Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.11 KB, 28 trang )

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
-Phạm Tiến Duật-

I. ĐỌC- TÌM HIỂU CHUNG
a. Tác giả
- Phạm Tiến Duật (1941- 2007)
- Quê quán: huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
- Sự nghiệp sáng tác:
+ Năm 1964, ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
+ Tuy vậy ông không tiếp tục với nghề mình đã chọn mà quyết định lên đường
nhập ngũ, đó cũng là nơi ông sáng tác ra rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng.
+ Năm 1970, ông đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, ngay sau đó Phạm
Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam
+ Chiến tranh kết thúc, ông trở về làm tại ban Văn Nghệ, Hội nhà văn Việt Nam
và là Phó trưởng Ban Đối ngoại Nhà văn Việt Nam. Đó quả là một thành tích đáng
tự hào.
+ Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật
+ 19-11-2007 , ông được chủ tịch nước Nghuyễn Minh Triết trao tặng Huân
chương lao động hạng nhì
+ Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn Học Nghệ thuật
+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Vầng trăng quầng lửa”, “Nhóm lửa”, “Tiếng bom và
tiếng chuông chùa”…
- Phong cách sáng tác : thơ của Phạm Tiến Duật được các nhà văn khác đánh giá
cao và có nét riêng: giọng điệu rất sôi nổi của tuổi trẻ vừa có cả sự ngang tàn tinh


nghịch nhưng lại vô cùng sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành
bài hát, tiêu biểu là bài “ Trường sơn Đông Trường Sơn Tây”
b. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn, trong thời kì kháng


chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Bài thơ thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc
thi thơ báo Văn nghệ năm 1969, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”
2. Ý nghĩa nhan đề:
- Nhan đề dài tưởng như có chỗ thừa, nhưng lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc
đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật một hình ảnh rất độc đáo của toàn bài
và đó là hình ảnh hiếm gặp trong thơ - hình ảnh những chiếc xe không kính.
- Vẻ khác lạ còn ở hai chữ “ Bài thơ” như sự khẳng định chất thơ của hiện thực,
của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, vượt lên nhiều thiếu thốn, hiểm nguy của chiến
tranh. Hai chữ bài thơ cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác
giả.
3. Bố cục
- Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không
kính
- Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần
lạc quan, sôi nổi của người lính
- Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe
- Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam
B. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN
1. Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính
- 2 câu thơ đầu: nhấn mạnh tư thế ung dung của người lính, đường hoàng đĩnh
đạc, dám nhìn thẳng vào khó khăn gian khổ không hề run sợ né tránh


- 4 câu thơ tiếp theo:
+ Phép nhân hóa “gió vào xoa” “con đường chạy” , ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
“mắt đắng”
⇒ tả thực cảm nhận của người lính với thế giới bên ngoài
+ “Thấy con đường chạy thẳng vào tim” : tốc độ trên chiếc xe đang lao vun vút ra
mặt trận
⇒ con đường ấy còn là con đường giải phóng miền Nam, con đường của trái tim

nồng nàn yêu nước.
⇒ Chiến tranh tuy khốc liệt nhưng người lính vẫn cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ
trung đầy lãng mạn, qua khung cửa, mọi vật dường như cũng muốn theo người
lính ra chiến trường.
⇒ chất thơ của cuộc chiến đấu.
2. Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi
nổi của người lính
- 2 câu thơ đầu khổ 3 + 2 câu thơ đầu khổ 4:
+ Người lính phải đối mặt với bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết ở Trường
Sơn: “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”
+ Nhưng sáng ngời ở họ vẫn là sự anh dũng đón nhận những khắc nghiệt “không
có… ừ thì”: thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy gian khó, coi đó như một
yếu tố tất yếu trong cuộc sống chiến đấu
- 2 câu thơ cuối khổ 3+ 2 câu thơ cuối khổ 4:
+ Người lính đối mặt với khó khăn gian khổ bằng giọng cười “ha ha”
⇒ Thái độ lạc quan
+ Các từ láy tượng hình tượng thanh “ha ha”, “phì phèo” ẩn dụ thể hiện tinh thần
lạc quan yêu đời của các anh


⇒ Đây là vẻ đẹp trong tâm hồn các anh, là chất thơ vút lên từ hiện thực chiến đấu
thật đáng ngợi ca và trân trọng
3. Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết
- 4 câu thơ khổ 5:
+ “Đã về đây họp thành tiểu đội” : Những chiếc xe từ gian khổ hiểm nguy cùng
chung một nhiệm vụ nên đã tập hợp thành “tiểu đội xe không kính”
+ “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết chân thực nhưng rất hóm hỉnh, qua cái bắt
tay, người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, trao cho nhau tình đồng chí, đồng
đội thắm thiết
- 2 câu thơ đầu khổ 6:

