Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bai thu hoach dien an Hanh chinh 10 Nguyen Thi Ngoi HVTP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.66 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn

:

Kỹ năng cơ bản của luật sư trong việc
giải quyết các vụ án hành chính
LS.HC 10

Mã số hồ sơ :
Diễn lần
:
Ngày diễn
:
Giáo viên hướng dẫn:

Họ và tên
SBD
Lớp
Nhóm

:
:
:
:

, ngày tháng năm


1


HỒ SƠ 10
Mã số: LS.HC/10.DA2
I. NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
1. Tóm tắt nội dung vụ việc
Bà Nguyễn Thị Ngợi, sinh năm 1935 và chồng là ông Nguyễn Hữu Đặt, sinh
năm 1935 (mất năm 2001) có tất cả 05 người con đẻ gồm: Nguyễn Thị Đón, sinh
năm 1963; Nguyễn Hữu Phong, sinh năm 1966; Nguyễn Thị Phú, sinh năm 1968;
Nguyễn Thị Thao, sinh năm 1973; Nguyễn Thị Thảo, sinh năm 1976.
Trong quá trình chung sống thì ông Đặt và bà Ngợi có được thửa đất số 195
và 192, số tờ 07 - Xứ Đồng, Thanh Liễu, diện tích 785 m 2 đất thổ và 150 m2 đất ao.
Từ lúc ông Đặt còn sống cho đến khi ông chết thì 2 thửa đất trên hai ông bà chưa
chia cho bất kỳ ai và khi ông Đặt chết vào năm 2001 thì cũng không để lại di chúc
là sẽ cho ai phần tài sản của ông. Vào ngày 15 tháng 01 năm 2016, con gái bà Ngợi
tên là Nguyễn Thị Thao đi lao động từ nước ngoài về có đề nghị cấp bìa đỏ cho các
con mà các con của bà đã xây nhà từ trước trên đất của bà Ngợi, ông Đặt (đã mất
ngày 22/02/2011) để chăm sóc bà Ngợi lúc về già. Nhưng khi bảo các con thì bà
mới phát hiện con trai lớn là ông Nguyễn Hữu Phong và vợ là bà Nguyễn Thị
Nghiệm đã tự động làm giấy tờ đứng tên của vợ chồng ông Đặt, bà Ngợi và sang
tên được quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng ông Nguyễn Hữu Phong, bà
Nguyễn Thị Nghiệm và ông Phong, bà Nghiệm đã được UBND huyện Gia Lộc cấp
Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất số AK 734508, tờ bản đồ số 03 ngày
30/12/2007. Bà Ngợi cho rằng việc cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất cho
ông Phong, bà Nghiệm là không đúng vì đây là tài sản chung của vợ chồng bà và
chồng bà mất cũng không để lại di chúc nên việc cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử
Dụng Đất cho ông Phong, bà Nghiệm là không đúng.
Cho nên, bà Ngợi cùng bà Thao đã nộp đơn đề nghị UBND xã Tân Hưng,
thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương để yêu cầu Hủy Giấy Chứng Nhận Quyền

