Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tâm lý học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.18 KB, 16 trang )

Tâm lý học
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hoạt động, tinh thần và tư
tưởng của con người (cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành động). Tâm lý
học cũng chú tâm đến sự ảnh hưởng của hoạt động thể chất, trạng thái tâm lý và
các yếu tố bên ngoài lên hành vi và tinh thần của con người. Ngành này tập
trung vào loài người, tuy một vài khía cạnh của động vật cũng thỉnh thoảng
được nghiên cứu. Động vật ở đây có thể được nghiên cứu như là những chủ
thể độc lập, hoặc – một cái nhìn gây tranh cãi hơn – được nghiên cứu như một
cách tiếp cận đến sự hiểu biết bộ máy tâm thần của con người (qua tâm lý học
so sánh). Tâm lý học được định nghĩa một cách rộng rãi như là "khoa nghiên
cứu những hành vi và những tiến trình tâm thần của con người".
Tâm lý học vừa được nghiên cứu một cách khoa học lẫn phi khoa học. Tâm lý
học chủ đạo ngày nay đa phần đặt nền tảng trên thuyết thực chứng, thông qua
những phân tích định lượng và sử dụng những phương pháp khoa học để thử và
bác bỏ những giả thuyết. Tâm lý học có khuynh hướng chiết trung, sử dụng và
tiếp thu kiến thức thu thập được từ nhiều ngành khoa học khác để hiểu và lý giải
hành vi của con người. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học:


Nghiên cứu bản chất của các hiện tượng tâm lý.



Nghiên cứu mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý đó.



Nghiên cứu vai trò, chức năng của tâm lý đối với hoạt động của con
người.


Những ngành liên quan đến tâm lý học


Kinh tế học: Nghiên cứu về sự sản xuất, sự phân phối cùng sử dụng sản
phẩm, và sự phục vụ của loài người.



Chính trị học: Nghiên cứu về sự hình thành và phương cách tổ chức của
một nền hành chính và quản trị của loài người.



Sinh vật học: Nghiên cứu về hệ thống và cách vận hành của các loài vật.



Nhân loại học: Nghiên cứu về nguồn gốc và sự phát triển về văn hóa và
xã hội của loài người.




Xã hội học: Quan sát các giống người về cách tổ chức trong xã hội, đặc
biệt chú trọng đến sự hoạt động của những nhóm người.



Bệnh học tâm thần: ngành y học nghiên cứu những hành vi bất thường và
những bệnh tâm thần nghiêm trọng.




Toán thống kê ứng dụng: vận dụng toán học vào kiểm nghiệm hay xác
định tính khác biệt và độ sai số chấp nhận.



Triết học: dựa trên quan điểm nào nghiên cứu về tâm lý ví dụ như triết
học duy vật biện chứng, triết học duy tâm, duy vật, siêu hình, hiện
sinh,... phụ thuộc niềm tin của những tác giả nghiên cứu hay các học thuyết
khác nhau.



Giáo dục: bộ môn Tâm lý học Sư Phạm, dùng để hiểu về tâm lý học sinh
sinh viên sao cho có cách dạy tốt nhất



Công an: bộ mộn Tâm lý học tội phạm, dùng để suy luận hành vi của tội
phạm

Lịch sử của tâm lý học
Bài chi tiết: Lịch sử của tâm lý học

Rudolf Goclenius
William James là người đầu tiên để bắt đầu lĩnh vực tâm lý học.[1] Thuật ngữ
Tâm lý học được dùng lần đầu tiên trong "Yucologia hoc est de hominis
perfectione, anima, ortu", do nhà triết học kinh điển người Đức Rudlof

Goeckel (La tinh hóa Rudolph Goclenius (1547-1628)) viết ra, được phát
hành tại Marburg vào năm 1590. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã được nhà nhân
văn học người Croatia là Marko Marulić (1450-1524) dùng trong thực tế từ
sáu thập kỷ trước đó trong tiêu đề của chuyên luận La tinh của ông
"Psichiologia de ratione animae humanae". Mặc dù chính chuyên luận không
được bảo tồn, tiêu đề của nó xuất hiện trong danh sách các công trình của
Marulic được người đồng nghiệp trẻ hơn của ông là Franjo BozicevicNatalis biên dịch trong "Vita Marci Maruli Spalatensis" của mình (Krstić,
1964). Điều này tất nhiên có thể không phải là việc sử dụng đầu tiên, nhưng
nó là việc sử dụng được ghi lại trên tài liệu sớm nhất hiện tại biết được.


Thuật ngữ đã bắt đầu được dùng rộng rãi kể từ khi nhà triết học duy tâm
người Đức Christian Wolff (1679-1754) dùng nó trong Psychologia
empirica and Psychologia rationalis của ông (1732-1734). Sự phân biệt giữa
tâm lý học kinh nghiệm (empirical) và lý trí (rational) này được đề cập
trongEncyclodedie của Diderot và được Maine de Biran phổ cập tại Pháp.
Nguồn gốc của từ tâm lý học (psychology) là psyche và logos (-logy)(tâm lý)
rất gần giống với "soul" (linh hồn) và logos (-logy) trong tiếng Hy Lạp, và
tâm lý học trước đây đã được coi như một nghiên cứu về linh hồn (với ý
nghĩa tôn giáo của thuật ngữ này), trong thời kỳ Thiên Chúa Giáo. Tâm lý
học được xem là một ngành y khoa được Thomas Willis nhắc đến khi nói về
tâm lý học (trong Doctrine of the Soul) với các thuật ngữ về chức năng não,
một phần của chuyên luận giải phẫu1862 của ông là "De Anima Brutorum"
("Hai thuyết trình về Linh hồn của Brutes").
 Người sáng lập của ngành tâm lý học là Wilhelm Wundt. Vào
năm 1879 ông thiết lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên
ở Leipzig, Đức. Ông tách Tâm lý học ra khỏi các khoa học khác, từ đây
tâm lý học trở thành khoa học độc lập. Ông là người theo chủ nghĩa cấu
trúc, quan tâm đến những gì tạo thành ý thức và mong muốn phân
loại não ra thành những mảng nhỏ khác nhau để nghiên cứu từng phần

