ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
3.1 Định hướng phát triển Du lịch
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2010 là
công trình quy hoạch đầu tiên được thực hiện do Chương trình Phát triển của
Liên Hợp Quốc (UNDP) và Tổ chức Du lịch thế giới (WTO) tài trợ thực hiện
trong năm 1990. QHTT đã được Thủ tướng Chỉnh phủ phê duyệt tại quyết định
số 307/TTg ngày 24/5/1995. Đây là lần đầu tiên ngành Du lịch có quy hoạch
chuyên ngành trên phạm vi toàn quốc và đây cũng là một trong những quy
hoạch chuyên ngành đầu tiên cho thời kỳ phát triển 1995 - 2010 ở Việt Nam.
- Phát triển đa dạng các loại hình du lịch bao gồm: Du lịch sinh thái, du
lịch nghỉ dưỡng, tắm biển, du lịch văn hoá tâm linh gắn với phát triển làng nghề.
Khai thác tốt lợi thế và tiềm năng du lịch của tỉnh, gắn phát triển du lịch trong
tỉnh với du lịch cả nước và khu vực.
Đầu tư phát triển du lịch có trọng tâm, trọng điểm, có bước đi thích hợp,
kết hợp chặt chẽ việc đầu tư xây dựng mới với sử dụng có hiệu quả cơ sở sẵn
có.
- Tập trung khai thác thế mạnh của du lịch nội địa, nhanh chóng tạo ra
nhiều khu, tuyến, điểm du lịch trọng điểm hấp dẫn du khách, hình thành các
tuyến du lịch quốc tế nhằm thu hút khách nước ngoài.
Ðặc biệt năm di sản vật thể: Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Quần thể
kiến trúc Cung đình Huế, vịnh Hạ Long và Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Và, hai di sản văn hóa phi
vật thể: Nhã nhạc cung đình Huế và Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây
Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân
loại.
Ngoài ra còn một số vườn quốc gia, khu bảo tồn tự nhiên, khu danh thắng
có giá trị khoa học và du lịch đã được quốc tế công nhận, một số di sản thiên
nhiên và văn hóa khác đang được đánh giá lập hồ sơ đề nghị UNESCO công
nhận.
Hệ thống di sản văn hóa và di sản thiên nhiên là tiền đề cho mọi hoạt
động du lịch ở nước ta, cơ sở hình thành và phát triển các sản phẩm du lịch, đặc
biệt là du lịch sinh thái và du lịch văn hóa; các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến
du lịch và đô thị du lịch, đã và đang được bảo tồn và phát huy hiệu quả góp
phần đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm hấp dẫn du lịch nhất
của khu vực châu Á, thu hút lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày
càng tăng, đem lại nguồn thu lớn cho nền kinh tế quốc dân: Năm 2007 Việt
Nam đón hơn 4,3 triệu lượt khách quốc tế, thu nhập từ du lịch đạt trên 3,5 tỷ
USD. Ðóng góp vào những thành tựu nói trên có giá trị của bảy di sản thế giới
công nhận.
Việc khai thác giá trị di sản thế giới và gắn kết với du lịch trong nhiều
năm qua đã thu được những thành quả nhất định. Chúng ta đã làm tốt việc
quảng bá hình ảnh vịnh Hạ Long với bạn bè thế giới khi vận động cộng đồng
tham gia bình chọn Hạ Long là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới trên
trang Website: . Ở mảng văn hóa phi vật thể: Nhã
nhạc cung đình Huế được Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế phát huy trong
đời sống đương đại có hiệu quả thông qua Dự án bảo tồn và phát huy giá trị Nhã
nhạc từ Quỹ ủy thác Nhật Bản thông qua UNESCO tài trợ; từ đó góp phần làm
sinh động hình ảnh văn hóa Huế với đông đảo du khách là tại bốn kỳ Festival.
