Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nhân Thân Người Phạm Tội Trộm Cắp Tài Sản Trên Địa Bàn Huyện Củ Chi, Thành Phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 95 trang )

.

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ BÁ DƯƠNG

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ BÁ DƯƠNG

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8380105

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG



HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn là những kiến
thức của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, tham khảo, nghiên cứu tài liệu và
thực tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Trần Hữu Tráng. Nội dung của các
tác giả khác đã được trích dẫn, ghi chú theo đúng quy định. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ........................................................................................... 7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm
cắp tài sản .................................................................................................................... 7
1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội trộm cắp tài sản ..................... 14
1.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội trộm cắp
tài sản ......................................................................................................................... 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .... 33
2.1. Khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành
phố Hồ Chí Minh ...................................................................................................... 33
2.2. Đặc diểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ
Chi, Thành phố Hồ Chí Minh .................................................................................. 35
2.3. Thực trạng các yếu tố tác động hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực
của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ
Chí Minh .................................................................................................................... 42

CHƯƠNG 3: DỰ BÁO VÀ CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA
TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH DƯỚI GÓC ĐỘ NHÂN THÂN ............................................. 56
3.1. Dự báo các yếu tố sẽ tác động đến đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian
tới ................................................................................................................................ 56
3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản từ khía
cạnh nhân thân .......................................................................................................... 60
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TAND:

Tòa án nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

BLHS:

Bộ luật hình sự

UBND:

Ủy ban nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê án hình sự đã xét xử và án trộm cắp tài sản.
Bảng 2.2. Thống kê án hình sự đã xét xử về tội trộm cắp tài sản so với nhóm tội xâm
phạm sở hữu.
Bảng 2.3. Kết quả điều tra phá án các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi.
Bảng 2.4. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ
năm 2015 đến năm 2019 xét theo độ tuổi người phạm tội.
Bảng 2.5. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ
năm 2015 đến năm 2019 xét theo giới tính người phạm tội.
Bảng 2.6. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ
năm 2015 đến năm 2019 xét theo trình độ học vấn của người phạm tội.
Bảng 2.7. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ
năm 2015 đến năm 2019 xét theo nghề nghiệp của phạm tội.
Bảng 2.8. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ
năm 2015 đến năm 2019 xét theo đặc điểm pháp lý của người phạm tội.
Bảng 2.9. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ
năm 2015 đến năm 2019 xét theo đặc điểm thói quen, sở thích của người phạm tội.
Bảng 2.10. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ
năm 2015 đến năm 2019 xét theo hoàn cảnh gia đình của người phạm tội.
Bảng 2.11. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ
năm 2015 đến năm 2019 xét theo động cơ, mục đích của người phạm tội.
Bảng 2.12. Thống kê đối tượng của các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi.
Bảng 2.13. Thống kê thời gian gây án của các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện
Củ Chi.
Bảng 2.14. Thống kê chế tài đã áp dụng đối với các bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn huyện Củ Chi



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Củ Chi là huyện nằm ở phía Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, với diện tích
tự nhiên 43.496ha, phía Đông - Đông Bắc giáp huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương, phía
Bắc giáp huyện Trảng Bàng - tỉnh Tây Ninh, phía Nam giáp huyện Hóc Môn, Thành
phố Hồ Chí Minh, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Đức Hòa - tỉnh Long An. Huyện
Củ Chi bao gồm thị trấn và 20 xã trực thuộc. Cách trung tâm thành phố hơn 30 km.
Năm 1997, Củ Chi là một trong những quận, huyện được UBND Thành phố Hồ Chí
Minh phê duyệt chủ trương đô thị hóa các quận, huyện vùng ven Thành phố.Từ đó đến
nay, cùng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng và thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế với nhiều
khu công nghiệp lớn đã mọc lên trên địa bàn, Củ Chi đã vươn lên từ một huyện nghèo
trở thành địa phương có mức tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng, trên 14%/năm; đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên địa bàn ngày càng được nâng cao [19].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì mặt trái nền kinh tế thị
trường cũng phản ánh các yếu tố tiêu cực của đời sống xã hội. Từ một vùng nông thôn
nghèo đột ngột thay đổi thành một đô thị mới đã làm cho hàng loạt loại tội phạm mới
phát sinh, sự phân hóa giàu, nghèo diễn ra rõ rệt, tệ nạn xã hội, lối sống tiêu cực ngày
càng phổ biến. Sự đổ về ồ ạt của các nhà đầu tư, các đại công trình thi nhau mọc lên đã
kéo một bộ phận lao động không nhỏ với đủ thành phần từ các tỉnh, miền quê khác
nhau về cư trú và làm việc gây khó khăn trong công tác quản lý con người và quản lý
xã hội …tất cả đã làm cho tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Củ Chi diễn
biến hết sức phức tạp các tội giết người, cướp giật, trộm cắp tài sản…xảy ra ngày càng
nhiều.
Theo số liệu thống kê tại Bảng 2.1 và Bảng 2.2 từ năm 2015 đến năm 2019 trên
địa bàn Huyện Củ Chi cho thấy tổng số vụ phạm tội trên địa bàn huyện trong những
năm gần có đây tuy có sự tăng giảm theo từng năm nhưng tính chất, mức độ ngày càng
manh động, liều lĩnh, nguy hiểm, côn đồ, sử dụng hung khí nguy hiểm. Hậu quả làm