riêng biệt. Ông sử dụng phương pháp xem xét nội tâm, yêu cầu một
người tự nhìn vào nội tâm và ý thức của bản thân để nghiên cứu. Những
người theo chủ nghĩa cấu trúc cũng tin rằng một người phải được huấn
luyện để có thể tự xem xét nội tâm của mình.
 Những người đóng góp cho tâm lý học trong những ngày đầu tiên bao
gồm Hermann Ebbinghaus (người tiên phong nghiên cứu trí nhớ), Ivan
Petrovich Pavlov(người Nga đã phát hiện ra quá trình học hỏi thông qua
những điều kiện kinh điển-phản xạ có điều kiện, là khái niệm quan trọng
trong nghiên cứu tâm lý cấp cao con người - ("sinh lý thần kinh cấp cao")
và Sigmund Freud. Freud là người Áo đã có rất nhiều ảnh hưởng đến
môn tâm lý học, mặc dù những ảnh hưởng này thiên về sinh vật hóa hơn,
đóng góp cho ngành khoa học tâm lý. Thuyết của Freud cho rằng cấu
trúc hành vi người được thúc đẩy bởi các thành tố cơ bản là ý thức-tiềm
thức-vô thức, dựa trên cơ chế "thỏa mãn và dồn nén".
 Ngày nay, vị trí tâm lý học có vai trò quyết định đến sức khỏe con
người. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã định nghĩa sức khỏe là sự tương
tác của mối liên hệ giữa Xã hội-Thể chất-Tinh thần con người. Năm 1972
Leonchiev đã làm sáng tỏ khái niệm về nghiên cứu tâm lý con người dựa
trên hay hướng đến hoạt động có đối tượng. Xây dựng liệu pháp tâm lý


trên hoạt động tích cực của cá nhân. Yếu tố tiền đề quyết định đến hành
vi và năng lực cá nhân đó phương tiện trong cấu trúc hoạt động có đối
tượng của cá nhân trong môi trường nhất định. Tổng hòa các mối quan hệ
xã hội.
Các lĩnh vực của Tâm lý học
Lục Đỏ Lam
Tím Lam Tím
Lam Tím Đỏ
Lục Tím Lục

Hiệu ứng Stroop khẳng định rằng việc nêu tên các màu trong đoạn thứ
nhất dễ hơn và nhanh hơn đoạn thứ hai.
Tâm lý học là một lĩnh vực nghiên cứu về quy luật chung nhất của sự vận
động thế giới đời sống con người dưới sự tác động qua lại tích cực của cá
nhân với thực tại khách quan. Chi tiết về các lĩnh vực cụ thể trong Tâm lý
học có thể tìm Các chủ đề về tâm lý học và Các môn tâm lý.
Tâm lý học Đại cương - tổng quát
Bài chi tiết: Nghiên cứu tâm lý phẩm chất và Nghiên cứu tâm lý phẩm
chất
Tâm lý học: Nghiên cứu những quy luật chung nhất của thế giới tinh thần
con người trong sự vận động tương tác với thực tại khách quan (tâm lý
đại cương) và những quy luật riêng biệt trong đời sống (tâm lý học
chuyên ngành: Tâm Lý học bất thường, Tâm lý học động học, Tâm lý
học nhận thức, Tâm lý học so sánh, Tâm lý học phát triển, Tâm lý học cá
nhân, Tâm lý học xã hội, Tâm lý học nghệ thuật, Tâm lý học quân
sự, Tâm lý học tội phạm,Tâm lý học sáng tạo,Tâm lý học lao động, Tâm
lý học trị liệu,Tâm lý học tư vấn, Tâm lý học kinh tế, Cận tâm lý,... và
ứng dụng trong thực tiễn đời sống con người.
Tâm lý học chuyên ngành - chuyên sâu
Bài chi tiết: Tâm lý học ứng dụng
Tâm lý học ứng dụng là nghiên cứu tâm lý học nhằm khắc phục đặc
biệt các vấn đề về thực hành và ứng dụng của việc nghiên cứu này là
đem ra áp dụng. Nhiều nghiên cứu tâm lý học được ứng dụng trong
các lĩnh vực khác nhau: Quản lý kinh doanh, Thiết kế sản phẩm, Lao
động học, Dinh dưỡng, và Y học lâm sàng. Tâm lý học ứng dụng bao
gồm các lĩnh vực: Tâm lý học lâm sàng, Tâm lý học công nghiệp và


tổ chức, Các nhân tố con người, Tâm lý học pháp lý, Tâm lý học sức
khỏe,Tâm lý học trường học và các lĩnh vực khác.