+ “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”: chiến tranh buộc họ phải dựng bếp ăn giữa
“trời”, nhưng họ vẫn ung dung và coi đó như một lẽ tự nhiên
+ “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Chính tình đồng chí đồng đội đã hóa gia
đình, cách người lính lái xe định nghĩa về gia đình thật giản dị và độc đáo
⇒ Hai tiếng “gia đình” thật thiêng liêng chan chứa tình cảm, họ truyền cho nhau
sức mạnh để chiến đấu
- 2 câu thơ cuối khổ 6:
+ Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ: nhịp bước hành quân của các anh đến
với những chặng đường mới
+ Hình ảnh “trời xanh thêm” : ý nghĩa tượng trưng sâu sắc thể hiện tinh thần lạc
quan yêu đời, chan chứa hi vọng, đó còn là hoán dụ chỉ hòa bình
4. Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam
- 2 câu đầu: Vẫn là những khó khăn nhưng giờ đây được tăng thêm gấp bội
“không kính”, “không đèn”, “không mui xe”, “thùng xe có xước”: khó khăn tăng
thêm như cản đi bước chân của người chiến sĩ
- 2 câu cuối


+ Lời khẳng định: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”: Lời khẳng định chắc
nịch bất chấp mọi gian khổ, khó khăn
+ “ Chỉ cần trong xe có một trái tim”: Hình ảnh “trái tim” là hoán dụ chỉ người
lính lái xe nồng nàn yêu nước và sục sôi căm thù quân xâm lược nhưng cũng
mang nghĩa ẩn dụ: nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thàn, dũng cảm
5. Giá trị nội dung
Bài thơ khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính qua đó
làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, họ ung dung hiên ngang, dũng
cảm lạc quan có tinh thần đồng chí đồng đội và một ý chí chiến đấu giải phóng
Miền Nam.
6. Giá trị nghệ thuật

Bài thơ kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ một cách tự nhiên. Đặc biệt nhất là
có chất liệu hiện thực vô cùng sinh động của chiến trường, những hình ảnh sáng
tạo rất đời thường. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ giàu tính khẩu ngữ, ngang tàn và
khỏe khoắn
III. LUYỆN TẬP
Bài 1: Phân tích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật
“Xe ta quý ta yêu
Ôi chiếc xe đồng chí
Cùng ta lăn sớm chiều
Cùng ta đi đánh Mĩ.”
(Bài ca lái xe đêm – Tố Hữu)
Trong cuộc trường chinh chống Mĩ, để giải phóng quê hương, để giành lấy độc lập,
để dành lại tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật
tiêu biểu, hội tụ những gì cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhân dân và
thế giới khâm phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung
đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận, bất tận cho các nhà thơ, nhà
văn sáng tác. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đòan lái
xe vận tải, trên con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu
sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này. Ông đã sáng tác
một bài thơ hay, một bài thơ độc đáo. Đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.


Phân tích bài thơ, ta mới cảm nhận, hiểu biết đầy đủ hơn về người lính, đồng thời
đó ta cũng sẽ thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ.
Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn
Hồ Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường
tiếp viện. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc, đáng yêu. Nhà
thơ viết về họ với phong cách tự nhiên thật độc đáo.
Nguồn cảm hứng của nhà thơ bắt nguồn từ hiện thực”chiếc xe không có kính” và
càng bất ngờ hơn, gây ấn tượng mạnh mẽ hơn là là không chỉ có một chiếc xe thôi

đâu mà là cả một “ tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh những chiếc xe đó được
nhấn mạnh trong câu thơ đầu tiên, một lời giới thiệu khá độc đáo, thân thương:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”.
Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giống
như lời nói của người chiến sĩ giới thiệu chiếc xe yêu quý mà mình đang sử dụng.
Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là điều bình thường, không có gì đáng
nói. Chi tiết tả thực không có kính mới gây sự chú ý, bất ngờ và là một thực tế có
sức khơi gợi mạch thơ, có sức khơi gợi lòng người. Nếu vế đầu của câu thơ đó có
tính chất phủ định thì ở vế sau của câu thơ lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh”không
phải vì xe không có kính”. À! Thì ra trước kia vẫn nguyên vẹn, lành lặn với các bộ
phận đó chứ đâu phải xe mới ra đời là đã không có kính. Vậy tại sao lại có sự
không bình thường ấy chứ? Vì sao cả một”tiểu đội xe không kính”? Nhà thơ bước
vào tư thế, vị trí kiên cường của người chiến sĩ lái xe để trả lời:
“Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Thì ra cái lí do, cái nguyên nhân là vì chiến tranh mà ra cả. Chiến tranh phá hoại
chiếc xe, làm cho chiếc xe tàn tạ, trở thành chiếc xe không mui, không đèn, không
thể không xước đi, yếu dần. Điệp từ “bom” kết hợp với các động từ”giật”,”rung”đã
tái hiện lại không khí, tính chất khốc liệt, gay go của cuộc chiến đấu giữa ta và
giặc, phơi bày và tố cáo bản chất hung bạo, ngông cuồng của quân giặc.”Mưa bom
bão đạn” của chúng dội xuống Trường Sơn thật là dữ dội, ác liệt. Bọn chúng định
dùng sức mạnh với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm
lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ. Sức ép của bom đạn khi nổ,
những mảnh bom trúng vào chiến sĩ, trúng vào chiếc xe khiến cho chiếc xe bị trầy,
khiến cho chiếc xe”kính vỡ đi rồi”.Lời thơ vẫn nhẹ nhàng thể hiện sự bình thản của
người cầm lái. Đối lập với thực tế khó khăn, khắc nghiệt về điều kiện bởi những
chiếc xe bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe: ”Ung dung buồng lái ta
ngồi”
Từ “ung dung” đặt trong phép đảo ngữ như đang diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh,
không một chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian
khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để