1



thiệt hại đến tài sản, đến cả tính mạng, sức khỏe con người. Trung bình hàng năm có
201,6 vụ phạm pháp hình sự xảy ra. Trong đó, tội trộm cắp tài sản chiếm tỉ lệ cao nhất:
chiếm 62,10% trong nhóm tội sâm phạm sở hữu và chiếm 24,01% so với tổng số vụ tội
phạm chung. Trong thời gian qua có rất nhiều vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn
huyện Củ Chi đã tác động lớn đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, gây hoang
mang cho nhân dân chẳng hạn như vụ án trộm cắp tài sản liên hoàn do băng nhóm của
Phan Thanh Tùng và 04 đối tượng khác thực hiện bao gồm Nguyễn Thành Lộc, Hồ
Phát Đạt, Dương Tấn Đạt, Nguyễn Văn Tuấn. Chỉ trong một thời gian ngắn từ
16/6/2018 đến ngày 02/8/2018 băng nhóm của Tùng đã thực hiện 09 vụ trộm cắp tài
sản từ trộm cắp xe máy để ngoài đường đến đột nhập gia cư, tổng thiệt hại tài sản mà
Tùng và đồng bọn trộm cắp được qua 09 vụ trên lên đến hơn 60.000.000 đồng (Trích
bản án số 49/2019/HS-ST ngày 03/4/2019 của TAND huyện Củ Chi). Thực trạng an
ninh trật tự trên địa bàn còn bất ổn nguyên nhân là do những tác động từ các yếu tố tiêu
cực thuộc môi trường sống cũng như những thói hư tật xấu của một bộ phận người dân
trên địa bàn huyện Củ Chi.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là quá trình tìm hiểu các yếu tố tác
động, thúc đẩy hành vi phạm tội của tội phạm hay nói cách khác là tìm cơ chế thúc đẩy
một con người bình thường trở thành một người phạm tội. Từ đó làm cơ sở cho hoạt
động đấu tranh phòng, chống tội phạm và ngăn ngừa tội phạm trộm cắp tài sản phát
sinh trong thời gian tới của các cấp chính quyền tại đại bàn huyện Củ Chi nên tác giả
chọn đề tài “Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi,
Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
đề tài, góp phần hoàn thiện lý luận về tội phạm học đồng thời đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong xã hội hiện nay. Có thể kể đến các công trình: Luận án Tiến sĩ luật học
của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy (năm 2005) về “Nhân thân người phạm tội trong

2



luật hình sự Việt Nam” tại Học viện Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của
tác giả Lưu Thị Hằng (năm 2017) về “Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” tại Học viện Khoa học
xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thanh Tịnh (năm 2018) về “Nhân
thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” tại Học viện Khoa
học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Phương Ngọc (năm
2018) về “Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh” tại Học viện Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Tuấn
Tài (năm 2018) về “Nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định”
tại Học viện Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Bá Ngọc
(năm 2018) về “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” tại Học viện Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật
học của tác giả Phạm Thị Phương Thảo (năm 2017) về “Nhân thân người phạm tội
cướp giật tài sản trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” tại Học viện
Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Xuân Bá (năm 2017)
về “Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” tại Học viện Khoa học xã hội.
Đánh giá chung:
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ một số vấn đề lý luận về
nhân thân người phạm tội như: khái niệm, đặc điểm, phân loại nhân thân người phạm
tội cũng như đã làm rõ nội dung và ý nghĩa của việc nghiên cứu… Đây là những nền
tảng lí luận quan trọng cho việc nghiên cứu chuyên sâu về nhân thân người phạm các
nhóm tội, loại tội. Các công trình cũng đã đánh giá được tình hình tội phạm đã nghiên
cứu thực tiễn nhân thân người phạm một loại tội hoặc nhóm tội ở một số địa phương
nhất định, như các tội về ma túy, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, nhóm tội xâm phạm sở hữu, nhóm tội xâm phạm tình dục … tại
Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Phước, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Nam Định… đã đưa


3


ra một số giải pháp phòng ngừa tội phạm. Thậm chí một số công trình đã nghiên cứu
sâu về tình hình nhân thân người phạm tội trên một địa bàn đơn vị hành chính cấp xã
như quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu về thực tiễn
nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn 2015 – 2019 cũng như chưa đưa ra các giải pháp phòng ngừa
loại tội phạm ấy tại địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua vệc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về nhân thân
người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn 2015 – 2019 làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn huyện Củ Chi qua đó đề ra các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân
thân người phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên luận văn phải làm rõ 3 nhiệm vụ sau đây:
- Một là phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội
trộm cắp tài sản, như khái niệm, đặc điểm, phân loại…
- Hai là phân tích làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản và
các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở hồ
sơ các vụ án đã xét xử bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật từ năm 2015 đến năm
2019 của TAND huyện Củ Chi và số liệu thống kê thường xuyên của các cơ quan tư
pháp; Các báo cáo tổng kết năm của cơ quan Công an, VKSND và TAND huyện Củ
Chi.
- Ba là đề xuất một số giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trộm