Tuy nhiên việc phát triển du lịch tại khu vực di sản thế giới đang đứng
trước những thách thức không nhỏ. Bên cạnh những thách thức có tính khách
quan, do đặc điểm đa dạng và tính phức tạp của hệ thống di sản thế giới là
những thách thức có tính chủ quan, do năng lực quản lý, bảo vệ và phát huy giá
trị di sản phục vụ phát triển du lịch của chúng ta còn nhiều bất cập. Ðó còn là
nhận thức chưa đầy đủ của cộng đồng, các chủ thể quản lý, phát triển và kinh
doanh về những yêu cầu, nguyên tắc phát triển du lịch tại khu vực di sản; về
tình trạng phát huy giá trị di sản, khai thác tiềm năng du lịch tại khu vực di sản
sai mục đích, thương mại hóa các giá trị hoặc khai thác quá mức cho phép giá
trị các di sản; về đầu tư bảo tồn, phát triển tài nguyên du lịch, bảo tồn di sản
phục vụ du lịch còn manh mún, dàn trải, thiếu đồng bộ; là quản lý đầu tư phát
triển, kinh doanh dịch vụ du lịch còn thiếu tính chuyên nghiệp...
Mặt khác, chúng ta còn thiếu cơ chế tạo điều kiện để cộng đồng dân cư
khu vực di sản tham gia đầu tư phát triển du lịch, cũng như khai thác văn hóa,
nghệ thuật dân gian, ngành, nghề thủ công truyền thống phục vụ du lịch. Quản
lý nhà nước trong phát triển du lịch tại khu vực di sản cũng còn nhiều mặt bất
cập.
Tổ chức phát triển và quản lý du lịch tại khu vực di sản có nội dung rộng
lớn: từ bảo tồn các giá trị của di sản, bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch đến
tổ chức quản lý quy hoạch phát triển du lịch, bao gồm lập quy hoạch, tổ chức
đầu tư phát triển theo quy hoạch được duyệt; từ quản lý di sản; quản lý kinh
doanh dịch vụ du lịch cũng như sự tham gia của cộng đồng trong hoạt động du
lịch, đến quản lý trật tự, an toàn xã hội tại khu vực di sản cùng các hoạt động
Nội dung đó đòi hỏi xây dựng cơ chế quản lý thích hợp và việc cấp thiết là
thành lập Ban quản lý hoặc Ban điều phối phát triển du lịch, là chủ thể có chức
năng, thẩm quyền quản lý phát triển du lịch theo quy định của Luật Du lịch; là
ban hành các quy định quản lý phát triển du lịch khu vực di sản.
Vấn đề phát triển du lịch trên cơ sở phát huy các giá trị tài nguyên du lịch trong
đó có di sản thế giới là nhiệm vụ cấp bách và phức tạp. Một số giải pháp nêu
trên là nhằm tìm kiếm mô hình, cơ chế phối hợp của mọi ngành, mọi cấp quản
lý nhà nước, cộng đồng dân cư và doanh nghiệp trong quản lý phát triển và kinh
doanh du lịch với mục tiêu là bảo tồn gìn giữ các di sản cho thế hệ mai sau.
3.2 Giải pháp phát triển du lịch
- Tiếp tục hoàn thiện và nâng cấp các khu, điểm du lịch hiện có, đồng
thời phát triển khu, điểm du lịch mới với các sản phẩm du lịch dịch vụ đa dạng,
có sức hấp dẫn cao để thu hút khách du lịch đặc biệt là khách du lịch quốc tế.
- Phát triển các tuyến điểm du lịch trọng điểm, gắn phát triển du lịch văn
hóa với các lễ hội truyền thống.
- Đẩy mạnh công tác tiếp thị và xúc tiến du lịch, củng cố và phát huy
hiệu quả thị trường du lịch nội địa đồng thời từng bước mở rộng khai thác thị
trường du lịch quốc tế, tập trung khai thác thị trường truyền thống là các nước
Đông Nam Á, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản.
