Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 so với Luật Doanh nghiệp 2005 (Tối thiểu là năm điểm mới)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.88 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

MỞ BÀI..............................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................1
1. Luật doanh nghiệp 2014 bãi bỏ các yêu cầu về đăng kí kinh doanh tại thời
điểm thành lập doanh nghiệp................................................................................2
2. Luật Doanh nghiệp 2014 đã giảm thời gian xử lý hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.
...............................................................................................................................4
3. Về Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp......................................................5
4. Luật doanh nghiệp 2014 đã trao việc quyết định về hình thức, số lượng và nội
dung con dấu cho doanh nghiệp............................................................................7
5. Luật doanh nghiệp 2014 quy định về vốn điều lệ và thời hạn góp vốn của công
ty.............................................................................................................................9
6. Luật doanh nghiệp 2014 cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ
phần có thể có hơn một người đại diện.................................................................9
7. Luật doanh nghiệp 2014 đã mở rộng các đối tượng được quyền hợp nhất,
chia, tách, sáp nhập.............................................................................................12
8. Về thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.........................................13
9. Luật doanh nghiệp 2014 đã bổ sung thêm một chương hoàn toàn mới:
“Chương IV – DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC”.................................................14

KẾT LUẬN....................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................16

Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 0


MỞ BÀI
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đã có những sự phát triển


vượt bậc, năng động hội nhập nền kinh tế quốc tế. Đi cùng với sự phát triển ấy luôn
là những thách thức, khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và cho hoạt
động của các doanh nghiệp ở Việt Nam nói riêng. Luật doanh nghiệp 2014 ra đời,
thay thế cho Luật doanh nghiệp 2005, đã có những điểm đổi mới khắc phục những
tồn tại, bất cập trong quy định của Luật 2005, để tạo thuận lợi trong hoạt động và
mở ra những cơ hội mới cho doanh nghiệp hiện nay. Hiện nay, tuy luật doanh
nghiệp 2014 vẫn chưa có hiệu lực nhưng những đổi mới của nó chắc chắn sẽ mở ra
những bước phát triển mới mới cho hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Hiểu được điều này, từ những kiến thức đã được học và qua tìm hiểu trên
thực tế, em xin được lựa chọn đề bài số 3: “Phân tích và đánh giá một số điểm
mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 so với Luật Doanh nghiệp 2005 (Tối
thiểu là năm điểm mới)” cho bài tập lớn học kỳ của mình. Vì lượng kiến thức của
bản thân còn có hạn, tài liệu tham khảo chưa được đa dạng nên bài làm không thể
tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, nhắc nhở của các
thầy cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005 ra đời đánh dấu một
sự thay đổi lớn trong pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, là lần đầu tiên, nước
ta ban hành một văn bản pháp luật chung điều chỉnh thống nhất tất cả các loại hình
doanh nghiệp. Sự ra đời của luật doanh nghiệp 2005 cũng đáp ứng được yêu cầu
đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp, từng bước xây dựng môi trường kinh
doanh thông thoáng, thuận lợi cho doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế lúc bấy giờ.

Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 1



Trải qua gần 10 năm thực thi, Luật doanh nghiệp 2005, cùng với các văn bản
pháp luật chuyên ngành có liên quan khác đã tỏ rõ vai trò quan trọng của mình
trong việc quy định, hướng dẫn và điều hành hoạt động của các doanh nghiệp. Hiện
nay, đất nước đã có những sự đổi thay rõ rệt, tình hình kinh tế - xã hội và môi
trường kinh doanh đã có nhiều thay đổi so với thời kì ban hành Luật doanh nghiệp
2005, bên cạnh đó, Luật doanh nghiệp 2005 đã lộ rõ nhiều tồn tại, bất cập. Vì vậy,
việc sửa đổi Luật doanh nghiệp phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại là vô
cùng cần thiết và quan trọng.
Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/7/2015 sẽ thay thế cho Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11
ngày 29/11/2005 và Luật sửa đổi, bổ sung điều 170 của Luật doanh nghiệp số
37/2013/QH13 ngày 20/6/2013.
Luật doanh nghiệp 2014 có 10 chương, 213 điều, tăng 41 điều so với Luật
2005. Trong đó, Luật 2014 đã có những chương, điều hoàn toàn mới so với Luật
2005, ví dụ như chương IV quy định về doanh nghiệp nhà nước và điều 10 quy
định về tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội. Luật doanh nghiệp
2014 đã có những điểm mới so với Luật doanh nghiệp 2005, không chỉ khắc phục
những tồn tại, bất cập của những quy định của Luật 2005 mà còn tạo điều kiện
thuận lợi, mở ra nhiều cơ hội trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay.
1. Luật doanh nghiệp 2014 bãi bỏ các yêu cầu về đăng kí kinh doanh tại
thời điểm thành lập doanh nghiệp.
Khoản 2, Điều 7 – Luật Doanh nghiệp 2005 có quy định:
“2. Đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy
định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi
có đủ điều kiện theo quy định.
Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 2



Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực
hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh,
giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác.”
Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005, đối với các doanh nghiệp khi
kinh doanh các ngành nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định đòi hỏi phải có vốn
pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề, thì doanh nghiệp đó chỉ được đăng ký kinh
doanh để thành lập doanh nghiệp khi có đủ vốn pháp định (tổ chức tín dụng, dịch
vụ bảo vệ, kinh doanh bất động sản, dịch vụ đòi nợ, sản xuất phim,...) hoặc chứng
chỉ hành nghề (dịch vụ môi giới bất động sản, kinh doanh dịch vụ pháp lý, kinh
doanh dịch vụ kế toán...) theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
việc đăng kí thành lập doanh nghiệp về bản chất là ghi nhận sự ra đời, công nhận về
mặt pháp lí sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thị trường. Yêu cầu về vốn pháp
định và chứng chỉ hành nghề chỉ nên được coi là điều kiện kinh doanh để doanh
nghiệp được hoạt động. Quy định như Luật Doanh nghiệp 2005 tỏ ra không hợp lí,
không có hiệu lực quản lí nhà nước, gây ra những khó khăn và tốn kém không ít
cho nhà đầu tư khi thành lập mới doanh nghiệp.
Thấy được bất cập đó, Luật Doanh nghiệp 2014 đã hủy bỏ yêu cầu về vốn
pháp định và chứng chỉ hành nghề trong đăng kí kinh doanh tại thời điểm đăng kí
thành lập doanh nghiệp. Cụ thể, khoản 1, Điều 8: “Nghĩa vụ của doanh nghiệp” –
Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định:
“1. Đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật đầu tư và bảo đảm duy trì đủ điều
kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh.”
Luật doanh nghiệp 2014 đã quy định tách bạch giữa yêu cầu thành lập doanh
nghiệp và yêu cầu về điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề kinh doanh có điều
Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846


Page 3


kiện. Việc bỏ yêu cầu về các điều kiện kinh doanh vốn pháp định hoặc chứng chỉ
hành nghề tại thời điểm đăng kí thành lập doanh nghiệp là hoàn toàn phù hợp, tức
là tại thời điểm đăng kí kinh doanh, doanh nghiệp không phải đáp ứng các yêu cầu
đó. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ
được phép kinh doanh ngành nghề có điều kiện kể từ khi đáp ứng được các yêu cầu
về điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp phải đảm bảo
duy trì đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh
doanh. Việc bỏ công đoạn xác định vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề... cũng góp
phần hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả các ngành nghề pháp luật không
cấm theo quy định tại Hiến pháp, làm cho doanh nghiệp trở thành công cụ kinh
doanh hiểu quả, đa công năng, phù hợp với xu hướng quốc tế.
2. Luật Doanh nghiệp 2014 đã giảm thời gian xử lý hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp.
Khoản 2, Điều 15 – Luật doanh nghiệp 2005 về trình tự đăng ký kinh doanh
có quy định:
“2. Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh
doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn 10 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo
phải nêu rõ lý do và các yêu cầu sửa đổi, bổ sung.”
Theo như quy định trên, thời gian để cơ quan đăng ký kinh doanh có trách
nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh là 10 ngày. Thực tế cho thấy rằng, thời hạn 10 ngày này là quá nhiều, không
cần thiết để kéo dài thời gian thực hiện các thu tục hành chính như thế. Cũng bởi
vậy, Luật doanh nghiệp 2014 tại khoản 2, điều 27 về trình tự, thủ tục đăng ký doanh
nghiệp đã quy định giảm từ 10 ngày làm việc (Luật 2005) xuống còn 3 ngày làm
Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846