4


cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân
người phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận về nhân thân người
phạm tội trộm cắp tài sản và thực tiễn nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Để có đủ chất liệu nghiên cứu, tác giả
dựa trên số liệu thống kê của TAND, VKSND huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh
và tổng hợp các đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản từ 100 bản án của
TAND huyện Củ Chi Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2019 được sưu tầm
một cách ngẫu nhiên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu về nhân thân của những người phạm tội
trộm cắp tài sản, quy định tại Điều 138 BLHS 1999 (Nay là Điều 173 BLHS năm 2015,
sửa đổi năm 2017).
- Về phạm vi không gian: tội trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn huyện Củ Chi,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian, đề tài được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến
năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về tội phạm. Các đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sử dụng để nghiên cứu các công trình khoa


5


học có liên quan, các văn bản pháp lý, các báo cáo sơ kết, tổng kết.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu sâu vào một trường hợp cụ thể
nổi bật trong từng nhóm, lĩnh vực từ đó khái quát chung cho nhóm, lĩnh vực đó.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: nghiên cứu tổng kết đánh giá những kết
quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo
sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019.
6. Ý nghĩa luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về
nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan
chức năng trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng kế hoạch, tổ
chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa hiệu quả tội trộm cắp tài sản trong thời gian
tới. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo, nghiên cứu học tập về kiến thức nhân
thân người phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu thảm khảo thì luận văn
được bố cục thành 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
Chương 2: Thực trạng nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình trộm cắp tài sản trên

địa bàn Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ nhân thân.

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội
trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
Để hiểu rõ về nhân thân người phạm tội chúng ta cần làm rõ khái niệm về nhân
thân và khái niệm người phạm tội.
Theo Từ điển tiếng Việt, nhân thân con người được định nghĩa là: “Tổng hợp
các đặc điểm về nhân thế, tính cách và cuộc sống của cá nhân một con người về mặt thi
hành pháp luật” [40, tr. 45].
Từ định nghĩa trên ta thấy, nhân thân đề cập ở đây chỉ được giới hạn về mặt thi
hành pháp luật điều đó là chưa đủ, vì còn nhiều đặc điểm về sở thích, thói quen, tình
cảm, cũng là các đặc điểm về nhân thân của một con người cụ thể. Như vậy định nghĩa
trên là chưa đầy đủ.
Theo Chủ nghĩa Mác – Lênin xét bản chất con người bao gồm phần con và phần
người. Phần con là một thực thể tự nhiên (cơ thể sinh học do cha mẹ sinh ra), phần
người thể hiện đặc tính xã hội của con người, muốn tồn tại thì con người ấy phải tham
gia vào các hoạt động lao động, hoạt động xã hội để phục vụ cho cuộc sống bản thân
(như ăn mặc, nghỉ ngơi, giao tiếp...). Đặc tính sinh học tự nhiên quyết định đến sự hình
thành các đặc điểm tâm, sinh lý của con người. Trong bất kỳ xã hội nào, con người
không thể sống riêng biệt, tách rời với xã hội mà ngược lại mỗi cá nhân phải luôn đặt
mình trong mối quan hệ với nhau trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong các
mối quan hệ xã hội khác. Đúng như C. Mác đã khẳng định: “...bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [6, tr.19]. Đời sống sinh

hoạt, kinh nghiệm sống của cá nhân được quy định bởi nội dung của các quan hệ xã hội
cụ thể hình thành trong gia đình, môi trường bạn bè, trong tập thể lao động hay học

7


tập... Tất cả những yếu tố đó đều ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân thân con
người. Vì vậy, quá trình đánh giá về nhân thân con người cần phải chú ý đến cả các đặc
điểm về sinh học, tâm lý và xã hội [39, tr.147].
Cũng theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, khi tìm hiểu về nhân thân của một con người
cụ thể thì không thể khép kín, tách rời con người ấy với hiện thực xã hội và các điều
kiện cụ thể, đặc trưng của thời kỳ xã hội đó mà bản chất xã hội của một con người cụ
thể chỉ được bộc lộ ra bên ngoài thông qua vị trí của người đó khi đặt trong các mối
quan hệ xã hội nhất định. Như vậy nhân thân của con người là sản phẩm của một thời
đại nhất định, được quy định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội.
Mỗi thời đại khác nhau sẽ sản sinh ra những mẫu người không giống nhau, song dù ở
thời đại nào thì bản chất của con người luôn phản ánh các quan hệ xã hội của thời đại
đó. Nhân thân là một phạm trù mang tính xã hội - lịch sử. [5, tr.150]. Tuy bản chất của
con người được hình thành thông qua các mối quan hệ xã hội, song không phải quá
trình hình thành của cá nhân nào cũng giống nhau mà do khả năng nhận thức, cách
thức tiếp cận, sự thảo mãn nhu cầu của mỗi cá nhân trong xã hội là khác nhau từ đó tạo
nên những bản chất riêng khác nhau giữa các cá nhân ấy trong xã hội. Tất cả những
đặc điểm tâm sinh lý, các bản chất riêng ấy hợp thành nhân thân của một con người.
Như vậy, từ phân tích trên ta có thể hiểu: “Nhân thân con người là tổng hợp các
đặc điểm, dấu hiệu riêng biệt của con người, mà trong những điều kiện, hoàn cảnh
nhất định thể hiện bản chất xã hội của con người đó” [21, tr.26]. Các đặc điểm ấy bao
gồm đặc điểm về sinh học, nhân khẩu, về địa lý, tâm lý, đạo đức, xã hội, pháp lý
Nhân thân người phạm tội là một phạm trù thuộc về con người được đề cập
trong các ngành khoa học Tội phạm học, khoa học Luật hình sự, khoa học Điều tra tội
phạm, Tâm lý học tư pháp… Trong khoa học Luật hình sự nhân thân người phạm tội