Các học thuyết Tâm lý học nổi tiếng
+ Thuyết Hành vi
Tiếp cận hành vi là một trong những cố gắng rất lớn của tâm lí học
thế giới đầu thế kỉ XX, nhằm khắc phục tính chủ quan trong nghiên
cứu tâm lí người thời đó. Kết quả là đã hình thành trường phái có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lí học Mĩ và thế giới trong suốt
thế kỷ XX: Tâm lý học hành vi, mà đại biểu là các nhà tâm lí học kiệt
xuất: E.L.Thorndike (1874-1949), J.B.J.Watson (1878:1958),
E.C.Tolman (1886-1959), K.L.Hull (1884-1952) và B.F.Skinner
(1904-1990) và A. Bandura v.v…
Tâm lý học hành vi ra đời là một cuộc cách mạng, làm thay đổi cơ
bản hệ thống quan niệm về tâm lý học đương thời. Theo đó, đối tượng
của tâm lý học là hành vi chứ không phải ý thức. Phương pháp nghiên
cứu là quan sát và thực nghiệm khách quan chứ không phải là nội
quan. Trước và trong thời kỳ xuất hiện Thuyết hành vi, tâm lý học
được hiểu là khoa học về ý thức và phương pháp nghiên cứu là nội
quan (tự quan sát và giải thích). Ngay từ khi ra đời ở Đức năm 1879,
với tư cách là khoa học độc lập, tâm lý học đã được mệnh danh là
Tâm lý học nội quan. W.Wundt - người sáng lập ra Tâm lý học này,
đã xác định đối tượng của tâm lý học là "tổ hợp các trạng thái mà ta
nghiệm thấy - các trạng thái được trực tiếp thể nghiệm trong vòng ý
thức khép kín". Sự phát triển tiếp theo của Tâm lý học nội quan đã
hình thành nên Tâm lý học cấu trúc ở Mĩ. Mặt khác, do nhu cầu khắc
phục sự bế tắc của Tâm lý học nội quan, cũng ở Mĩ những năm này
đã xuất hiện Tâm lý học chức năng. Tuy nhiên, trên thực tế, cả hai
dòng phái đều không tạo lập được khoa học khách quan về ý thức. Lý
luận của chúng gắn liền với phương pháp chủ quan, điều này gây sự
thất vọng ở khắp mọi nơi.
Kết quả là, những vấn đề cơ bản của tâm lý học trở nên mờ mịt đối
với nhiều người: Đối tượng nghiên cứu (ý thức) và nguồn gốc của nó

(ý thức bắt đầu từ đâu), phương pháp nghiên cứu (nội quan, nguyên
tắc giải thích: nguyên nhân tâm lý như là sự chế uớc của một số hiện
tượng ý thức đối với các hiện tượng khác). Từ đó đã xuất hiện nhu
cầu cấp thiết về đối tượng, phương pháp và nguyên tắc mới, đặc biệt
ở Mĩ, nơi mà cách tiếp cận thực dụng trong nghiên cứu con người
chiếm vai trò thống trị. Điều này đã được chứng minh bằng khuynh
hướng chức năng, mà trọng tâm chú ý là vấn đề thích ứng của cá nhân


với môi trường. Nhưng chủ nghĩa chức năng, vốn bắt nguồn từ các
quan niệm thời cổ đại về ý thức như là một bản thế đặc biệt vươn tới
mục đích, đã bị bất lực khi giải thích nguyên nhân điều khiển hành vi
con người, sự tạo ra những hình thức hành vi mới.
Phương pháp chủ quan đã mất uy tín, phải nhường vị trí cho phương
pháp khách quan. Ở đây, sinh lý học, đặc biệt là sinh lý học thần kinh
đã đóng vai trò quan trọng, trong đó công đầu thuộc về nhà sinh lý
học người Nga I.P.Pavlov, với khái niệm phản xạ có điều kiện. Về
phương diện kỹ thuật, phương pháp nghiên cứu phản xạ có điều kiện
cho phép ta nhận biết khách quan các phản ứng của cơ thể đối với
một kích thích. Các nhà hành vi học đã không bỏ qua thành tựu này.
Phương pháp phản xạ trở thành cứu cánh của họ. Mặt khác, sự phát
triển của tâm lý học động vật đã mang lại cho Tâm lý học hành vi đối
tượng nghiên cứu mới: hành vi của động vật. Sự xuất hiện những
nghiệm thể mới – động vật - không có khả năng nội quan, đã đóng vai
trò quan trọng giúp nhà nghiên cứu chuyển từ quan sát sang thực
nghiệm. Hiệu quả tác động của nghiệm viên bây giờ không phải là tự
"thông báo" của nghiệm thể về các trạng thái của mình (như trong
Tâm lý học nội quan) mà là những phản ứng vận động - một điều
hoàn toàn khách quan. Trong biên bản thực nghiệm đã xuất hiện các
thông tin kiểu mới về nguyên tắc. Hơn nữa, chính những nguyên tắc

và phương pháp này đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của triết học thực
chứng và chủ nghĩa cơ học, đang chi phối tinh thần nước Mĩ. Đó
chính là hoàn cảnh tư tưởng - lý luận đã sinh ra Thuyết hành vi.
Nhân vật hàng đầu của Tâm lý học hành vi là J.Watson. Các luận
điểm của ông là nền tảng lý luận của hệ thống tâm lý học này. Nói tới
Tâm lý học hành vi, không thể không nói nhiều về các quan điểm đó.
Tuy nhiên, một mình J.Watson không làm nên trường phái thống trị
tâm lý học Mĩ và ảnh hưởng lớn tới sự phát triển tâm lý học thế giới
suốt thế kỷ XX. Trước J.Watson có nhiều bậc tiền bối, mà tư tưởng và
kết quả thực nghiệm của họ là cơ sở trực tiếp, để trên đó Watson xây
dựng các luận điểm then chốt của Tâm lý học hành vi. Sau J.Watson
nhiều nhà tâm lý học lớn khác của Mĩ đã phát triển học thuyết này,
đưa nó thành hệ thống tâm lý học đa dạng và bám rễ vào mọi ngóc
ngách của đời sống xã hội. Vì vậy, có thể chia quá trình phát triển của
Tâm lý học hành vi thành ba giai đoạn không hoàn toàn theo trật tự
tuyến tính về thời gian: những cơ sở lý luận và thực nghiệm đầu tiên
hình thành các luận điểm cơ bản (Thuyết hành vi cổ điển); sự phát
triển tiếp theo của Tâm lý học hành vi, sau khi có các luận điểm của
J.Watson (các thuyết hành vi mới và hậu hành vi).