Page 4


việc, kể từ ngày nhận hồ sơ để các cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem
xét tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và cấp giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Việc rút ngắn thời gian như vậy đảm bảo thực hiện thủ tục thành lập
được nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh và cơ quan có thẩm quyền sẽ hoạt động nhanh gọn, có hiệu quả. Hơn thế
nữa, trong trường hợp doanh nghiệp bị từ chối cấp giấy chứng nhân đăng ký kinh
doanh do không đủ điều kiện cấp phép, các doanh nghiệp sẽ có thêm nhiều thời
gian để tự hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung hồ sơ kịp thời thay vì dành thời gian chờ đợi
việc xem xét hồ sơ quá lâu.
3. Về Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Theo điều 25 – Luật doanh nghiệp 2005, nội dung Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh bao gồm 5 mục. Cùng với đó, khoản 2, điều 26 – Luật doanh nghiệp
2005 quy định: “2. Trường hợp có thay đổi nội dung của Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, doanh nghiệp được cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.”
Theo điều 29 – Luật doanh nghiệp 1014, nội dung Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp bao gồm 4 mục, không có nội dung ngành nghề kinh doanh và danh
sách cổ đông sáng lập (đối với Công ty cổ phần). Hiến pháp 2013 đã thừa nhận
quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của công dân. Điều 33
Hiến pháp 2013 có quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Vì thế, việc bỏ ghi quy định về ngành nghề
kinh doanh trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng là phù hợp với quy
định của Hiến pháp. Doanh nghiệp được “tự do kinh doanh trong những ngành,
nghề mà luật không cấm” (điều 7 – Luật doanh nghiệp 2014). Như vậy, doanh
nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà không phải ghi ngành
nghề kinh doanh vào giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, miễn sao ngành nghề
kinh doanh của doanh nghiệp không thuộc khoản 1, điều 6 – Luật đầu tư 2014 (quy

Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 5


định cụ thể về 6 ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh). Quy định của luật doanh
nghiệp về nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã góp phần hiện thực
hóa quyền tự do kinh doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm của
Hiến pháp 2013.
Khi thay đổi ngành nghề kinh doanh; thay đổi cổ đông sáng lập đối với công
ty cổ phần và cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp chỉ phải thông báo
với cơ quan đăng ký kinh doanh để được bổ sung trong hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp (Điều 32 – Luật doanh nghiệp 2014) mà không phải đăng ký thay đổi nội
dung đăng ký kinh doanh để được cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
như luật 2005 hiện hành. Điều này sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí, thủ tục
trong quá trình chờ đợi cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mỗi khi doanh
nghiệp thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh như luật hiện hành.
Cũng theo quy định tại điều 33 – Luật doanh nghiệp 2014, sau khi được cấp
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc khi thay đổi nội dung đăng ký doanh
nghiệp, doanh nghiệp phải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký
doanh nghiệp, thời hạn thông báo công khai các thông tin về doanh nghiệp là 30
ngày, kể từ ngày được công khai.

4. Luật doanh nghiệp 2014 đã trao việc quyết định về hình thức, số lượng
và nội dung con dấu cho doanh nghiệp.
Khoản 1, điều 36 – Luật doanh nghiệp 2005 có quy định:
“1. Doanh nghiệp có con dấu riêng. Con dấu của doanh nghiệp phải được
lưu trữ và bảo quản tại trụ sở chính của doanh nghiệp. Hình thức và nội dung của
con dấu, điều kiện làm con dấu và chế độ sử dụng con dấu thực hiện theo quy định
của Chính phủ.”

Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 6


Khác với Luật doanh nghiệp 2005, điều 44 – Luật doanh nghiệp 2014 có quy
định:
“1. Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung
con dấu của doanh nghiệp. Nội dung con dấu phải thể hiện những thông tin sau
đây:
a) Tên doanh nghiệp;
b) Mã số doanh nghiệp.
2. Trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với
cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp.
3. Việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu thực hiện theo quy định của
Điều lệ công ty.
4. Con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật
hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”
Trong Luật doanh nghiệp 2005, cơ quan nhà nước sẽ quyết định hình thức,
số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn hoạt động
phải xin phép khắc dấu và phải được cơ quan nhà nước đồng ý cho khắc dấu và cấp
giấy đăng ký mẫu dấu. Trong trường hợp doanh nghiệp có thay đổi về tên công ty,
địa chỉ trụ sở, thì con dấu phải được cấp đổi.
Theo Luật doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp có quyền quyết định về hình
thức, số lượng và nội dung con dấu doanh nghiệp. Trước khi sử dụng con dấu,
doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với Cơ quan đăng ký kinh doanh
để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Thay
vì phải đăng ký với cơ quan Công an như pháp luật hiện hành quy định, doanh

Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 7


nghiệp chỉ cần thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải
công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Từ đây, doanh
nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian, không mất nhiều thủ tục, công đoạn
phiền hà, tốn kém. Sự thay đổi này được đánh giá là phù hợp, tăng thêm khả năng
tự chủ cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, Luật doanh nghiệp 2014 cũng quy định về lưu giữ và quản lý con
dấu. Theo đó, thay vì quy định “Con dấu của doanh nghiệp phải được lưu trữ và
bảo quản tại trụ sở chính của doanh nghiệp” như Luật 2005, Luật doanh nghiệp
2014 cho phép điều lệ công ty quy định việc quản lý, sử dụng và lưu trữ con dấu.
Sự thay đổi này sẽ tạo điều kiện thuận lợi và giảm bớt vướng mắc trong nhiều
trường hợp ví dụ như khi sử dụng con dấu ngoài trụ sở chính của doanh nghiệp.
Cũng từ quy định này, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể mang
quản lý và sử dụng con dấu ở bất kì địa điểm nào khác chứ không riêng ở trụ sở
chính của công ty mà không vi phạm quy định của pháp luật doanh nghiệp.

5. Luật doanh nghiệp 2014 quy định về vốn điều lệ và thời hạn góp vốn
của công ty.
Theo luật doanh nghiệp 2014, tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp,
vốn điều lệ là vốn mà các thành viên, cổ đông cam kết góp, đăng ký mua vào công
ty; thành viên, cổ đông phải thanh toán phần vốn góp, số cổ phần cho công ty đủ và
đúng loại tài sản như đã cam kết góp, đăng ký mua khi đăng ký thành lập doanh
nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp (điều 48, điều 74, điều 112). Nếu sau thời hạn 90 ngày nêu trên mà
thành viên, cổ đông chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán đủ số cổ phần đã cam
Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846


Page 8


kết, công ty phải đăng ký điểu chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị thực góp. Thành viên,
cổ đông chưa góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết góp; chưa thanh toán hoặc
chưa thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua phải chịu trách nhiệm tương ứng
với phần vốn góp đã cam kết, với tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã đăng ký mua đối
với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời hạn 90 ngày nêu trên.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cũng có thể điều chỉnh giảm vốn bằng
cách hoàn trả một phần vốn góp trong vốn điều lệ của công ty theo các điều kiện
luật quy định, đây cũng là một quy định được thay đổi so với luật 2005, khi cho
phép công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được giảm vốn điều lệ, bởi
khoản 1, điều 76 – Luật doanh nghiệp 2005 đã có quy định: “1. Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên không được giảm vốn điều lệ.”
6. Luật doanh nghiệp 2014 cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn và công
ty cổ phần có thể có hơn một người đại diện.
Điều 46 – Luật doanh nghiệp 2005 có quy định về cơ cấu tổ chức quản lý
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên:
“... Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là
người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.”
Điều 67 – Luật doanh nghiệp 2005 có quy định về cơ cấu tổ chức quản lý
của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức:
“5. Điều lệ công ty quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch
công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của
công ty...”
Điều 95 – Luật doanh nghiệp 2005 quy định về cơ cấu tổ chức quản lý công
ty cổ phần:

Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846


Page 9


“... Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người
đại diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty.”
Như vậy, Luật doanh nghiệp 2005 quy định công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần chỉ có một người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định
tại điều lệ công ty. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2014 đã có sự thay đổi đáng chú
ý, nhằm hướng tới việc tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp, cho phép doanh
nghiệp toàn quyền quyết định số lượng người đại diện theo pháp luật cho mình
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch của doanh
nghiệp. Khoản 2, điều 3 – Luật doanh nghiệp 2014 có quy định:
“2. Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc
nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng,
chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp.”
Theo đó, doanh nghiệp sẽ có toàn quyền quyết định số lượng người đại diện
theo pháp luật, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể có nhiều cơ hội kinh doanh
được tận dụng thông qua các đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Quy định sẽ
tháo gỡ những khó khăn doanh nghiệp thực tế đã gặp phải trong quá trình thực hiện
theo luật doanh nghiệp 2005, ví dụ như mọi hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị
ngừng trệ khi người đại diện theo pháp luật duy nhất của doanh nghiệp vắng mặt,
hay trường hợp người đại diện theo pháp luật duy nhất của doanh nghiệp lạm
quyền, bất hợp tác với các thành viên khác... trong quá trình quản lý điều hành
doanh nghiệp trong nội bộ cũng như giao dịch với bên ngoài doanh nghiệp. Doanh
nghiệp sẽ phải phân định rõ quyền, nhiệm vụ, nghĩa vụ của từng người đại diện
theo pháp luật, đối tác của doanh nghiệp từ đó sẽ phải tìm hiểu kĩ càng tư cách và
thẩm quyền của người đại diện đó trước khi có những sự hợp tác trong kinh doanh.
Bởi mỗi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ có quyền đại diện trong

Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 10


phạm vi quyền hạn họ được trao, mọi hành động của họ sẽ ràng buộc trách nhiệm
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, “Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại
diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một
người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy
quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại
diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện
theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã
ủy quyền” (khoản 3, điều 13 – Luật doanh nghiệp 2014). Một điểm mới và tiến bộ
khi đưa ra phương án giải quyết đối với người đại diện theo pháp luật thường
xuyên vắng mặt tại Việt Nam, đó là trường hợp hết thời hạn ủy quyền mà người đại
diện theo pháp luật chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác thì thực hiện
theo quy định tại khoản 4, điều 33 – Luật doanh nghiệp 2014.

7. Luật doanh nghiệp 2014 đã mở rộng các đối tượng được quyền hợp
nhất, chia, tách, sáp nhập.
Khoản 1, điều 150 – Luật doanh nghiệp 2005 có quy định về chia doanh
nghiệp:
“1. Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể được chia thành
một số công ty cùng loại.”
Khoản 1, điều 151 – Luật doanh nghiệp 2005 có quy định về tách doanh
nghiệp:
“1. Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể tách bằng cách
chuyển một phần tài sản của công ty hiện có (sau đây gọi là công ty bị tách) để
Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846


Page 11


thành lập một hoặc một số công ty mới cùng loại (sau đây gọi là công ty được
tách); chuyển một phần quyền và nghĩa vụ của công ty bị tách sang công ty được
tách mà không chấm dứt tồn tại của công ty bị tách.”
Khoản 1, điều 152 – Luật doanh nghiệp 2005 có quy định về hợp nhất doanh
nghiệp:
“1. Hai hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị hợp nhất)
có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi là công ty hợp nhất) bằng cách
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất,
đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.”
Khoản 1, điều 153 – Luật doanh nghiệp 2005 có quy định về sáp nhập doanh
nghiệp:
“1. Một hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập)
có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty
nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.”
Từ các điều khoản được trích dẫn ở trên, ta có thể thấy rằng theo pháp luật
2005 hiện hành, việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập chỉ được áp dụng với các công
ty cùng loại. Điều này là một hạn chế và cản trở việc tổ chức lại doanh nghiệp, làm
giảm cơ hội đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp, càng ngày càng không phù hợp
với thực tế, nhất là trong đặc điểm nền kinh tế đất nước hiện tại này một năng động
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Thấy được các hạn chế đó, Luật doanh nghiệp 2014 đã thay đổi các quy định
về việc tổ chức lại doanh nghiệp. Khoản 1, các điều 192, điều 193, điều 194, điều
195 – Luật doanh nghiệp 2014, đã lần lượt quy định về việc chia, tách, hợp nhất,
sáp nhập doanh nghiệp. Luật đã cho phép các công ty khác loại hình có thể chia,
Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846