được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với
việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ [41, Tr. 97]. Những đặc
điểm đó là tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, hoàn cảnh gia đình, thái độ chính trị, ý

8


thức pháp luật, tiền án, tiền sự... của một con người cụ thể, đã thực hiện một tội phạm
cụ thể. Luật hình sự nghiên cứu nhân thân người phạm tội làm căn cứ để định khung
hình phạt, quyết định hình phạt, làm căn cứ để xác định các tình tiết tăng nặng hay
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng tội phạm cụ thể [41, Tr.98].
Trong Tội phạm học “Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người
phạm tội chứ không phải là con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” [16, tr. 149]. Tội
phạm là kết quả của sự tác động qua lại rất phức tạp của nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan khác nhau, trong đó các đặc điểm về nhân thân người phạm tội đóng vai trò
rất quan trọng. Các đặc điểm về nhân thân này là kết quả của những điều kiện sống
nhất định, của sự giáo dục, của những mối quan hệ và sự ảnh hưởng qua lại giữa môi
trường xã hội và người phạm tội [16, tr.182-185]. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của tội
phạm học là nhân thân của người phạm tội. Người phạm tội trước hết cũng là một con
người trong một xã hội, do đó nhân thân của người phạm tội trước hết cũng bao gồm
các đặc điểm nhân thân của con người nói chung và các đặc điểm về chủ thể của tội
phạm được quy định trong luật hình sự như: độ tuổi, giới tính, năng lực trách nhiệm
hình sự. Ngoài ra, cũng như nhân thân con người thì nhân thân người phạm tội còn có
dấu hiệu, đặc điểm liên quan đến sự việc phạm tội như tâm lí, tính cách, thói quen, sở
thích, quan điểm, thái độ đối với xã hội, ý thức pháp luật các yếu tố đó phần nhiều phụ
thuộc vào sự giáo dục, điều kiện sống và các mối quan hệ xã hội tạo nên.[16, tr.151]
Như vậy ta thấy giữa nhân thân người phạm tội dưới góc độ Luật hình sự và
nhân thân người phạm tội trong Tội phạm học có những điểm chung nhất định, đó là
những đặc điểm có tính đặc trưng ở người phạm tội. Tuy nhiên, trong khi Luật hình sự

nghiên cứu nhân thân người phạm tội nhằm phục vụ mục đích giải quyết đúng đắn các
vụ án hình sự, trong khi tội phạm học nghiên cứu đặc điểm đặc trưng của nhân thân
người phạm tội để làm rõ nguyên nhân của tình hình tội phạm, từ đó đề ra các giải
pháp phòng ngừa tội phạm. Hay nói cách khác mục đích nghiên cứu nhân thân người

9


phạm tội trong Luật hình sự việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội là để giải quyết
vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đó. Trong khi đó Tội phạm học
nghiên cứu nhân thân người phạm tội là để tìm ra nguyên nhân, điều kiện của tình hình
tội phạm, qua đó có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu tình hình tội phạm.
Như vậy, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể
hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều
kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến con người đó thực hiện hành vi phạm tội. [36,
tr.151]
Để định nghĩa được nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản, chúng ta cần
làm rõ khái niệm tội trộm cắp tài sản được quy định trong BLHS Việt Nam, cụ thể theo
quy định tại Điều 138 BLHS 1999, nay là Điều 173 BLHS năm 2015, sửa đổi năm
2017. Dựa vào khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999
(Nay là khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015, sửa đổi 2017) có thể hiểu, tội trộm cắp tài
sản là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 138 BLHS 1999
(Nay là Điều 173 BLHS 2015, sửa đổi 2017), do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý, bằng hành vi lén lút nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của
người khác.
Từ các phân tích trên, chúng ta có thể định nghĩa: nhân thân người phạm tội
trộm cắp tài sản là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của
con người và các đặc điểm, dấu hiệu này trong sự kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh
nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản được quy
định tại Điều 138 BLHS năm 1999 (Nay là Điều 173 BLHS 2015, sửa đổi 2017).

1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài
sản
Nhân thân người phạm tội là đối tượng được nhiều ngành khoa học nghiên cứu.
Tuy nhiên với những mục đích khác nhau và bằng những phương pháp nghiên cứu
khác nhau nên góc độ tiếp cận đối với vấn đề nhân thân người phạm tội của mỗi ngành