+ Thuyết Phân tâm
Ngày nay, thuật ngữ "Phân tâm học" cùng với tên tuổi của người sáng
lập nó là Sigmund Freud đã trở lên quá quen thuộc đối với nhiều
người. Trong khi những tên tuổi vĩ đại khác của khoa học tâm lý như
W.James, J.Watson, J.Piaget, L.X.Vưgotxki v.v ít được biết ngoài
phạm vi tâm lý học, thì S.Freud nổi tiếng đối với nhiều tầng lớp,
nhiều lĩnh vực: tâm lý học, giáo dục học, y học, văn học - nghệ thuật,
tôn giáo, đạo đức v.v… 40 năm sau ngày mất của ông, tạp chí "News
week" đánh giá rằng tư tưởng của Freud đã đi sâu vào ý thức của

chúng ta đến nỗi "khó mà tưởng tượng được thế kỷ XX lại thiếu ông"
(30/11/1981). Ông thuộc về một trong số ít nhà tư tưởng đã làm thay
đổi căn bản cái nhìn của chúng ta về bản thân mình.
Chính S.Freud, sinh thời, đã có lần cho rằng, trong suốt lịch sử của
loài người, đã trải qua 3 cú sốc lớn. Cú sốc đầu tiên do nhà thiên văn
học người Ba Lan Nicolas Copernicus (1473 - 1543) mang đến, người
đã chứng minh rằng, Trái Đất không phải là trung tâm của vũ trụ, mà
chỉ là một trong rất nhiều hành tinh quay xung quanh mặt trời. Phát
hiện thứ hai vào thế kỷ XIX, học thuyết của Charles Darwin, người
đã chỉ ra rằng, con người không phải là một loài độc đáo, khác hẳn
với tất cả thế giới động vật, do vậy, họ không thể tham vọng chiếm
một vị trí đặc biệt trong tự nhiên. Con người chỉ là một loài động vật
cao cấp, xuất hiện trong quá trình tiến hoá từ những loài thấp hơn. Cú
sốc thứ ba do chính S.Freud tạo ra, khi ông phát hiện, chúng ta không
luôn ở trong trạng thái có thể kiểm soát được bản thân một cách tuyệt
đối nhờ ý thức. Ngược lại, chúng ta là một thứ đồ chơi trong tay của
những sức mạnh vô thức, không chịu sức áp đặt của ý thức. Như vậy,
Copernicus đã dịch chuyển loài người từ trung tâm của thế giới ra
ngoại vi, Darwin buộc con người phải công nhận họ hàng tiền thân
với động vật, còn Freud chứng minh rằng, ý thức không phải là chủ
nhân trong chính ngôi nhà của mình. Lời khẳng định của S.Freud
không phải không có lí. Kể từ khi thuyết phân tâm ra đời đến nay, ở
phương Tây, không một lý thuyết khoa học nào có tác động mạnh mẽ
đến suy nghĩ của mọi người hơn lý thuyết này, ngoại trừ lý thuyết về
sự tiến hoá của Ch.Darwin.
Phân tâm học của S.Freud có số phận đặc biệt. Ngay từ khi mới ra
dời, nó và cha đẻ của nó đã được đón tiếp với các thái độ ngược nhau.
Sự ghẻ lạnh của giới y học và của xã hội Đức - Áo đương thời. Các
bác sỹ thần kinh - đồng nghiệp của Freud xa lánh và phản bác ông.
Nhiều người doạ bỏ tù ông, lên án ông là kẻ phạm tội lớn nhất đối với

nền văn hoá châu Âu. Khi A.Hitler lên cầm quyền ở nước Đức và


chiếm được nước áo, đã ra lệnh giết người thân và đốt sách của ông.
Trong khi đó, ở phía bên kia, ngay từ những năm 1905, tại Hoa kỳ,
nhà tâm lý học lừng danh W.James đã khẳng định với S. Freud
"Tương lai tâm lý học thuộc về công trình của ông", còn ở Pháp,
E.Clapared (1873-1940) nhận định: Phân tâm học của S.Freud là một
trong những biến cố quan trọng nhất mà lịch sử các khoa học của trí
tuệ loài người có được". Theo dòng thời gian, đã hơn 100 năm qua,
vẫn liên tục diễn ra những cuộc tranh luận gay gắt về toàn bộ hoặc
một số luận điểm trong học thuyết của S.Freud. Điều kỳ lạ là cùng
với các luồng thái độ đó, phân tâm học ngày càng phát triển và thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội. Thậm chí, vài
thập niên gần đây, nhiều trào lưu tư tưởng cực đoan đã lợi dụng danh
nghĩa của Phân tâm học, để kêu gọi "tự do tính dục", "Giải phóng tính
dục", "Cách mạng tính dục"… Những trào lưu này, thực chất là lợi
dụng và xuyên tạc S. Freud.
Trên bình diện tâm lí học, ở nước ta Phân tâm học được nghiên cứu ít
hơn các học thuyết khác. Nguyên do là việc tìm hiểu thuyết này
thường gặp khó khăn từ ba phía. Trước hết, hướng tiếp cận của Phân
tâm học không giống các học thuyết tâm lí truyền thống. Những khái
niệm và phương pháp của các trường phái tâm lý học đương thời đều
được sinh ra trong phòng thí nghiệm, trong thư viện và trong các bài
giảng ở giảng đường đại học. Ngược lại, Phân tâm học hầu như không
có quan hệ với các giảng đường đại học và với lý tưởng của khoa học
đơn thuần. Nó được sinh ra trong lòng của tâm thần học truyền thống,
có nhiệm vụ giúp đỡ những người mà xã hội cho là "bệnh nhân tâm
lý". Chính vì thế sự thâm nhập của Phân tâm học vào làng tâm lý học
không phải bằng cửa trước, mà bằng cửa bên. Chính xác hơn, không