2


Sử Dụng Đất đã cấp cho ông Phong, bà Nghiệm. Do đó, đến ngày 07/03/2016 tại
phòng họp UBND xã Tân Hưng tiến hành hòa giải cho bà Ngợi, bà Thao và ông
Phong, bà Nghiệm nhưng ông Phong, bà Nghiệm không đến dẫn đến cuộc hòa giải
không thành. Vì vậy, để làm căn cứ khởi kiện vụ án ra tòa nên ngày 15/04/2016 bà
Ngợi đã đề nghị UBND xã Tân Hưng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương cung
cấp cho bà tài liệu hồ sơ địa chính liên quan đến thửa đất số 334, tờ bản đồ số 03,
diện tích 1181 m2 được UBND huyện Gia Lộc cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử
Dụng Đất ngày 30/12/2007 cho ông Phong, bà Nghiệm nên đến ngày 22/04/2016
UBND xã Tân Hưng đã bàn giao toàn bộ hồ sơ theo yêu cầu của bà.
Sau khi có đủ hồ sơ, bà Ngợi đã làm đơn khởi kiện đề ngày 23/05/2016 đề
kiện Ủy ban nhân dân thành phố Hải Dương với yêu cầu Hủy Giấy Chứng Nhận
Quyền Sử Dụng Đất số AK 734508, tờ bản đồ số 03 ngày 30/12/2007 của Ủy ban
nhân dân huyện Gia Lộc cấp cho vợ chồng ông Phong, bà Nghiệm và bà Ngợi đã
đưa ông Phong, bà Nghiệm tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án và được Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương thụ
lý theo thông báo thụ lý vụ án hành chính số 01/2016/TLST-HC ngày 31 tháng 5
năm 2016.
Trong quá trình Tòa án giải quyết thì ngày 09/06/2016 thì ông Phong, bà
Nghiệm có bản tự khai và cho rằng nguồn gốc thửa đất này là của ông cha tổ
nghiệp từ đời này sang đời khác và ông Đặt trước đây sinh sống ở nơi khác sau đó
chuyển vào thửa đất này để sinh sống với mục đích là thờ tự nên ông cho rằng bố
mẹ ông chỉ là người thừa kế đối với thửa đất này. Vì vậy, sau khi cha ông chết thì
ông là con trai trưởng nên ông có trách nhiệm gìn giữ thửa đất này để thờ tự. Do
đó, vào tháng 10/2002 Tập thể đo đất lại để chuyển sang sổ đổ thì có địa chính
huyện, xã đến đo, khi đó địa chính có hỏi mẹ ông là bà Ngợi là lấy tên ai thì mẹ
ông có trả lời là sẽ lấy tên vợ chồng ông Phong, bà Nghiệm vì bà đã già và chỉ có
một người con trai duy nhất là ông Phong nên bà Ngợi kiện đòi Hủy Giấy Chứng

3


Nhận Quyền Sử Dụng Đất của ông thì ông không đồng ý. Đồng thời, cùng ngày
09/06/2016 thì Tòa án cũng có lấy lời khai của bà Nguyễn Thị Thao thì bà Thao
thống nhất với lời trình bày của bà Ngợi.
Đến ngày 22/08/2016, ông Trần Hồ Đăng, chức vụ Phó chủ tịch UBND Thành
phố Hải Dương là người đại diện theo ủy quyền của UBND Thành phố Hải Dương
có văn bản trình bày “Quan điểm của UBND thành phố trong việc cung cấp, tiếp
cận, kiểm tra chứng cứ và đối thoại vụ án Hành chính”, cụ thể là về nguồn gốc thửa
đất của ông Phong, bà Nghiệm theo sổ đăng ký ruộng đất và bản đồ địa chính lập
theo chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 thì thửa đất của ông Phong, bà Nghiệm được
đăng ký tên bố đẻ ông Nguyễn Hữu Phong là ông Nguyễn Hữu Đặt. Về trình tự cấp
Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất cho ông Nguyễn Hữu Phong thì hồ sơ cấp
Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất cho ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn
Thị Nghiệm chưa đầy đủ thủ tục theo quy định nên nếu Tòa án nhân dân thành phố
Hải Dương ra bản án về việc yêu cầu thu hồi Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng
Đất đã cấp cho ông Phong, bà Nghiệm thì UBND thành phố sẽ thực việc thu hồi và
ông Đăng cũng đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông.
Đến ngày 23/08/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương lập biên bản đối
chất với thành phần tham dự là người khởi kiện (có mặt), người bị kiện (vắng mặt
do ông Trần Hồ Đăng có yêu cầu vắng mặt), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
(có mặt). Trong quá trình đối thoại, Tòa án có công bố quan điểm của UBND đề
ngày 22/08/2016 cho các bên cùng nghe nhưng bên khởi kiện và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên quan điểm từ trước đến nay của mình.
Sau khi hoàn tất đầy đủ thủ tục tố tụng thì Tòa án đã gửi hồ sơ đến Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Hải Dương để chuẩn bị tiến hành đưa vụ án ra xét xử. Đến
ngày 05/09/2016 Viên kiểm sát có văn bản yêu cầu tòa án phải xác minh, thu thập
chứng cứ vì hồ sơ vụ án còn thiếu những tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án và
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự như biên bản lấy lời khai của