làm nhiệm vụ. Thái độ ấy xuất phát từ phẩm chất gan dạ, anh hùng và từ chiếc xe


không kính, người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài”Nhìn đất, nhìn trời, nhìn
thẳng.”
Câu thơ viết theo nhip hai-hai-hai thật cân đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng
bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm
lái. Điệp ngữ“nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cach quan sát của người
chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm hồn, tấm lòng của anh. Cách nhìn chăm chú
đó biểu lộ niềm yêu thương của anh với thiên nhiên và cuộc sống, sự quyết tâm
vững vàng trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất”để thêm gắn bó, yêu thương con đường
Trường Sơn hào hùng, thân thuộc để dẫn đưa chiếc xe đến chổ, nơi an tòan, mau
mau đến đích. Anh”nhìn trời”để tâm hồn thêm lạc quan, bay bỗng, thêm tin tưởng
vào tương lai. Anh”nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước
mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian khổ, khó khăn thử thách của mình
để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy,
gian khổ, khó khăn. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh
chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao.
Chiếc xe của anh không còn bộ phận nào để che chắn nên giờ nay người chiến sĩ
đã tiếp xúc trực tiếp với thế gới bên ngoài khi chiếc xe lao đi, lao đi mà không
ngỏanh lại:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”
Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh không chỉ cảm
thấy cơn gió vào “xoa mắt đắng” mà đã nhìn thấy cơn gió vô hình. Để làm giảm
bớt vị đắng, sự khó chịu nơi con mắt bỡi những ngày đêm thức trắng để lái xe
không nghỉ ngơi, anh đã cho chị gió xoa mắt đắng, xoa nó đi để rồi ngày mai anh
đi tiếp, đi tiếp về tương lai. Cảm giác ấy càng phát triển mạnh mẽ khi anh “nhìn
thấy con đường chạy thẳng vào tim. Sự liên tưởng ấy thật đẹp và thật độc đáo khi
chiếc xe lao tới, con đường lúc ấy như chạy ngược về phía trước. Sự tin tưởng phù

hợp với tấm lòng của người lái, đó là tấm lòng nhiệt tình, hăng say trong nhiệm vụ.
Trái tim người chiến sĩ luôn luôn dạt dào tình yêu Tổ Quốc, quê hương mà đặc biệt
là con đường thân thuộc, gần gũi, con đườnghứng chịu bao bom đạn máu lửa.
Chiếc xe vẫn cứ lao nhanh, lao xa đi mãi, tiến lên phía trước vì người lính biết rõ
mục đích, lí tưởng công việc cao cả của mình là cống hiến, hoạt độn vì ai, để làm
gì?
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Cuộc chiến ấy thật hiểm nguy, thử thách nhưng tâm hồn người chiến sĩ luôn lng
mạn, bay bỗng khi anh quan st từ chiếc xe khơng kính để thấy”sao trời, cánh
chim”. Có lẽ, tâm hồn anh phải hân hoan, phơi phới yêu đời nên mới có được cảm
nhận”…mhư sa, như ùa vào buồng lái.”. Nếu điệp ngữ ”nhìn thấy” diễn tả thi độ
quan sát chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn


mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ, “đột ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn
ấy thật l tinh tế! Một nh sao, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý, quan tm v
xao xuyến. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên
nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ. Như một bài
ca đ từng được viết:”Cuoäc ñôøi van đẹp sao,tình yêu vẫn đẹp sao, dù đạn bom
man rợ thét gào
“Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích.”
Đối với người chiến sĩ lái xe, chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác khi
lao đi trên đời vắng. Nhưng đó cũng là nguyên nhân gây ra hậu quả:
“Khơng cĩ kính, ừ thì cĩ bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.”
Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác

họa r vẻ lạ lng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.
Mất đi bộ phận chắn che, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp từ “bụi”
và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi:bụi
bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, cả đất trời trong mỗi lần xe chạy và kéo dài
suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá Đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đ
cảm nhận về cơn bụi nơi đây, nó vội v như người lính, người chiến binh hào hùng:
“Địan qun vẫn đi vội v
Bụi Trường Sơn nhịa trong trời lửa.”
Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đ a vo buồng li, phủ đầy tóc tai, đầy khuôn
người lính biến thành hình tượng ngộ nghĩnh, đáng yêu qua cách so sánh của nhà
thơ “tóc trắng như người già”. Phải chăng đây chính là “những con quỷ mắt đen”
như Lê Minh Khuê đ diển tả về cc cơ thanh nin xung phong trn cao điểm Trường
Sơn? Anh chiến sĩ đôi mươi kia, trẻ trung, sôi động giờ đây đ được “hóa trang”
thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám lên tóc. Cái gian khổ
của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả lại sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không kêu
ca, than vn m lại lấy chính ci gian khổ của mình để tự động viên mình bằng cch
khơi hi nữa ấy chứ.
“Chưa cần rửa phì pho chm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn “mưa bụi nhiệm
màu” thì thi độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian
khổ. Gian khổ này dường như không tác động đến ý chí, quyết tm của anh. Người
chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.
Và thêm một chặng đường là thêm hàng triệu khó khăn chồng chất. Địan xe phải
gặp những trận mưa rừng, gặp gió bụi Trường Sơn. Thật là khủng khiếp bởi lẽ:


“Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như r mình.”
Khi xe không cĩ mui xe che chắn thì thực tế sẽ ra sao? Những hạt mưa rừng như

những nhát chổi quất vào mặt người lính, khó khăm biết bao cho cuộc lái xe! Thế
là người lính nếm đủ mùi gian khổ mà thái độ thì vẫn ngang tng, phơi phới, lạc
quan:
“Khơng cĩ kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Với cấu trúc được lặp lại “không có kính”,”ừ thì”v ngơn ngữ bình dị, giọng điệu
ngang tàng lại một lần nữa thể hiện thái độ bất chấp của người lính. Chiếc xe
không kính ấy đi vào mùa nào, thời tiết nào cũng đều gian khổ cả. Điệp ngữ “mưa”
kết hợp với những từ gợi tả thật đẹp “tuôn, xối” gợi lên những cơn mưa thật dữ
dội, khiến người lính lái xe bị “ướt áo”. Thái độ của người lính của người lính
được thể hiện dứt khoát “chưa cần thay “. Họ mặc kệ cái ướt át, lạnh giá để tiếp tục
nhiệm vụ “lái trăm cây số nữa”.Lời nói thật giản dị, đơn sơ nhưng thể hiện quyết
tâm lớn của người chiến sĩ: xe phải đến tới đích , ý thức trách nhiệm, đóng góp cho
cuộc chiến của họ thật đẹp, thật đáng quý biết bao! Họ lái xe cho đến khi “mưa
ngừng” và trong suy nghĩ của họ cũng thật, bình dị:
“Mưa ngừng, gió lùa thô mau thôi.”
R rằng người lính đ qun mình vì nhiệm vụ v với ý thức tự nguyện đây. Tâm hồn
của người chiến sĩ sôi nổi, yêu đời da diết.
Bản chất của người lính lái xe là đi, nhưng phải có lúc họ phải dừng lại trú quân:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đ về đây họp thành tiểu đội.”
Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí địan kết, gắn bĩ, chia sẻ ngọt
bùi sau những trân chiến ác liệt, căng thẳng:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hịan thnh xong
nhiệm vụ. Ta bắt gặp được một nét đẹp khác nơi họ. Đĩ chính l tình đồng đội, đồng
chí của những anh lính lái xe. Khác hăn so với hình ảnh của những anh vệ quốc

qun với một nụ cười hịan tịan “buốt gi”, khơng biết bao giờ mình mới trở lại được
quê hương. Cịn anh giải phĩng qun giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm
thấy buồn chán, vì quanh họ cịn cĩ biết đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc
hành trình vất vả đó họ đ “gặp b bạn suốt dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui
tươi, than ái. Từ “họp, gặp” diển tả những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ
trung, cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng
cảm, thân ái, yêu thương của những người chiến sĩ.


Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng
thắm thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm d chiến:
“Bếp Hịang Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Vng mắc chơng chnh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Họ đ chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại lấy
con đường than yu ấy lm nh. Họ trị chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, than
mật. Họ dựng bếp Hịang Cầm giữa trời, “vng mắc chơng chnh”sau những giờ pht
căng thăng giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hịang Cầm” v “vng mắc chơng
chnh” l hai nt vẽ hiện thực lm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu
cơm vừa chợp mắt trên cái “vng mắc chơng chnh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ,
giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa, chăn xui đắp cùng”
(Tố Hữu)
Để rồi từ đây, cái định nghĩa về gia đình của cc anh chiến sĩ mới ngộ nghĩnh lm
sao!
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đ hình thnh khi “chung
bt đũa”. Nhưng chỉ trong một thóang chốc để rồi sau đó người chiến sĩ lại tiếp tục