thể so sánh nó với các trường phái khác. Nó có lãnh địa riêng trong sự
khám phá thế giới tâm hồn con người. Phân tâm học, ngay từ cội
nguồn đã không cùng dòng chảy với các tư tưởng tâm lý học chính
thống. Đối tượng của nó không phải là hành vi bình thường mà là
hành vi bất thường, điều mà các trường phái tâm lý học khác ít quan
tâm. Phương pháp chủ yếu của nó là quan sát lâm sàng, chứ không
phải là những thí nghiệm được kiểm soát trong phòng thí nghiệm.
Ngoài ra, Phân tâm học còn quan tâm nhiều đến vô thức - một đề tài
mà hầu như bị loại bỏ bởi các trường phái tâm lý học đương thời. Thứ
hai: các nội dung nghiên cứu, các khái niệm, thuật ngữ được sử dụng
trong Phân tâm học thường bị "cấm kị", dễ gây "dị ứng" đối với sinh
hoạt văn hoá đời thường của xã hội, đặc biệt là trong xã hội tôn giáo
phương Tây và phong kiến phương Đông. Thứ ba, các luận giải của
S.Freud rất tinh tế, phần nhiều được rút ra từ kỹ thuật lâm sàng, hầu


như không có sự lượng hoá, thống kê, những nội dung tâm lí được
trình bày ở điểm giáp ranh giữa khoa học và suy diễn tư biện, nếu
được chứng minh, chúng sẽ là phát hiện lớn lao về những điều sâu
thẳm trong thế giới đời sống tâm lí con người, nhưng nếu thái quá
chúng rất dễ trở thành tín điều phi khoa học. Vì vậy, để có cái nhìn
khách quan về Phân tâm học, về sự kế thừa, sáng tạo và cống hiến của
S.Freud, cũng như giá trị khoa học của các lý luận, phương pháp và
kỹ thuật phân tâm của ông, cần phải nhìn nhận học thuyết này theo
góc độ lịch sử.
Mặt khác, giống nhiều thuyết tâm lý học khác, trong quá trình phát
triển, Phân tâm học thường xuyên chịu sức ép từ hai phía: sự phát
triển và phân hoá từ bên trong và sự phản bác từ bên ngoài. Ngay sau
khi ra đời, học thuyết này đã phân hoá thành nhiều "nhánh": Tâm lý
học bề sâu của J.Jung (nhà tâm lý học Thụy Sỹ 1875-1961); Tâm lý

học cá nhân của Alfred Adler (nhà tâm lí học Áo gốc Australia 18701937); Lý thuyết về sự phát triển tâm lý xã hội của Eric Ericson (nhà
tâm lý học Mĩ gốc Đức 1902-1994); Phân tâm học trẻ em của Anna
Freud (1895-1982) và Mélanie Klein (1882-1960) v.v… Như vậy,
nhiệm vụ của chương là vừa phải phân tích các nội dung chủ yếu của
Phân tâm học S. Freud về sự phát triển người vừa phải đề cập tới một
số lý thuyết phát triển sau đó. Cấu trúc của chương gồm 4 phần: Bối
cảnh xã hội và những yếu tố tiền thân của Học thuyết phân tâm; S.
Freud và sự hình thành Phân tâm học cổ điển; Những lý thuyết phát
triển và cuối cùng là những người chống đối từ bên trong.
+ Thuyết Phát sinh nhận thức - Jean Piaget
"Từ đây cho tới cuối thế kỷ, tôi e rằng tâm lý học thế giới chỉ việc
khai thác riêng các ý tưởng của J. Piaget thì cũng không làm sao hết
được".
Paulpraisse
Cho tới cuối thế kỷ XX, chưa có nhà khoa học nào nghiên cứu sự
phát sinh nhận thức và trí tuệ trẻ em được sâu sắc, hệ thống bằng
J.Piaget. Suốt bảy thập kỷ kiên trì và sáng tạo khoa học, ông đã góp
phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển lĩnh vực khoa học
mới: Tâm lý học phát triển. Cả cuộc đời của J.Piaget là cuộc đời của
nhà Bác học và lao động không ngừng. Các thầy cô giáo, bậc cha mẹ
và trẻ thơ trên thế giới biết ơn những cống hiến lớn lao và tâm huyết
của ông trong lĩnh vực này.
Jean Piaget sinh ngày 9 tháng 8 năm 1896 tại Nêuchâtel Thụy Sỹ,
trong một gia đình tri thức danh tiếng.