4


bà Nguyễn Thị Đón, Nguyễn Thị Phí, Nguyễn Thị Thảo (đều là con gái của bà
Ngợi).
II. Một số vấn đề pháp lý
1. Tư cách tố tụng:
 Người khởi kiện: Bà NGUYỄN THỊ NGỢI
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Nhàn
 Người bị kiện: ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG
Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Hồ Đăng – Phó chủ tịch UBND thành phố Hải
Dương

 Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Hữu Phong, sinh năm 1966;
- Bà Nguyễn Thị Nghiệm, sinh năm 1971
- Bà Nguyễn Thị Đón, sinh năm 1963;
- Bà Nguyễn Thị Phú, sinh năm 1968;
- Bà Nguyễn Thị Thao, sinh năm 1973;
- Bà Nguyễn Thị Thảo, sinh năm 1976.
2. Các văn bản quy phạm pháp luật áp dụng vào vụ việc
a)

Văn bản luật nội dung

 Luật xử lý vi phạm hành chính 15/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2012;
 Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 07 năm 2013 quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính;
5



 Thông tư 01/2011/TTLT-BNV ngày 19/01/2011 hướng dẫn thể thức và kỹ thuật
trình bày văn bản do Bộ Nội Vụ;
 Luật khiếu nại 02/2011/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2011 ban hành ngày 11
tháng 11 năm 2011;
 Nghị định 75/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2012 quy định chi tiết một số
điều của Luật khiếu nại
 Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 2000
 Luật đất đai năm 2003
 Nghị định 181/2004 hướng dẫn thị hành luật đất đai
 Bộ luật dân sư năm 2005
b) Văn bản luật hình thức
 Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH12 ngày 25 tháng 11 năm 2015
 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng hành chính
3. Đối tượng khởi kiện và yêu cầu của người khởi kiện:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 734508, tờ bản đồ số 03 ngày
30/12/2007 do Ủy ban nhân dân huyện Gia Lộc cấp.
4. Thẩm quyền giải quyết:
Về thẩm quyền theo vụ việc: Căn cứ Khoản 1 Điều 30 Luật TTHC thì đây là khiếu
kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Về thẩm quyền theo các cấp Tòa án và theo lãnh thổ: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 31
Luật TTHC thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ án hành chính là Tòa
án nhân dân cấp huyện, tức Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương.
5. Thời hiệu khởi kiện:
Theo hồ sơ vụ việc thì Bà Ngợi biết được việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Phong và bà Nghiệm là 15/01/2016. Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 116
6


Luật TTHC, thời hiệu khởi kiện là 01 năm, kể từ ngày Bà Ngợi biết được việc cấp

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phong và bà Nghiệm, tức từ ngày
15/01/2016 đến ngày 15/01/2017. Ngày 23/05/2016, Bà Ngợi làm đơn khởi kiện và
nộp đơn tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương. Việc khởi kiện này vẫn còn
trong thời hiệu.
III.

Kế hoạch xét hỏi

Với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện, kế
hoạch hỏi lại tòa của tôi như sau:
1. Hỏi người bị kiện - Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hải Dương. Đại diện Trần
Hồ Đăng
- Hiện tại, việc cấp GCNQSDĐ tại UBND TP Hải Dương thực hiện theo quy trình,
thủ tục như thế nào?
- Theo ông, GCNQSDĐ cấp cho ông Phong, bà Nghiệm là cấp lần đầu hay là được
cấp dưới hình thức chuyển quyền?
- Nếu cấp lần đầu thì dựa trên cơ sở nào để cấp? Nếu cấp dưới hình thức chuyển
quyền thì có hợp đồng chuyển quyền nào không?
- Khi cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm thì bên UBND có tiến hành đo
đạc lại thửa đất không?
- Tại thời điểm tiến hành đo đạc, bên phía UBND có ghi nhận lại tài sản nào trên
thửa đất 334 không?
- Nếu có tài sản trên đất 334 thì người đó có ý kiến gì về việc cấp GCNQSDĐ hay
không?
- Trước khi làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm theo chủ
trương của nhà nước về việc triển khai đại trà cấp giấy chủ quyền nhà, đất thì ông
có kiểm tra trong sổ đăng ký ruộng đất đang đứng tên ai không?
- Tại sao UBND huyện Gia Lộc lại cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm
trong khi GCNQSDĐ không phải đứng tên ông Phong, bà Nghiệm?
- Trong Đơn xin cấp GCNQSDĐ ghi ngày 01/12/2002 của ông Nguyễn Hữu Phong

