ thúc đẩy thực hiện cải cách về thể chế, hướng đến các luật lệ quốc
tế. Ngoài ra, Việt Nam còn có thể học tập, trao đổi kinh nghiệm để hoàn thiện hệ
thống pháp luật cũng như quản lý và điều hành nền kinh tế.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó tạo ra cơ hội cải
thiện sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân, và mở rộng các ngành
nghề, lĩnh vực có nhu cầu phát triển.
Tạo cơ hội kinh doanh mới và mở rộng thị trường cho doanh nghiệp Việt
Nam, đặc biệt là các ngành Việt Nam có lợi thế như dệt may, da giày và thuỷ sản.
Những thách thức đến từ Hiệp định TPP/CPTPP
Áp lực từ việc điều chỉnh, sửa đổi các quy định pháp luật để thực thi các cam
kết trong hiệp định. Việt Nam cần phải phát triển hệ thống pháp luật lên tương xứng
với các bên khác.
Hàng hoá của Việt Nam sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ sản phẩm của các
nước khác, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ cao và các sản phẩm mà Việt Nam
chưa xây dựng được hàng rào kỹ thuật hoặc đã có nhưng không cao.
Hiệp định còn đòi hỏi phải mở cửa thị trường ngân hàng và gây áp lực lên
thu ngân sách do yêu cầu phải cắt giảm thuế nhập khẩu.
Các DNNN sẽ đứng trước yêu cầu phải tái cơ cấu để hoạt động hiệu quả và
minh bạch hơn. Cả thị trường mua sắm công cũng sẽ phải mở cửa, từ đó đặt ra yêu

cầu doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh sòng phẳng và làm ăn chân chính.
Chính phủ cũng sẽ phải đối xử công bằng, tạo sân chơi bình đẳng cho cả các
loại hình doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài.
1.3.

MỘT SỐ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN HIỆP ĐỊNH TPP TransPacific Partnership or Trampling Poor Partners? A Tentative

Critical Review (Tạm dịch: Đối tác xuyên Thái Bình Dương hay Giày xéo các
Đối tác nghèo? Một bài phê bình thăm dò).
Tác giả: Raj Bhala, xuất bản năm 2014, xếp hạng Q4.


15

Bài nghiên cứu chủ yếu phân tích, đánh giá những điểm đang được thảo luận
trong TPP dựa trên góc nhìn của nước Mỹ. Do vấn đề đàm phán TPP được bảo mật và
không công khai nên bài nghiên cứu chỉ đưa ra những đánh giá mang tính thăm dò và
dựa trên một số ít tài liệu được công bố cũng như một vài nghiên cứu trước đó.
Bài nghiên cứu mở đầu bằng việc giới thiệu về TPP, hiệp định thương mại thế
hệ mới gồm 29 chương và Phụ lục, bao gồm những vấn đề về cắt giảm thuế và hàng rào
phi thuế quan, chứng nhận xuất xứ, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ, mua sắm công,
môi trường, lao động, v.v. Bài nghiên cứu tập trung vào hai vấn đề: một là TPP không
phải một hiệp định “tự do” đơn thuần mà là “được quản lý”; hai là việc TPP tạo ra tăng
trưởng kinh tế để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo là chưa rõ ràng.
Có 5 trụ cột chính trong TPP, bao gồm: tiếp cận thị trường (mọi lĩnh vực đều
được bao quát trừ những trường hợp được miễn, tuy nhiên mỗi thành viên đều có
những lĩnh vực nhạy cảm mà họ muốn bảo vệ); tính khu vực (nhấn mạnh tính khu vực
của TPP, không phải song phương hay đa phương); xuyên biên giới (những vấn đề về
rào cản phi thương mại, cũng như tăng cường hợp tác xuyên biên giới); tính mới lạ
(một số lĩnh vực mới như thương mại điện tử, phát triển xanh, sở hữu trí tuệ được đặt ra

với những tiêu chuẩn cao); và tính sống (hiệp định sẽ được cập nhật khi cần thiết).

Hiệp định TPP được mở rộng từ một hiệp định ban đầu chỉ có 4 thành viên,
sau đó số thành viên tăng lên 9, và sau cùng là lên 12. Đã có khoảng 20 vòng đàm
phán tính đến hết năm 2013. Việc Nhật Bản tham gia gây khá nhiều tranh cãi do
nước này đang có nhiều khúc mắc với Mỹ trong việc thoả thuận một hiệp định song
phương giữa hai bên. Ấn Độ đã không tham gia vì họ không muốn trở thành một
“cấu trúc kinh tế mới” của Mỹ, và vì họ chưa sẵn sàng để đáp ứng các tiêu chuẩn
mức độ cao của TPP. Đài Loan cũng đã không tham gia do nhiều nước đề với Trung
Quốc. Kết nạp Đài Loan mà loại bỏ Trung Quốc được coi là một hành động không
chấp nhận được đối với Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Có bốn động lực của Mỹ khi tham gia TPP: tự do hoá cạnh tranh, tiêu chuẩn
cao và toàn diện (do một số thành viên chưa có hiệp định song phương với Mỹ nên
điều này được cho là cần thiết, tuy nhiên ngay cả một số thành viên đã có FTA với


×