Từ nhỏ ông đã bộc lộ thiên tư trí tuệ tuyệt vời, xuất chúng. Năm 10
tuổi ông đã công bố bài báo khoa học đầu tiên của mình, mô tả các
quan sát về một con chim sẻ bạch tạng quý hiếm. Ít lâu sau, ông theo
học một tớp giúp việc người quản lý bảo tàng lịch sử thiên nhiên ở

địa phương. 15 tuổi J.Piaget đã bộc lộ rõ xu hướng nghiên cứu sinh
học và đã công bố những bài báo khoa học, nghiên cứu về động vật
có vú.
Năm 18 tuổi J.Piaget đỗ cử nhân và năm 1918, J.Piaget hoàn thành
luận án Tiến sĩ thuộc lĩnh vực động vật học, tại Viện đại học
Nêuchâtel, với đề tài "Sự thích ứng của loài nhuyễn thể". Trong thời
gian này, ông đã công bố 25 công trình nghiên cứu sự sinh trưởng,
thích nghi của loài sò quanh hồ Nêuchâtel. Những kiến thức sinh học
và ấn tượng về sự thích nghi của loài sò óc đã hình thành trong ông
các khái niệm cơ bản để nghiên cứu sự phát triển trí năng của trẻ em
sau này.
Ngoài sinh học, mối quan tâm thứ 2 của ông là khoa học luận
(Epistemology) - một ngành triết học đề cập đến nguồn gốc phát sinh
của hiểu biết, ông nuôi hy vọng táo bạo là có thể hợp nhất hai vấn đề
mà ông quan tâm. Vào thời điểm đó, ông cảm thấy, tâm lý học chính
là câu trả lời. Ông chuyển đến Paris và dành ra 2 năm để học tâm lý
học lâm sàng, lôgíc và triết lý khoa học tại Sorbonne. Trong thời gian
ở Pari, J.Piaget được đề nghị đảm trách công việc chuẩn hoá những
trắc nghiệm trí thông minh tại phòng thí nghiệm của A.Binet. Điều
này đã ảnh hưởng sâu sắc đến xu hướng nghề nghiệp của ông.
J.Piaget sớm nhận thấy và quan tâm nhiều hơn đến những "câu trả lời
sai" của trẻ so với các kết quả trắc nghiệm. Ông nghĩ rằng, dường như
trẻ em cùng độ tuổi thường mắc phải những loại câu trả lời sai giống
nhau đối với một số câu hỏi nhất định. Vậy tại sao? J.Piaget tiếp tục
tìm hiểu về những nhận thức sai lệch của trẻ bằng phương pháp lâm
sàng mà ông đã học được trước đây, khi còn làm việc trong một bệnh
viện tâm thần thực hành. Không bao lâu sau, ông lại phát hiện ra rằng,
trẻ ở những độ tuổi khác nhau, thường có những loại câu trả lời sai
khác nhau, và ông đi đến kết luận: trí tuệ phải là một thuộc tính đa
diện. Những đứa trẻ lớn tuổi hơn không chỉ đơn giản là thông minh

hơn những đứa trẻ ít tuổi, mà quá trình suy nghĩ của chúng cũng hoàn
toàn khác. Những phát hiện này đã cuốn hút J.Piaget và ông cố gắng
xác định xem trẻ tiến triển từ phương thức (hay giai đoạn) suy nghĩ
này sang phương thức suy nghĩ khác như thế nào. Việc nghiên cứu
của con người đáng lưu ý này còn tiếp tục khoảng 60 năm nữa, cho
đến khi ông mất vào năm 1980.


Năm 1921 (25 tuổi), theo đề nghị của Giáo sư Claparède - Viện
trưởng Viện khoa học giáo dục, ông chuyển từ Paris về Genève để
đảm nhận chức Trưởng phòng tâm lý thực nghiệm. Năm 1925, ông
nhận chức Giáo sư Đại học Nêuchâtel, dạy bao cả 3 ngành: Tâm lý
học, Xã hội học và Triết học. Năm 1929, được bổ nhiệm Giáo sư Đại
học Genève về môn Lịch sử tư tưởng khoa học, Giám đốc Trung tâm
giáo dục quốc tế của Unesco và ở cương vị này cho tới năm về hưu
(1972). Năm 1933 là Viện trưởng Viện khoa học giáo dục Thụy Sỹ tại
Genève. Năm 1940, Giáo sư tâm lý thực nghiệm và năm 1952 là Giáo
sư Trường Đại học Sorbonne, Paris.
Trong suốt những năm 1921 đến 1940, mối quan tâm chủ yếu của
J.Piaget là lĩnh vực tâm lý học, đặc biệt là sự phát sinh nhận thức và
trí tuệ của trẻ em. Trong thời gian này, nhiều công trình đã được ông
công bố. "Ngôn ngữ và tư duy của trẻ" (1923), "Mệnh đề và kết luận
của trẻ" (1924), "Biểu tượng về thế giới của trẻ" (1926) v.v. Những
nghiên cứu về lĩnh vực trên được ông tập hợp trong hai công trình nổi
tiếng: "Tâm lý học trí tuệ" (1946) và "Tâm lý học trẻ em" (1966).
Từ năm 1940 J.Piaget chuyển dần lĩnh vực nghiên cứu từ tâm lý trẻ
em sang Lôgic học và Khoa học luận. Từ năm 1950 chuyển hẳn sang
lĩnh vực này, đặc biệt là nghiên cứu quá trình phát triển tư duy con
người. Năm 1956, ông thành lập ở Genève Trung tâm nghiên cứu
quốc tến về nhận thức luận khoa học (Centre international d’