hành quân:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Điệp ngữ “lại đi” đ diễn tả một cơng việc quen thuộc của người lính nhưng đồng
thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt họ, “trời
xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù hợp với tâm
hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào
tương lai, vào cuộc sống.
Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng
nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hịan thiện bức chn
dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn trong
những năm đánh Mĩ. Bốn dịng thơ dựng lại hai hình ảnh rất th vị, bất ngờ:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Khổ thơ cuối vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn
mạnh, làm r những khĩ khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần
thiết của của chiếc xe đ bị bom đạn làm hư hại. Cài “không có” là kính, la đèn, là
mui xe, cịn ci “cĩ” lại l “thng xe cĩ xước”. Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều


khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đ
thơi thc người chiến sĩ tận tụy, qun mình nhiệm vụ, coi thường những gian khổ,
khó khăn? Tất cả là bởi một mục đích, mợt lí tưởng cao cả “vì miền Nam phía
trước”. Lịng yu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc cao độ đ gip cho người chiến
sĩ sẵn sàng qun mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn giành
được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hịa bình độc lập cho quê hương. Cội
nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường của người
chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Thì ra “ tri tim” chy bỏng tình yu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đ
khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để
cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở cu cuối đ lí giải được tất cả
mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tượng
sâu sắc về một chân lí thời đại. Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện
đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là con người với trái tim nồng
nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục long căm thù quân giặc. Ý chí bất khuất
kin cường ấy giúp cho con người lướt thẳng mọi trở ngại, khó khăn.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến
Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đ đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội
xe không kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui của
người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ tóat ra từ sự giản dị, đơn sơ của
ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.
Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng
ta ngày hôm nay. Cám ơn nhà thơ đ gip tất cả chng ta cảm nhận su sắc về hình ảnh
người lính lái xe một thơì gian khổ mà hào hùng, đ qun mình vì qu hương, đất
nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của
ông cha xưa kia và để hịan thnh nhiệm vụ hơm nay. Chng ta hy tự ho về họ,những
người chiến sĩ Trường Sơn: “Ôi đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi
Mưa bom, bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối, vơi cơm miệng vẫn cười"
(Tố Hữu)
Bài 2: Chất lính và chất thơ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của
Phạm Tiến Duật
Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền văn học kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Đến sau trong đề tài người lính, thế nhưng, Phạm Tiến Duật đã có những
bài thơ xuất sắc, phản ánh chân thực và hào hùng vẻ đẹp người lính với bút pháp
nghệ thuật vô cùng mới mẻ, đặc sắc, giàu sức chiến đấu. Bài thơ tiểu đội xe không



kính là tác phẩm xuất sắc của nhà thơ và của nền văn học kháng chiến chống Mỹ
cứu nước.
Thành công đầu tiên của Phạm Tiến Duật trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
là đã xây dựng được một hệ thống ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu sôi nổi, chất liệu
thơ chân thực, gần gũi, gợi cảm. Ngôn ngữ của bài thơ gần gũi với lời nói thường,
mang tính khẩu ngữ, tự nhiên, sinh động và khỏe khoắn:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
“Không có kính, ừ thì có bụi”
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Giọng điệu tự nhiên, trẻ trung, có vẻ tinh nghịch pha một chút ngang tàng, rất phù
hợp với những đối tượng miêu tả:
“Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Ngôn ngữ và giọng điệu ấy rất phù hợp với việc khắc họa hình ảnh những chiến sĩ
lái xe trẻ trung hiên ngang, bất chấp nguy hiểm, khó khăn. Đó là những người lính
tươi trẻ, yêu cuộc đời, yêu đất nước, tinh thần tràn đầy niềm tin tưởng, quyết chiến
đấu, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các
chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự
nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Phạm Tiến Duật đã không hề cầu kì hay thi vị
hóa đơn điệu hình ảnh những chiếc xe không kính và hình tượng người lính lái xe.
Bởi với ông, cuộc đời ấy đã quá đẹp, rất thơ, rất mạnh mẽ, không cần tô vẽ gì mà
vẫn tỏa sáng.
Tác giả còn kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ
gần với lời nói tự nhiên, sinh động. và linh hoạt trong nghệ thuật biểu hiện. Những
yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh
người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh

động.
Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ
nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát
vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.
Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn,
hóm hỉnh. Cấu trúc:“không có…”; “ừ thì…”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ
ngữ “phì phèo”,”cười ha ha”,”mau khô thôi”… làm nổi bật niềm vui, tiếng cười
của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ,hiểm nguy của cuộc chiến
đấu. Ở họ, những trở ngại của thiên nhiên và điều kiện chiến đấu không thể làm họ
sờn lòng. Ngược lại, nó càng làm cho họ thêm hứng thú, quyết tâm vươn lên hoàn