10


khoa học cũng không giống nhau. Tội phạm học với tư cách là một khoa học chuyên
nghiên cứu về tội phạm và người phạm tội cùng những nguyên nhân và điều kiện của
nó để đề ra các biện pháp phòng ngừa, nên khi nghiên cứu một cách toàn diện các vấn
đề nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
nói riêng sẽ mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản có ý
nghĩa rất lớn trong định tội, định khung và quyết định hình phạt được chính xác.
Thông qua kết quả có được từ quá trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội
trộm cắp tài sản là cơ sở để nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí của người phạm tội trong
cơ chế hành vi phạm tội, nguyên nhân thúc đẩy một người thực hiện hành vi phạm tội
trộm cắp tài sản từ đó định tội danh, định khung và quyết định hình phạt một cách
chính xác. Theo khoa học luật hình sự: “nhân thân người phạm tội được hiểu là tổng
thể tất cả các đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội của người thực hiện tội phạm được cân
nhắc để giải quyết những vấn đề của trách nhiệm hình sự (cá thể hóa hình phạt, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt)” [38, tr.194]. Ví dụ như dấu hiệu “Đã bị
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm” là dấu hiệu
để định tội danh cho trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng. Hay dấu
hiệu “Có tính chất chuyên nghiệp”, “Tái phạm nguy hiểm” là căn cứ để định khung
tăng nặng (Điều 173 - BLHS 2015, sửa đổi năm 2017). Như vậy, khi định tội danh
trong bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát và
bản án của Tòa án nhân dân, các đặc điểm nhân thân người phạm tội phải được các cơ

quan tiến hành tố tụng thu thập đầy đủ làm căn cứ định tội danh đúng đối với người
phạm tội và phải được ghi nhận đầy đủ trong hồ sơ vụ án.
Thứ hai, nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản là cơ sở cho việc
xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản
Để có cơ sở chính xác cho việc xác định các nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội trộm cắp tài sản thì không thể không nghiên cứu các đặc điểm, dấu hiệu về

11


nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản. GS. TS Võ Khánh Vinh đã khẳng định:
“Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể chỉ ra rằng không
thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc
nhân thân người phạm tội” [37, tr. 127].
Qua nghiên cứu về đặc điểm nhân thân của người phạm tội trộm cắp tài sản, cho
thấy những đặc điểm nhân thân nổi trội là lười lao động nhưng thích hưởng thụ, thích
đua đòi cùng bạn bè, hay xa đà vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút, uống rượu, bia,
cờ bạc... và để thỏa mãn nhu cầu lệch chuẩn ấy cộng với sự bất cẩn về quản lý tài sản
của nạn nhân là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản. Như vậy nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản là mối quan hệ tương tác giữa các
yếu tố chủ quan của người phạm tội (đặc điểm nhân thân thuộc nhu cầu lệch chuẩn) với
các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài (yếu tố nạn nhân) làm phát sinh tội phạm. Mặt
khác, sự tương tác với nhau giữa các nguyên nhân và điều kiện trong quá trình hình
thành đặc điểm, tâm lý (đặc điểm nhân thân) của người phạm tội trộm cắp tài sản sẽ
quyết định động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm của người phạm tội. Ví dụ cùng
trong một hoàn cảnh một chiếc xe máy dựng ngoài đường không có người trông coi
nhưng không phải ai đi qua cũng nảy sinh ý định trộm cắp tài sản mà chỉ những đối
tượng có các đặc điểm nhân thân xấu nổi trội lại đang trong lúc cần tiền để hút ma túy
thì khi đó đối tượng này rất dễ phát sinh ý định phạm tội và dẫn đến thực hiện hành vi
trộm cắp xe máy. Như vậy ở đây ta thấy chính sự kết hợp giữa đặc điểm nhân thân xấu

nổi trội của đối tượng (mục đích cần tiền để hút ma túy) kết với với hoàn cảnh thuận
lợi (xe máy dựng ngoài đường không có người trông coi) đã làm phát sinh hành vi
phạm tội trong hoàn cảnh này. Hay nói cách khác xuất phát từ việc nghiên cứu, khai
thác làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội mà cụ thể ở đây là động cơ, mục
đích phạm tội đã chỉ cho ta thấy nguyên nhân của các vụ trộm cắp xe máy. Việc nghiên
cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản giúp chúng ta làm rõ
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản.

12


Thứ ba, nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản, giúp cơ quan
chức năng đề ra các biện pháp phòng ngừa đối với tội này.
Việc nghiên cứu, phân tích và rõ các đặc điểm về nhân thân người phạm tội
trộm cắp tài sản cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành các đặc điểm nhân
thân qua đó giúp chúng ta xác định các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm
tội cũng như sự tác động từ các yếu tố môi trường tiêu cực đến quá trình hình thành và
thúc đẩy thực hiện hành vi phạm tội. Qua đó, giúp cho các cơ quan chức năng đưa ra
các giải pháp phòng ngừa tội trộm cắp tài sản một cách hiệu quả bằng cách đưa ra các
biện pháp tác động nhằm hạn chế và tiến tới loại trừ các tác động tiêu cực từ môi
trường sống, đồng thời hạn chế hoặc loại trừ các đặc điểm nhân thân tiêu cực của con
người, góp phần xây dựng con người mới với những đặc điểm nhân thân tích cực nổi
trội. Chẳng hạn qua ví dụ trộm xe máy ở trên ta thấy chính từ việc nghiên cứu làm rõ
các đặc điểm nhân thân của người thực hiện hành vi trộm cắp xe máy đã chỉ cho ta thấy
nguyên nhân hầu hết của các vụ trộm cắp xe máy là do sự chủ quan, mất cảnh giác của
người có tài sản đã thúc đẩy đối tượng có đặc điểm nhân thân xấu nổi trổi nảy sinh ý
định và dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy qua việc nghiên cứu này là cơ sở
để cơ quan chức năng có các biện pháp tuyên truyền người dân nêu cao ý thức bảo bệ
tài sản của mình, cũng như đề ra các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt với nhóm đối
tượng nghiện hút ma túy. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm tài sản chính là