épistemologie Scientifique), với sự tham gia của nhiều nhà Bác học
lớn đương thời như Albert Einstein (Vật lý), B.Grize (Toán và Lôgic),
W.Mc.Cullôch (Sinh học thần kinh) v.v. Kết quả là trong thời gian
này nhiều tác phẩm khoa học của ông đã được xuất bản: "Lớp, quan
hệ và số" (1942), "Tiểu luận lôgic" (1952), "Nghiên cứu sự chuyển
hoá của các thao tác lôgíc" (1953) và "Khái niệm về nhận thức phát
sinh" (1950), với hơn 1000 trang, gồm 3 tập: "ý tưởng toán học", "ý
tưởng vật lý học", "ý tưởng sinh học, ý tưởng tâm lý học và ý tưởng
xã hội học".
Ngay từ những năm 1935-1965, J.Piaget đã quan tâm tới việc vận
dụng kết quả nghiên cứu tâm lý học trẻ em vào các lĩnh vực văn hoá,
giáo dục, đặc biệt là vào phương pháp giáo dục trẻ em. Ông đã phân
tích và phê phán hạn chế của phương pháp giáo dục cổ truyền, quảng
bá các phương pháp giáo dục mới, trong đó đề cao vai trò của phương
pháp hoạt động trong dạy học. Coi đó là phương pháp mang lại hiệu
quả hơn hẳn những phương pháp đương thời. Các tác phẩm: "Giáo
dục đang đi về đâu" (1948), "Tâm lý học và giáo dục học" (1969)
phản ánh khá rõ trăn trở và tư tưởng đổi mới của J.Piaget trong lĩnh


vực này. Nhiều đề xuất của ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời
sự.
J.Piaget là người lao động không mệt mỏi. Suốt cuộc đời, ông quan
sát, thử nghiệm, tích luỹ khối lượng khổng lồ dữ kiện về sự phát triển
tâm lý trẻ em. Hàng năm, khi kết thúc năm học, ông mang tài liệu thu
thập được đến một trang trại vắng người dưới chân núi Alpea. Ở đó,
cả mùa hè, ông không tiếp xúc với khách, miệt mài phân tích, tổng
hợp tư liệu, hình thành nên các tác phẩm khoa học. Trong suốt 70
năm làm việc J.Piaget đã công bố hàng trăm cuốn sách và bài viết về
các lĩnh vực sinh học, tâm lý học, ngôn ngữ, lôgic… trong hệ thống lý

thuyết liên bộ môn đồ sộ.
J.Piaget mất ngày 16.9.1980 tại Genève.
Sinh thời, J.Piaget được kính trọng trên khắp thế giới. Ông là giáo sư
của nhiều trường Đại học lớn ở Pháp và Thụy Sỹ Giám đốc phòng
thực nghiệm, phụ trách văn phòng Quốc tế về giáo dục, Uỷ viên Hội
đồng chấp hành của Unesco, Viện sỹ và tiến sỹ danh dự của nhiều
trường Đại học, Viện hàn lâm danh tiếng: Harvard (1936), Columbia
(1970), Bruvtelle (1940), Brazill (1949).
J.Piaget là nhà Bác học đa lĩnh vực: Bắt đầu từ sinh học, sang tâm lý
học đến nhận thức luận, trong lĩnh trực nào ông cũng ông có nhiều
cống hiến lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm lý học trẻ em. Những
công trình về lĩnh vực này của ông uyên bác đến mức, trong diễn văn
khai mạc Hội nghị tâm lý học thế giới lần thứ 21, năm 1976, Chủ tịch
hội tâm lý học thế giới, nhà Tâm lý học Pháp Paul Praisse đã phát
biểu: "Từ đây cho tới cuối thế kỷ, tôi e rằng tâm lý học thế giới chỉ
việc khai thác riêng các ý tưởng của J.Piaget thì cũng không làm sao
hết được".
+ Thuyết hoạt động
Do các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) như L.X.Vugotxki, X.L
Rubinstein, A.N Leonchev cùng với nhiều nhà tâm lý của Đức, Pháp,
Bungari sáng lập. Tâm lý học hoạt động lấy Triết học Mác - Lênin
làm cơ sở lý luận và phương pháp luận. Các nhà Tâm lý học hoạt
động cho rằng, tâm lý là sự phản ánh hiện thực khác quan vào não
người. Tâm lý người có cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội, được hình
thành trong hoạt động, giao tiếp và trong các mối quan hệ xã hội. Vì
thế, tâm lý người mang bản chất xã hội và mang tính lịch sử, là sản
phẩm của hoạt động và giao tiếp.


TÌM HIỂU VỀ TÂM LÝ HỌC HÀNH VI

“Chúng tôi cần bắt đầu làm việc trong những lĩnh vực tâm lý học và đặt ra mục
đích khách quan cho cuộc đấu tranh của chúng tôi không phải là ý thức mà là
hành vi”.

Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hành vi, tinh thần và tư tưởng của
con người (cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành động).

Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hình thành hai xu hướng triết học là
‘duy tâm chủ quan’ và ‘duy tâm khách quan’, cuộc chiến giữa hai xu hướng này
đã bất phân thắng bại, tạo nên sự khủng hoảng trong khoa học về ‘tâm lý học’.
Trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống (sự công bằng xã hội mà con người nhìn
thấy được) và tiến bộ của khoa học, tâm lý học duy tâm gập khó khăn khi giải
thích thực hàng loạt các vấn đề của tâm lý học. Chính vì thế, đã xuất sinh sự cần
thiết tìm ra một con đường mới về nguyên tắc xây dựng khoa học tâm lý.