thành xuất sắc nhiệm vụ. Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên
đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ“nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong
câu thơ thứ hai. Lời thơ nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính
lái xe.
Cuộc sống chiến đấu của người lính tràn đầy niềm vui ngay trong hoàn cảnh khắc
nghiệt, hiểm nguy.
Qua nghệ thuật biểu hiện, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ,
cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi,
khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.
Có thể bạn quan tâm: Ý nghĩa nhan đề bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài số 2
Trong một cuộc phỏng vấn, nhà thơ Phạm Tiến Duật từng tâm sự: thời tuổi trẻ, tính
tình sôi nổi, bồng bột, thích tìm tòi, thể hiện cái mới, thậm chí thích nói ngược lại
những cách nói thông thường. Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến
Duật sáng tác những năm đầu mới vào bộ đội đã thể hiện khá rõ nét suy nghĩ này
của ông. Ngay câu đầu tiên, đọc lên đã thấy trúc trắc ngang ngang:
"Không có kính không phải vì xe không có kính"

Chỉ trong một câu thơ mà có đến ba chữ "không", mà còn lặp đi lặp lại: "không có
kính","không có kính"... chỉ để nói về cái sự bất thường: xe không kính. Thơ xưa
trau chuốt từng câu, từng chữ, theo luật bằng - trắc rõ ràng, hẳn không thể chấp
nhận cách viết như vậy. Thơ Mới (1932 - 1945) vốn nổi tiếng về sự phá cách
nhưng nhìn chung đọc câu thơ mới lên vẫn thấy mềm mại, mượt mà. Ngay đến một
bài văn thông thường, nếu lặp đi, lặp lại quá nhiều mà không có dụng ý rõ ràng, rất
có thể sẽ bị thầy cô phê là"lủng củng"...
Thế nhưng đây lại là điểm nhấn của bài thơ. Nói đến Phạm Tiến Duật, bạn đọc
nghĩ ngay đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính, mà ai nhớ bài thơ này chẳng
thuộc câu "Không có kính không phải vì xe không có kính". Trong câu thơ của
Phạm Tiến Duật, sự "phá cách" không chỉ thể hiện ở cách lặp lại các từ ngữ một
cách đầy chủ ý mà còn ở giọng điệu đùa vui, ở cách đề cập đến những sự việc
tưởng như "không có gì". Không chỉ đưa vào thơ những chi tiết, hình ảnh của đời
sống mà ngay cả ngôn ngữ thơ cũng được đổi mới triệt để nhằm có thể truyền tải
những chi tiết của đời sống hàng ngày của những người lính một cách chân thực
nhất. Những từ đệm, tình thái từ... đã được đưa vào thơ ("Không có kính ừ thì có
bụi", "Không có kính ừ thì ướt áo") đã mang đến cho câu thơ những sắc thái vừa
quen thuộc, vừa mới lạ, gần gũi hơn mà cũng hấp dẫn hơn với đa số bạn đọc. Cũng
từ những chi tiết đầy chất sống, từ kiểu ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường hiện
thực chiến trường (bom giật, bom rung...) đã được tái hiện khá rõ nét, giúp người
đọc hình dung cụ thể về những năm tháng hào hùng trong lịch sử dân tộc, cảm
nhận được những mất mát, hi sinh, hiểu được rằng để có được những ngày hạnh
phúc như hôm nay, thế hệ cha anh đã phải hi sinh xương máu như thế nào.


Nhưng vượt lên tất cả hiện thực khốc liệt đó vẫn là thế giới tâm hồn của những
người lính. Những chàng trai trẻ vừa rời ghế nhà trường, tâm hồn đầy ắp những
ước mơ và khát vọng cống hiến. Ở đây cần phải nói tới tinh thần xả thân vì nước
như một tính cách dân tộc đã được kết tinh qua bao thế kỉ dựng nước và giữ nước.
Truyền thống tốt đẹp đó cùng lí tưởng thời đại đã làm nên nét đẹp của cả một thế

hệ: vượt lên mọi hiểm nguy, sẵn sàng đối mặt với hi sinh gian khổ, sống và chiến
đấu bằng tinh thần lạc quan, luôn hướng về phía trước. Cuộc sống nơi chiến trường
gian khổ, hàng ngày, hàng giờ phải chứng kiến những mất mát, đau thương, phải
trải qua những khó khăn chồng chất nhưng những con người can đảm, giàu nghị
lực luôn nhìn thấy khía cạnh lạc quan của vấn đề, lấy đó làm điểm tựa để sống và
chiến đấu. Nhiều người gọi đó là chất lính- là cái nhìn lạc quan, tinh thần quả cảm
- hành trang chủ yếu mà thế hệ cha anh thời chống Mĩ đã mang trên mình trong
cuộc trường chinh vạn dặm.
Những chiếc cửa kính vốn để bảo vệ người xe khỏi mưa gió, bụi đường...Khi cửa
kính xe bị vỡ sẽ gây ra bao phiền toái. Tuy nhiên, với những người lính điều đó
chưa hẳn đã bất lợi. Ngược lại, không có kính hoá ra lại hay:
"Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái."
Quả là một cái nhìn hết sức lãng mạn - sự lãng mạn của tuổi trẻ, của những con
người luôn biết cách chế ngự, vượt lên trên hoàn cảnh. Không phải khói bụi, không
phải gió táp mưa sa mà là ngọn gió lành vào "xoa mắt đắng", con đường thì "chạy
thẳng vào tim", người lái tha hồ giao tiếp với thiên nhiên mà không còn bị cửa kính
ngăn trở như mọi khi. Bụi có sao đâu, dù "Bụi phun tóc trắng như người già". Áo
ướt rồi sẽ khô thôi, tiếng cười sảng khoái và cái bắt tay qua cửa kính vỡ mới thật là
điều đáng nói. Khoảng cách giữa con người với thiên nhiên, con người với con
người dường như được thu ngắn lại. Nếu cửa kính không vỡ, e rằng khó có thể dễ
dàng như thế. Cái nhìn hài hước - vốn chỉ có ở những tâm hồn yêu đời - đã khiến
cho nỗi gian khổ vơi đi rất nhiều.
"Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm."
Những câu thơ ấm tình đồng đội, những sinh hoạt thường ngày được miêu tả trong