nghiên cứu về những nguyên nhân hình thành đặc điểm tiêu cực và quá trình làm phát
sinh hành vi trộm cắp tài sản từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế, tiến
tới đẩy lùi tình trạng trộm cắp tài sản ra khỏi đời sống.
Thứ tư, Nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản giúp cho cơ quan
chức năng xây dựng biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội một cách hiệu quả.
Để giáo dục và cải tạo người phạm tội trong thời gian người phạm tội chấp hành
án thì các đặc điểm, dấu hiệu trong nhân thân người phạm tội là căn cứ xác định chế độ
giam giữ, cải tạo giáo dục người phạm tội. Chúng ta biết rằng: “Hình phạt không chỉ

13


nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân
theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục
người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm”[23, Đ.31] . Để đạt được mục đích này, các cơ quan chức năng phải
dựa trên kết quả việc nghiên cứu các đặc điểm nhân thân của các đối tượng quản lý để
từ đó phân nhóm quản lý, đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp nhằm tiến tới loại bỏ
các đặc điểm nhân thân xấu, hình thành các đặc điểm nhân thân tốt ở họ. Chẳng hạn
như thông qua hoạt động điều tra cơ quan chức năng làm đã làm rõ các đặc điểm nhân
thân của người phạm tội như người phạm tội dưới 18 tuổi hay người phạm tội là nữ
giới thì sẽ có phương pháp giáo dục cũng như khu giam giữ, cải tạo riêng. Người phạm
tội là người không biết chữ, không có nghề nghiệp thì sẽ được dạy học, cũng như dạy
nghề trong quá trình chấp hành án. Hay những người bị tác động từ các yếu tố thuộc về
môi trường gia đình (bố mẹ quá hà khắc, hay đánh đập, chửi bới con, coi thường
con…) đã làm xuất hiện tâm lý tiêu cực dẫn đến thúc đẩy thực hiện hành vi phạm tội
thì đó là cơ sở để cơ quan chức năng phối hợp cùng gia đình trong quá trình giáo dục,
cải tạo người phạm tội … Tóm lại, chính việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các đặc
điểm nhân thân của người phạm tội là cơ sở tốt nhất để cơ quan chức năng xây dựng
các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội một cách có hiệu quả nhất.

1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội trộm cắp tài sản
Nhân thân người phạm tội nói chung bao gồm các đặc điểm, dấu hiệu có mối
quan hệ qua lại, gắn bó với nhau dù hình thức biểu hiện, vai trò có khác nhau. Khi tìm
hiểu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản ta sẽ thấy những điểm đặc trưng riêng
nhằm giúp phân biệt với người không phạm tội và những người phạm các tội khác
trong BLHS. Trong Tội phạm học, các đặc điểm nhân thân người phạm tội thường
được chia thành ba nhóm: Nhóm dấu hiệu xã hội - nhân khẩu; Nhóm dấu hiệu đạo đức
- tâm lý xã hội và Nhóm dấu hiệu pháp lý - hình sự [15, tr. 194].
1.2.1. Nhóm dấu hiệu xã hội - nhân khẩu

14


Các đặc điểm xã hội - nhân khẩu học của nhân thân người phạm tội trộm cắp tài
sản cũng giống như trong nhân thân của con người nói chung bao gồm: Giới tính, lứa
tuổi, nơi cư trú, dân tộc, địa vị xã hội, nghề nghiệp, quốc tịch, hoàn cảnh gia đình, trình
độ học vấn…[36, tr.144]. Nếu xét một cách đơn lẻ các đặc điểm này không có ý nghĩa
về mặt hình sự, bởi chúng luôn tồn tại trong nhân thân bất kỳ người nào. Tuy nhiên, tập
hợp những thông tin về dấu hiệu xã hội - nhân khẩu của nhân thân người trộm cắp tài
sản thu được qua thống kê hình sự sẽ cho chúng ta những cơ sở để rút ra kết luận quan
trọng khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản cũng như có ý nghĩa
quan trọng trong việc đề ra và thực hiện các biện pháp quản lý, giáo dục, phòng ngừa
tội phạm.
1.2.1.1. Đặc điểm về độ tuổi
Trong đời sống mỗi người chúng ta đều phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển
về mặt sinh lý: ấu thơ, nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, trung niên, cao tuổi. Mỗi lứa
tuổi có những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, cùng với những kinh nghiệm sống mà
cá nhân tích lũy được trong quá trình giao tiếp xã hội, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hành
vi của con người. Vì vậy, nghiên cứu thông tin về độ tuổi của người phạm tội trộm cắp
tài sản cho chúng ta thấy tính chất, mức độ, đặc điểm tội phạm của từng lứa tuổi cũng

như ảnh hưởng của lứa tuổi đến việc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản do ở mỗi lứa
tuổi khác nhau sẽ có những đặc điểm riêng về sự phát triển thể chất, tinh thần, tâm,
sinh lý, hiểu biết xã hội… Xét về mặt hành vi thực hiện, trong nhóm các tội xâm phạm
sở hữu tội trộm cắp tài sản có hành vi thể hiện lén lút chiếm đoạt tài sản của người
khác với lỗi cố ý thực hiện. Hành vi này không đòi hỏi chủ thể thực hiện phải có những
thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, không đòi hỏi phải sử dụng sức mạnh cơ thể, vừa có thể
thực hiện theo nhóm hoặc cũng có thể thực hiện một cách đơn lẻ nên đây là loại hành
vi mà bất cứ lứa tuổi nào cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên căn cứ theo BLHS
Việt Nam thì “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi,