cùng vợ là bà Nguyễn Thị Nghiệm đứng đơn nhưng đến khi ký đơn thì chỉ duy nhất
có bà Nghiệm ký và không ghi rõ họ tên như vậy có hợp lệ hay không?
7


- Trước khi cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm thì UBND huyện Gia Lộc
có công khai danh sách hộ ông Phong, bà Nghiệm đủ điều kiện cấp giấy trong thời
hạn 15 ngày không?
- Vậy theo ông việc cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm đã thực hiện đúng
thủ tục, quy định theo luật định chưa? Nếu chưa, thì theo ông hồ sơ cấp
GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm thiếu thủ tục nào?
- Những thủ tục bị thiếu nêu trên có quan trọng hay không trong quá trình xem xét
cấp GCNQSDĐ không?
- Theo ông, việc làm sai quy trình, thủ tục mà pháp luật đã quy định có ảnh hưởng
đến quyền lợi của người khác hay không?
2. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2.1. Hỏi ông Nguyễn Hữu Phong:
- Ông hãy trình bày nguồn gốc của thửa đất 334?
- Hiện nay, ai đang quản lý và sử dụng thửa đất 334?
- Trên đất này có những tài sản nào? Cụ thể những tài sản trên đất này thuộc sở hữu
của ai?
- Trước khi mất, Ông Đặt có để lại di chúc không?
- Theo ông, sau khi cha ông mất, phần tài sản của cha ông để lại sẽ được phân chia
như thế nào?
- Ông có biết, đối với phần tài sản chung vợ chồng, phần di sản thừa kế của cha
ông để lại sẽ chia đều cho các hàng thừa kế thứ nhất của cha ông hay không?
- Ông có biết hàng thừa kế thứ nhất của cha ông gồm bà Ngợi, bà Đón, bà Phú, bà
Thao, bà Thảo và ông hay không?
- Ông hãy chứng minh mẹ ông là bà Ngợi đã tặng cho thửa đất 334 cho vợ chồng
ông?

- Khi ông tiến hành làm thủ tục đất đai thì các chị em của của ông là bà Đón, bà
Phú, bà Thao, bà Thảo đang ở đâu?
- Các chị em ông có biết gì về việc ông tiến hành làm thủ tục đất đai không?
- Họ có ý kiến gì về việc cho tặng ông thửa đất này để ông được đứng tên hay
không?
2.2. Bà Nguyễn Thị Đón:
- Khi UBND huyện Gia Lộc cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm vào năm
2007 thì bà biết không?
8


- Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm bà đang ở đâu?
2.3. Bà Nguyễn Thị Phú:
- Khi UBND huyện Gia Lộc cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm vào năm
2007 thì bà biết không?
- Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm bà đang ở đâu?
2.4. Bà Nguyễn Thị Thảo:
- Khi UBND huyện Gia Lộc cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm vào năm
2007 thì bà biết không?
- Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm bà đang ở đâu?
2.5. Bà Nguyễn Thị Thao:
- Khi UBND huyện Gia Lộc cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm vào năm
2007 thì bà biết không?
- Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm bà đang ở đâu?
3. Hỏi Người khởi kiện - bà Nguyễn Thị Ngợi - Đại diện theo ủy quyền là bà
Nguyễn Thị Nhàn
- Bà hãy cho biết thửa đất 334 xảy ra tranh chấp vào thời điểm nào?
- Bà hãy trình bày nguồn gốc thửa đất nêu trên?
- Năm 2002, UBND xã Tân Hưng có tiến hành đo đất để cấp GCNQSDĐ thì bà
Ngợi có biết việc đo đất này là để cấp GCNQSDĐ hay không?