khung cảnh yên bình, tựa như không phải trong thời chiến tranh. Không phải
những người lính đang cố quên đi gian khổ mà chính bản lĩnh, ý chí can trường
cùng với tâm hồn lãng mạn kết hợp với tinh thần quyết tử xả thân vì nước đã giúp
người lính vượt lên trên những gian khổ hàng ngày. Sức mạnh của những người
lính trong thời đại Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và lí


tưởng thời đại. Họ chính là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là một
trong những hình tượng đẹp nhất của thế kỉ XX.
Những người lính không thích nói về chiến công, cũng không nói về những khó
khăn, gian khổ. Họ chỉ nói về công việc hàng ngày - một công việc vô cùng nguy
hiểm nhưng lại được thể hiện như biết bao công việc bình thường khác. Câu thơ
"Lại đi, lại đi trời xanh thêm" trong vắt như tâm hồn người lính, như khát vọng và
niềm tin mà họ đã mang theo trên đường đời.
Và đây mới là điều quan trọng nhất:
"Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim."
(Cảm nhận 4 câu cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
"Chỉ cần trong xe có một trái tim" - Không có cách lí giải nào giản dị mà thiêng
liêng hơn thế. Không có kính, không có đèn, không có mui xe, rất nhiều chữ
"không" để đến một chữ "có". Chỉ cần có một trái tim yêu nước, quả cảm, mọi gian
khổ, khó khăn đã ở lại phía sau.
Sau Hoan hô anh giải phóng quân của Tố Hữu, Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh
Xuân..., Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã nối dài những
khúc ca về những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Bài 3: Hình tượng con đường trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của
Phạm Tiến Duật
Là một nhà thơ, chiến sĩ tiêu biểu cho các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến

chống Mỹ cứu nước – con chim lửa của rừng già, cây săng lẻ trên cánh rừng
Trường Sơn huyền thoại, Phạm Tiến Duật đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng
người yêu thơ.
1. Những bài thơ được viết ngay trong khói lửa đạn bom của ông đã làm sống lại
hình ảnh của tuổi trẻ, đặc biệt là lớp trẻ trên tuyến đường Trường Sơn như nhà thơ
Tố Hữu đã có lần ca ngợi:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Lớp trẻ ấy chính là những anh lính lái xe, cô thanh niên xung phong băng mình
trong lửa đạn. Những nhân vật ấy là hình tượng trung tâm trong nhiều thi phẩm
như Khoảng trời hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ, Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi... Có
một tác phẩm như thế được bao thế hệ học sinh yêu mến là Bài thơ về tiểu đội xe
không kính trong chương trình Ngữ văn 9.


Điều làm nên vẻ đẹp và nét độc đáo ở Bài thơ về tiểu đội xe không kính, trước tiên
tác giả đã dụng công xây dựng nhiều hình tượng đẹp xuyên suốt bài thơ: Những
chiếc xe không kính – hình ảnh trần trụi đậm chất hiện thực.
Bàn về thơ Phạm Tiến Duật, nhà phê bình Vũ Quần Phương từng nói: “Cái đặc sắc
trong thơ Phạm Tiến Duật chính là lấy cuộc sống để nói tình cảm, cái tình cảm sâu
sắc của thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa”.
2. Nhưng bên cạnh đó còn có một hình tượng nghệ thuật khác mà nhiều bạn đọc
còn ít quan tâm, đó là hình tượng con đường. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ tôi
muốn lý giải thêm về điều này mong góp thêm một cách hiểu để làm đậm thêm nét
đẹp vốn có của bài thơ.
Có thể nói rằng, hình tượng con đường trước hết là một không gian nghệ thuật độc
đáo trong bài thơ. Chính vì thế, con đường dường như có mặt xuyên suốt từ đầu
đến cuối, có khi hình ảnh ấy diễn ra, hiện lên một cách trực tiếp nhưng cũng có khi
xuất hiện gián tiếp.
Đó là một con đường cụ thể, con đường Trường Sơn huyền thoại, con đường mang