15


nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về… tội phạm rất nghiêm
trong, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (Điều 12 - BLHS 2015, sửa đổi 2017). Tại
Điều 138 BLHS 1999, sửa đổi 2009 quy định Khoản 3 là tội phạm rất nghiêm trọng và
khoản 4 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tại Điều 173 BLHS 2015, sửa đổi năm
2017cũng quy định Khoản 3 là tội phạm rất nghiêm trọng và khoản 4 là tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng. Như vậy người từ đủ 14 tuổi, nhưng chưa đủ 16 tuổi sẽ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản do họ thực hiện nếu hành vi của họ thuộc
các khoản vừa kể trên. Do đó trong phạm vi của luận văn tác giả sẽ nghiên cứu chủ thể
thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thuộc nhóm tuổi từ 14 tuổi trở lên. Cũng theo khoản
1 Điều 20 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “người thành niên là người từ đủ
mười tám tuổi trở lên” và cũng tại khoản 1 Điều 21 của Bộ luật này quy định “người
chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Như vậy, căn cứ theo quy định của
pháp luật về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, căn cứ theo độ tuổi thành niên và đặc điểm
tâm lý của từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau, tác giả có thể chia độ tuổi của người
phạm tội trộm cắp tài sản thành 04 nhóm: Dưới 18 tuổi, từ 18 đến 30 tuổi, từ 30 đến 45
tuổi, từ trên 45 tuổi.

1.2.1.2. Đặc điểm về giới tính
Dấu hiệu về giới tính cho phép xác định người phạm tội trộm cắp tài sản là nam
giới họặc nữ giới. Phân tích tỷ lệ giữa nam giới và nữ giới trong việc phạm tội giúp
chúng ta xác định sự ảnh hưởng của giới tính đến việc thực hiện hành vi phạm tội.
Qua nghiên cứu về giới thì tỷ lệ nam giới phạm tội bao giờ cũng nhiều hơn nữ
giới và mang tính chất ốn định hơn. Sự chênh lệch về giới tính dựa vào đặc điểm tâm,
sinh lý chúng ta có thể giải thích rằng nam giới có khả năng kiềm chế kém, dễ bị kích
động, dễ bị tiêm nhiễm các thói quen xấu như lười lao động, thích hưởng thụ, thích thể
hiện, sĩ diện, thường sử dụng các chất kích thích, hay cờ bạc…. do đó nhằm thỏa mãn
những nhu cầu sai lệch thì nam giới dễ thực hiện các hành vi trộm cắp tài sản. Ngược
lại nữ giới thường kiên nhẫn, chăm chỉ, chịu khó, ít bị lôi cuốn vào các thói xấu như

16


nam giới do đó khả năng thực hiện tội phạm trộm cắp tài sản của nữ giới ít hơn nam
giới. Tuy nhiên, như phần mở đầu đã phân tích trong những năm gần đây do sự dịch
chuyển cơ học về dân số giữa các vùng miền (từ nông thôn lên thành thị) đã kéo theo
một bộ phận không nhỏ dân cư sống tại thành phố không có việc làm ổn định, trong đó
có cả nữ giới. Từ đó kéo theo cơ cấu người phạm tội xét theo giới tính đang có sự thay
đổi. Số lượng người phạm tội là nữ giới đang có xu hướng tăng lên và các loại tội
phạm do họ thực hiện ngày càng đa dạng. Đặc biệt, loại tội trộm cắp tài sản không cần
dùng đến sức mạnh nên khá phù hợp với đặc điểm hành vi của nữ giới do đó tỉ lệ nữ
giới thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản ngày càng tăng.
1.2.1.3. Đặc điểm về trình độ học vấn và nghề nghiệp.
Trình độ học vấn và nghề nghiệp là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ
nhận thức thế giới xung quanh và sự phát triển trí tuệ con người. Nó ảnh hưởng rất lớn
đến hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội nói chung và hành vi
phạm tội nói riêng.
Hai loại đặc điểm này có mối liên quan chặt chẽ với nhau và cũng là những đặc

điểm nổi bật của chủ thể thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Xét về mối liên hệ giữa hai
đặc điểm trên ta thấy trình độ học vấn quyết định đến nghề nghiệp của mỗi cá nhân
Trình độ học vấn cao thì cơ hội tìm được công việc sẽ cao hơn. Đồng thời, khi đó nghề
nghiệp ổn định, thu nhập cao sẽ có cơ hội nhiều hơn để cá nhân nâng cao trình độ học
vấn của bản thân. Đây cũng là lý do tại sao đặc điểm này là đặc điểm nổi bật của về
nhân thân của chủ thể thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Xét đến cùng động cơ thực
hiện hành vi trộm cắp tài sản xuất phát từ việc không có tài sản để thỏa mãn các nhu
cầu lệch chuẩn của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Người có trình độ học vấn cao,
nghề nghiệp ổn định tức là thu nhập sẽ ổn định và cao hơn nhưng người có trình độ học
vấn thấp và nghề nghiệp không ổn định khi đó động cơ thúc đẩy thực hiện hành vi trộm
cắp tài sản gần như là không có. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là tất cả những