- Bà Ngợi phát hiện ông Phong, bà Nghiệm đứng tên trên GCNQSDĐ từ khi nào?
- Ngay tại thời điểm ông Phong là thủ tục đất đai, bà Ngợi và bốn người con còn lại
có biết hành vi nêu trên của ông Phong không?
- Bà có ý kiến gì muốn trình bày thêm với HĐXX không?
IV. Bài bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện - bà Nguyễn
Thị Ngợi

BẢN LUẬN CỨ
- Kính thưa Hội đồng xét xử;
9


- Thưa vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa hôm nay;
- Thưa vị luật sư đồng nghiệp,
Tôi



Luật



……………….

thuộc

Văn

phòng


luật



………………………., thuộc Đoàn luật sư ……………………………. Tôi tham
gia phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là luật sư bảo quyền và lợi ích hợp pháp
cho người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Ngợi trong vụ án hành chính yêu cầu Ủy ban
nhân dân thành phố Hải Dương hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK
734508, tờ bản đồ số 3 cấp cho ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị
Nghiêm.
Kính thưa HĐXX, qua nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án và qua phần xét hỏi công khai tại phiên toà hôm nay tôi xin trình bày quan điểm
của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của tôi – Bà Nguyễn
Thị Ngợi như sau:
1. Về nguồn gốc sử dụng thửa đất 334:
Căn cứ vào bản trình bày quan điểm của UBND thành phố Hải Dương đề ngày
22/08/2016 thì nguồn gốc thửa đất này là của vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đặt, bà
Nguyễn Thị Ngợi do ông Đặt đăng ký ruộng đất vào năm 1980 và sinh sống ổn
định trên thửa đất này cho đến khi ông chết. Đồng thời, thông quan các biên bản lấy
lời khai ngày 06/07/2016 của bà Ngợi, biên bản lấy lời khai và bản tự khai ngày
09/06/2016 của bà Thao, Biên bản lấy lời khai và bản tự khai ngày 09/06/2016 của
ông Phong, bà Nghiệm và Biên bản đối thoại ngày 23/08/2016 thì các bên cũng đã
xác định rõ về nguồn gốc thửa đất 334 cũng như quá trình sử dụng đất này là của
vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đặt và bà Nguyễn Thị Ngợi. Do đó, thửa 334 này là tài
sản chung của ông Đặt và bà Ngợi là có căn cứ.

10


2. Về trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ:

2.1. Thành phần hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ không đúng và không đủ
Thứ nhất, Ông Đặt và bà Ngợi khi sinh sống chung có đồng sở hữu thửa đất 334.
Căn cứ điều 31 Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 2000 và khoản 2 điều 676 Bộ luật
dân sự 2005, vào năm 2001 ông Đặt mất, phần tài sản của ông trong khối tài sản
chung với bà Ngợi sẽ phải mở phân chia di sản thừa kế. Trong đó bao gồm thửa đất
334 - tài sản chung của vợ chồng bà Ngợi sẽ chia 50/50. Cụ thể, bà Ngợi sẽ được
nhận 1/2 thửa đất vì đây là tài sản của bà, 1/2 thửa đất còn lại sẽ trở thành di sản
thừa kế vì ông Đặt mất. Do trước khi mất, ông Đặt không để lại di chúc nên phần
di sản này sẽ chia đều cho các đồng thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất của ông
gồm vợ (bà Ngợi) và năm người con (ông Phong, bà Đón, bà Phú, bà Thao và bà
Thảo).
Thứ hai, việc cấp GCNQSDĐ cho cá nhân khi chưa giải quyết việc phân chia thừa
kế là không đúng trình tự luật định. Thành phần hồ sơ cấp GCNQSDĐ đối với thửa
đất 334 này không thể thiếu văn bản tặng cho tài sản của bà Ngợi và di chúc của
ông Đặt. Trường hợp nếu ông Đặt không để lại di chúc thì phải có văn bản thỏa
thuận phân chia di sản thừa kế để từ đó làm căn cứ cấp GCNQSDĐ cho ông Phong,
bà Nghiệm (khoản 1 điều 50 Luật Đất Đai 2003). Cụ thể, ngày 01/12/2002, ông Đặt
chỉ nộp duy nhất đơn xin cấp GCNQSDĐ. Và đơn xin cấp GCNQSDĐ này cũng
không hợp lệ vì người đứng tên đơn là ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị
Nghiệm nhưng phần chữ ký cuối văn bản chỉ có một chữ ký của bà Nghiệm và
không ghi đầy đủ họ và tên.
Do đó, UBND huyện Gia Lộc chỉ xem xét đơn xin cấp GCNQSDĐ ngày
01/12/2002 và Thông báo về việc hộ gia đình tự kiểm tra thửa đất ngày 01/12/2002
mà không có yêu cầu thêm tài liệu nào khác để làm căn cứ cấp GCNQSDĐ cho ông
Phong, bà Nghiệm là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật, không tuân thủ
11