Page 12


tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp. Quy định này của pháp luật chắc chắn sẽ
góp phần thúc đẩy hoạt động mua bán doanh nghiệp trong thời gian tới, khi mà luật
doanh nghiệp 2014 có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2015. Luật 2014 cũng có những quy
định cụ thể hướng dẫn trình tự, thủ tục về các phương thức tổ chức lại doanh
nghiệp trên và các thủ tục đăng ký lại sau chia, tách, hợp nhất, sáp nhập. Vì đã có
nhiều sự lựa chọn hơn trong vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp, nên doanh nghiệp cần
có sự xem xét và tìm hiểu kĩ lưỡng thông tin và tình hình thực tế của doanh nghiệp
trước khi thực hiện chia, tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp.
8. Về thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Khoản 2, điều 165 – Luật doanh nghiệp 2005 quy định về xử lý vi phạm đã
quy định rõ 8 trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, luật doanh nghiệp
2014 chỉ quy định 5 trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp, cụ thể trong khoản 1, điều 211.
Ngoài ra, luật doanh nghiệp 2014 bổ sung quy định về giải thể doanh nghiệp
trong trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc theo quyết
định của Tòa án (điều 203). Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta gặp khó khăn, tác
động lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp phải giải thể,
ngừng hoạt động, luật doanh nghiệp 2014 đã đơn giản hóa thủ tục rút khỏi thị
trường bằng quy định: giải thể tự động. Theo đó, “Sau thời hạn 180 ngày, kể từ
ngày nhận được quyết định giải thể theo khoản 3 điều này mà không nhận được ý
kiến về việc giải thể từ doanh nghiệp hoặc phản đối của bên có liên quan bằng văn
bản hoặc trong 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Cơ quan đăng ký
kinh doanh cập nhập tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên cơ sở dữ liệu quốc
gia về đăng ký doanh nghiệp.” (khoản 8, điều 202). Như vậy, thủ tục doanh nghiệp


Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 13


rút khỏi thị trường sẽ thuận lợi hơn, nhanh hơn, rẻ hơn với các quy định của luật
doanh nghiệp mới.
9. Luật doanh nghiệp 2014 đã bổ sung thêm một chương hoàn toàn mới:
“Chương IV – DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC”.
Khoản 22, điều 4 – Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định:
“22. Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu
trên 50% vốn điều lệ.”
Khoản 8, điều 4 – Luật doanh nghiệp 2014 lại có định nghĩa khác:
“8. Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ.”
Luật 2014 đã thêm vào một chương hoàn toàn mới về doanh nghiệp nhà
nước. Theo quy định, chỉ những doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu 100% vốn mới
được coi là doanh nghiệp nhà nước. Trường hợp doanh nghiệp mà Nhà nước sở
hữu dưới 100% vốn, doanh nghiệp sẽ được tổ chức theo mô hình công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần và chịu sự điều chỉnh
như các doanh nghiệp cùng loại. Chương IV luật doanh nghiệp 2014 cũng đã có
những quy định rất cụ thể cho hoạt động của loại hình doanh nghiệp nhà nước.

KẾT LUẬN
Sự đổi mới trong một số quy định của Luật doanh nghiệp 2014 so với Luật
doanh nghiệp 2005, chưa thể khắc phục được tất cả những tồn tại, bất cập nhưng
cũng đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, muốn tạo cho các doanh
nghiệp điều kiện tốt để hoạt động, phát triển và có được nhiều cơ hội, đạt được
nhiều thành công cho doanh nghiệp, góp phần phát triển xây dựng nền kinh tế Việt
Nam phát triển. 9 điểm đổi mới được nêu ra ở bài viết trên đây, tuy chưa đầy đủ các

Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 14


điểm đổi mới nhưng cũng là những điểm đổi mới khá cơ bản, sẽ có ảnh hưởng ít
nhiều đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp 2014 sẽ
có hiệu lực bắt đầu từ ngày 1/7/2015, rất có thể sẽ phát sinh những vấn đề mới
trong quá trình thực thi trên thực tế, đòi hỏi các nhà làm luật và các doanh nghiệp
sẽ phải tìm ra những hướng đi tiếp theo.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại tập 1, Nxb Công
An Nhân Dân, Hà Nội, 2011.
2. Bộ môn Thương mại – Trường Đại học Luật Hà Nội, Hướng dẫn môn học
3.
4.
5.
6.

Luật Thương mại tập 1, Nxb Lao động, Hà Nội, 2014.
Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014.
Website Cổng thông tin Đăng ký doanh nghiệp Quốc gia:
/> />
ItemID=424
7. />8. />9. />10. />11. />12. />Đỗ Diệu Linh – MSSV: 382846

Page 15




×