17


người có trình độ học vấn cao, nghề nghiệp ổn định thì không có động cơ thúc đẩy thực
hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Từ những phân tích trên ta có thể phân loại như sau:
Về đặc điểm trình độ học vấn chia thành 04 nhóm: nhóm không biết chữ, nhóm
có học vấn từ tiểu học và trung học cơ sở, nhóm có trình độ học vấn trung học phổ
thông, nhóm có trình độ Cao đẳng và Đại học trở lên.
Về đặc điểm nghề nghệp cũng có thể chia thành 03 nhóm: nhóm không có nghề
nghiệp, nhóm nghề nghiệp không ổn định, nhóm nghề nghiệp ổn định.
1.2.1.4. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình.
Hoàn cảnh gia đình và sự thay đổi của nó có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình
thành nhân cách của con người, ở một mức nhất định chúng cũng tác động đến tính
định hướng và sự kiên định thực hiện tội phạm [36, tr.146]. Cùng với các môi trường
giáo dục khác , gia đình là nơi định hướng cho các hành vi ứng xử của mỗi thành viên.
Nghiên cứu đặc điểm hoàn cảnh gia đình trong nhân thân người phạm tội trộm cắp tài
sản là nghiên cứu ở các khía cạnh: Quan hệ gia đình, thành phần gia đình và hoàn cảnh

kinh tế gia đình với những tác động của nó tới người phạm tội.
Đặc điểm về quan hệ gia đình là những thông tin phản ánh về tình trạng hôn
nhân, cơ cấu gia đình của người phạm tội. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở cùng một
nhóm lứa tuổi những người đã kết hôn thường ít phạm tội hơn những người chưa kết
hôn vì những người đã kết hôn họ sẽ phải cố gắng kiếm những công việc ổn định để
nuôi sống gia đình họ, tương tự những người sống trong gia đình có cơ cấu gia đình
hoàn thiện, gia đình hòa thuận, hạnh phúc thường ít phạm tội hơn những người sống
trong gia đình có cơ cấu không hoàn thiện hoặc không hạnh phúc.
Hoàn cảnh kinh tế gia đình là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội trộm cắp tài sản. Như đã phân tích, mục
đích của chủ thể tội trộm cắp tài sản đó là chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm thỏa
mãn những nhu cầu lệch chuẩn của họ. Do đó, không khó để nhận ra rằng hoàn cảnh

18


kinh tế gia đình khó khăn là một trong những kiểu gia đình tác động đến quá trình hình
thành đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội như tâm lý dao động, quẫn bách,
chán nản, bế tắc về kinh tế khi đó dễ phát sinh hành vi trộm cắp tài sản.
Ngoài ra kiểu gia đình có người thân vi phạm pháp luật, gia đình bố mẹ quá
nuông chiều con cái, gia đình bố mẹ quá hà khắc với con cái … cũng là một trong
những đặc điểm về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội trộm cắp tài sản.
1.2.2. Nhóm dấu hiệu đạo đức - tâm lý xã hội
1.2.2.1. Quan điểm, thái độ đối với các giá trị đạo đức xã hội, pháp luật
Xuất phát từ mục đích thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đó là chiếm đoạt tài
sản nhằm thỏa mãn nhu cầu lệch chuẩn của chủ thể thực hiện hành vi, họ thường có
thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật; tâm lý hám lợi,
đua đòi, sống nhanh, sống gấp, lười làm việc, thích hưởng thụ đã thúc đẩy họ kiếm tiền
bằng mọi giá. Đối với họ lợi ích cá nhân là trên hết, không quan tâm đến lợi ích của xã
hội, của người khác. Vì vậy, họ chỉ lựa chọn những biện pháp có thể đem lại lợi ích

cho bản thân, nhất là các lợi ích vật chất, kể cả điều đó có thể xâm phạm đến lợi ích
hợp pháp của người khác. [16, tr.156].
1.2.2.2. Nhu cầu, sở thích, thói quen
Các đặc điểm trên luôn tồn tại ở bất cứ một con người cụ thể nào, nhưng khác
với phần còn lại của xã hội những người phạm tội nói chung và chủ thể của tội trộm
cắp tài sản nói riêng thường có nhu cầu, sở thích, thói quen tiêu cực, không lành mạnh
họ sẵn sàng thực hiện mọi biện pháp kể cả vi phạm pháp luật để thỏa mãn nhu cầu sở
thích đó. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản luôn có nhu cầu về vật chất để thỏa mãn sở
thích, thói quen, thú vui tiêu xài hoang phí, thú vui cờ bạc, thích hưởng thụ, thích giàu
lên nhanh chóng bằng mọi cách. Khi đó nhu cầu, sở thích, thói quen tiêu cực đó sẽ tác
động trực tiếp đến việc hình thành mục đích, động cơ phạm tội và sự kiên định thực
hiện tội phạm đến cùng của người phạm tội.
1.2.3. Nhóm dấu hiệu pháp lý - hình sự

19


×