- Về nhân lực: Lao động trong ngành du lịch của Việt Nam hiện nay còn
thiếu và yếu. Những người hoạt động trong ngành du lịch có chuyên môn nhưng
rất yếu trình độ ngoại ngữ, các trung tâm và trường đào tạo lao động phục vụ
cho du lịch chưa đạt chuẩn, do vậy ngành du lịch Việt Nam cần phải quan tâm
đến việc đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động
- Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước về du lịch, giữ vững
định hướng phát triển du lịch bền vững.
3.3 Nhận xét về cách tổ chức tour
Qua chuyến đi này sinh viên đã học tập và lĩnh hội được nhiều điều bổ
ích và lý thú cho nghề nghiệp trong tương lai. Qua đó, sinh viên vận dụng
những kiến thức đã học. Có được những kiến thức thực tế và chuyên ngành đào
tạo.Giúp sinh viên làm quen với công việc và tư tin hơn khi ra trường, cụ thể nh
Đánh giá được thực trạng tài nguyên du lịch ở những điểm đến tham quan
để khảo sát thu thập thêm dữ liệu cho việc lên kế hoạch va thiết kế chương trình
du lịch tạo ra những sản phẩm du lịch có chất lượng tốt
Nắm được khả năng đáp ứng và chất lượng phục vụ ở từng nơi đến đẻ
phục vu khách tốt hơn và có những biện pháp khắc phục và cải tạo cho tốt hơn
Hiểu được phong tục tập quán của người dân địa phương , nhữnh đặc sản
mang tính chất vùng miền để giới thiệu cho khách net đẹp văn hoá để cho khách
tim hiểu và tránh những rắc rối không cần thiêt do bât đồng ngôn ngữ và khẩu
vị trong ăn uống , phong tuc.
Tạo được mối quan hệ ban đầu với những hướng dẫn viên tại điểm để
giúp cho mình tìm hiểu thêm kiến thức và kỹ năng ngề nghiệp.Và để thuận lợi
hơn trong mối liên hệ công việc sau này
Học hỏi thêm kinh ngiệm trong việc sắp xếp và tổ chức thực hiện các
Tour du lịch dài ngày va cách thức xử lý tình huống trong quá trình tổ chức và
thực hiện
Điều cuối cùng và quan trọng hơn cả là qua chuyến đi này sinh viên thấy
yêu nghề của mình hơn.Thấy được vị trí và tầm quan trọng của ngành du lịch
trong đời sống xã hội để từ có nhưng biên pháp và những đóng góp nhỏ vào
việc bảo vệ,phát triển ngành du lịch tạo ra những sản phẩm du lich xứng tầm
với nguồn tài nguyên phong phú của việt Nam.Mỗi chúng ta ở đây sẽ là một sứ
giả để quảng bá du lịch Việt Nam,con ngươi, văn hoá Việt Nam đến với ban bè
các nứơc trên thế giới.
Bên cạnh nhưng cái chúng ta đã đat được thị còn một số hạn chế mà
chúng ta nên biết và rút kinh nghiệm cho chuyến đi sau:
Thứ nhất : chương trình đi chưa hợp lý, đó là việ sắp xếp thời gian có
ngày đi nhiều và có ngày đi quá ít gây cảm giác bức xúc trong sinh viên. Công
ty du lịch nên biét đối tưọng mình phục vụ là người như thế nào,và họ cần
những gì.Khác với những khách du lịch thông thường, đối tượng phục vụ của
công ty Nam Việt là sinh viên đi thực tế bên canh viêc đi thăm quan con là để
học tập cho nên lượng thông tin phải nhiều hơn,chính xác và hệ thống hơn.Các
chưong trình mới đảm bảo về mắt số lương còn chất lượng chưa được chú trọng
thới gian di lại nhiều hơn thời gian học.
Thứ hai: Đội ngũ hướng dẫn viên chua chuyên nghiệp, còn thiếu trang
thiết bị trong quá trình tác nghiệp,không thu hut đựoc nhiêu ngươi tham gia.
Đây là chương trình học cho nên việc chọn người hướng dẫn là nhân tố quyết
định cho việc hình thành đội ngũ nhân viên phục vu cho du lich trong tương lai