Dựa trên quan điểm triết học duy vật thực chứng của Comte (1798 - 1857) quan
niệm rắng mọi lập luận phải được xây dựng trên cơ sở những chứng cứ khách
quan, quan sát được, những thành tựu của các nhà sinh lý học thần kinh và tâm
lý học động vật, John B. Watson (1878 – 1958) - một nhà tâm lý học người Mỹ
đã khởi xướng một phương pháp làm việc mới mang tên gọi chung là “tâm lý
học hành vi” (behaviorism) – một phương pháp khoa học nghiên cứu hành vi –
tức những gì con người khả thi cảm nhận thấy được.

Các nhà nghiên cứu có xu hướng duy vật trong tâm lý học đã đi theo con đường
này, và nhờ thế ‘tâm lý học hành vi’ cùng hệ phương pháp làm việc dựa theo
nghiên cứu hành vi đã ra đời. Những công trình nghiên cứu tiếp theo của các
nhà tâm lý học tên tuổi như Edward Thorndike, Clark L. Hull, Edward C.
Tolman, B. F. Skinner … đã góp phần quan trọng tạo tcơ sở lý thuyết cho tâm lý
học hành vi.


Tâm lý học hành vi lấy đối tượng nghiên cứu là “tổ hợp các trạng thái mà ta
nghiệm thấy, các trạng thái được trực tiếp thể nghiệm trong vòng ý thức khép


kín” bằng phương pháp nội quan, tâm lý học hành vi cổ điển loại bỏ ý thức ra
khỏi đối tượng nghiên cứu của mình để chỉ nghiên cứu hành vi của con người
và của con vật, là cái có thể quan sát trực tiếp được thông qua thực nghiệm như
khoa học tự nhiên, chứ không phải là nghiên cứu mang tính nội quan về ý thức.

Tuyên ngôn của Tâm lý học hành vi, như Watson đã nhấn mạnh: “chúng tôi cần
bắt đầu làm việc trong những lĩnh vực tâm lý học và đặt ra mục đích khách quan
cho cuộc đấu tranh của chúng tôi không phải là ý thức mà là hành vi.”

Trong tâm lý học hành vi, tất cả những gì nói về dạy và học ở con người đều
chủ yếu đựợc rút ra trên cơ sở những thực nghiệm trên con vật (chuột bạch và
bồ câu). Ngay những khi tiến hành thực nghiệm trên con người, các nhà tâm lý
học hành vi cũng chủ trương: trong các tình huống thực nghiệm như thế, con
người và động vật cần phải được đặt trong các tình huống thực nghiệm càng
giống nhau càng tốt.

Và họ trình bày kết quả của cả hai loại thực nghiệm đó bằng các thuật ngữ
thống nhất. Vì theo họ, không có bất kì sự thay đổi nhỏ nào, về quan điểm, khi
tiến hành thực nghiệm trên cả động vật và con người. Skinner khẳng định:
dường như không có sự khác biệt cơ bản giữa học tập ở người và ở động vật có
xương sống. Vậy là, theo các nhà hành vi, thì hành vi của con người và hành vi
của con vật có cùng một bản chất.

Theo Skinner, cả động vật và con người đều có ba dạng hành vi: hành vi không
điều kiện, hành vi có điều kiện và hành vi tạo tác.


Trong nhiều năm, Skiner cùng với cộng sự kiên trì thực hiện thực nghiệm trên
động vật và ở người nhằm hình thành những hành vi tạo tác. Về hành vi tạo tác,
Skiner nhấn mạnh: nếu hành vi có điều kiện xuất hiện nhằm đón nhận một kích
thích củng cố thì hành vi tạo tác xuất hiện nhằm tạo ra một kích thích củng cố.

Trong thực nghiệm của Paplop, hành vi có điều kiện xuất hiện khi con chó đang
bị nhốt ở trong cũi nên nó hoàn toàn thụ động, thức ăn do nghiệm viên đưa tới.


Còn trong thực nghiệm của Skinner, hành vi tạo tác xuất hiện khi chuột bạch
đang “tích cực” tìm kíêm thức ăn trong môi trường xung quanh.

Nói cách khác, trong khi chuột bạch tự phóng ra những hành vi ngẫu nhiên tác
động tới môi trường thì có hành vi đúng (dẫm chân lên đòn bẩy và thức ăn được
bật ra) được củng cố, và hành vi tạo tác được thành lập.

Ở đây, dù phản ứng được thành lập nhưng sự tác động của cá thể lên môi trường
nổi lên rất rõ ràng. Ở phản xạ có điều kiện tạo tác (hành vi tạo tác) tính chất của
kích thich củng cố có vai trò quan trọng làm cho con vật chủ động tạo ra các
phản ứng (hành vi tạo tác) một cách phù hợp.

Vì vậy, nếu kiểm soát được kích thích củng cố thì sẽ kiểm soát được hành vi. Từ
thực nghiệm trên, Skiner rút ra kết luận: hành vi tạo tác đặc trưng cho việc học
tập. Ông đưa ra định luận lĩnh hội, cường độ của hành vi tạo tác tăng lên, nếu
hành vi được kèm theo kích thích củng cố.

Củng cố - đó là vấn đề then chốt trong dạy học của Skinner. Qua các công trình
nghiên cứu, ông khẳng định, xác suất xuất hiện, tần số và cường độ của phản
ứng tạo tác hoàn toàn tuỳ thuộc và củng cố và cách củng cố. Theo ông, có thể
phân loại các hình thức củng cố khác nhau thành hai loại: tích cực và tiêu cực.

Tuy nhiên, về phương diện chức năng, cả củng cố tích cực và củng cố tiêu cực
đều nhằm tăng cường hành vi mong muốn.

S.T

Bài này hay nhưng con không coppy được nên gởi link , ba mở mạng, kích vô
link này mở lên xem :
/>



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×