đúng quy định về trình tự cấp GCNQSDĐ được quy định tại Điều 123 Luật Đất
Đai 2003.

2.2. Ủy ban nhân dân huyện Gia Lộc đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục cấp
GCNQSDĐ
Theo điểm a Khoản 2 Điều 136 Nghị định 181/2004 hướng dẫn thị hành luật đất
đai quy định về trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ. Thứ nhất, lấy ý kiến xác nhận của
UBND phường về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất. Tiếp theo, trường
hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại
các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì lấy ý kiến của UBND phường về
nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất,
sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt. Tiếp theo, công bố công
khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trong thời gian
mười lăm 15 ngày. Sau đó, xác nhận vào đơn xin cấp GCNQSDĐ đối với những
trường hợp đủ điều kiện cấp và ghi ý kiến đối với trường hợp không đủ điều kiện.
Cuối cùng, trường hợp đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ thì làm trích lục bản đồ địa
chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích
sao hồ sơ địa chính.
Từ những căn cứ nêu trên, tôi xin khẳng định UBND huyện Gia Lộc chỉ căn cứ
vào đơn xin cấp GCNQSDĐ mà đơn này cũng không có xác nhận rằng đơn này đủ
điều kiện được cấp hay không. Hơn nữa, UBND huyện Gia Lộc cũng không công
bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp
giấy tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Và nếu UBND huyện Gia Lộc cho
rằng ông Phong đủ điều kiện cấp Giấy thì phải làm trích lục bản đồ địa chính hoặc
trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa
chính nhưng UBND huyện Gia Lộc cũng đã không làm mà cấp GCNQSDĐ là vi
phạm pháp luật về đất đai nghiêm trọng.
12


3. Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Hải Dương thừa nhận việc cấp GCNQSDĐ có sai sót
Ngày 22/08/2016 UBND thành phố Hải Dương có văn bản trình bày quan điểm là

thừa nhận việc cấp GCNQSDĐ cho ông Phong, bà Nghiệm là chưa đầy đủ về trình
tự thủ tục, có sai sót.

Từ các tình tiết khách quan của vụ án, trên cơ sở đánh giá toàn diện các chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án và quy định của pháp luật nêu trên, tôi cho rằng đã có đủ cơ
sở để khẳng định, việc UBND huyện Gia Lộc cấp GCNQSDĐ cho ông Phong và
bà Nghiệm là trái với quy định của pháp luật ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của thân chủ tôi – bà Nguyễn Thị Ngợi. Do đó, tôi kính đề nghị Hội đồng xét
xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của phía người khởi kiện: “Tuyên
Hủy GCNQSDĐ số AK 734508 thuộc tờ bản đồ số 03 ngày 30/12/2007 của Ủy ban
nhân dân huyện Gia Lộc cấp cho vợ chồng ông Phong, bà Nghiệm”.
Trên đây là toàn bộ quan điểm pháp lý của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của thân chủ của tôi. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét và đưa ra phán
quyết công bằng.
Tôi xin chân thành cảm ơn Hội đồng xét xử đã lắng nghe.

13



×