tên Bác, con đường mịt mù khói lửa, con đường từng ngày từng giờ đang phải
hứng chịu bom rơi đạn nổ mà quân thù đánh phá ác liệt. Trên con đường ấy con
người cũng đang phải đối mặt với cái chết, phải chịu tất cả những hiểm nguy, tàn
lụi của chiến tranh. Chính hình ảnh những chiếc xe không kính đã nói lên điều đó:
Xe không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi...
…Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Đó còn là một con đường khúc khuỷu, gập ghềnh, đầy đèo dốc trên dải đất miền
Trung, trên dãy núi Trường Sơn bên mưa bên nắng. Có đôi lúc người đọc dường
như được hoá thân vào những người lính lái xe để cảm nhận thật rõ những con
đường như thế với nhịp phanh gấp của chiếc xe qua nhịp thơ: Nhìn đất, nhìn trời,
nhìn thẳng. Thế nhưng qua cảm nhận của người lính lái xe, đó còn là một con
đường đậm chất thơ, là một tiểu vũ trụ chứa cả đất trời, cả nắng gió và cả những
cánh chim.
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Trên con đường ấy thiên nhiên đã trở thành người bạn đồng hành cùng người lính
trong dặm dài ra trận. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh
nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của một anh lính lái
xe. Vượt lên tất cả khó khăn những chiếc xe vẫn ngạo nghễ lên đường.
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi...
...Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu
thuốc


Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Cấu trúc các câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những
bánh xe lăn gợi một cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, thanh thản. Đó là

khúc nhạc sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Câu thơ rộn rã, sôi động như sự
hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.
3. Con đường ấy còn là một hình ảnh trừu tượng hoá bởi đó chính là con đường
cách mạng, con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, con đường tiến
về phía trước, hướng về tương lai tràn đầy lạc quan, tin tưởng: Xe vẫn chạy vì
miền Nam phía trước.
Con đường ấy đã được biết bao thế hệ người Việt Nam tiếp bước, lớp này ngã
xuống lớp khác lại lên đường Mà lòng phơi phới dậy tương lai hay Đường ra trận
mùa này đẹp lắm mà nhà thơ Tố Hữu hay chính Phạm Tiến Duật đã từng khẳng
định.
Con đường ấy còn là tình yêu cháy bỏng trong trái tim người lính khi nhà thơ để
nhân vật trữ tình “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Điều đó xuất phát từ
một thực tế là khi xe chạy nhanh con đường như chạy ngược lại làm cho người lính
có một liên tưởng thật độc đáo. Đó là con đường chạy thẳng vào tim – ngay cả khi
xe bị tàn phá, hư hại, biến dạng đến trơ trụi, méo mó thì nó vẫn vượt lên phía trước
hướng ra tiền tuyến với tình cảm thiêng liêng.
Con đường chạy thẳng vào tim còn là con đường được nhìn thẳng từ trái tim mình
để xác định một lẽ sống cao đẹp, hoặc là vì Tổ quốc mà chết, mà thành anh hùng
bởi vì cuộc đời mãi mãi đẹp ở tuổi 20 và đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân
thù như cách nói của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hay như câu nói bất hủ của Hoàng
Văn Thụ “Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản. Tinh thần trong suốt như
pha lê, rắn chắc như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin
tưởng” mà bác sĩ – liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm đã đặt làm lời tựa như trong cuốn nhật
ký của mình.
Chính tình yêu của người lính, trái tim của người lính đã cầm lái, hướng người đọc
đến một chân lý của thời đại “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Đó là sức mạnh
quyết định của chiến thắng không phải vì vũ khí, không phải vì công cụ mà ở con
người.
Trái tim chính là hình ảnh hoán dụ biểu tượng cho những con người với tâm hồn
nồng nàn yêu thương, với ý chí kiên cường, dũng cảm, lạc quan luôn tin tưởng ở

tương lai. Tất cả đã hoà quyện vào nhau để tạo nên vẻ đẹp chân dung người lính lái
xe. Con đường ấy vẫn theo suốt họ cùng với những chiếc xe không kính để rồi trở
thành những con người đẹp nhất của lịch sử Việt Nam một thời và mãi về sau.
Nguồn: Dương Thị Huyên (GV Trường THCS Lê Văn Thiêm, TP Hà Tĩnh, tỉnh Hà
Tĩnh)


Bài 4: Vẻ đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn
Viết về những băn khoăn trăn trở của những người lính trẻ Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, nhà thơ Thanh Thảo từng viết: "Chúng tôi đi
chẳng tiếc cuộc đời mình/ Nhưng tuổi hai mươi thì ai chẳng tiếc/ Ai cũng tiếc thì
còn chi Tổ Quốc/ Chúng tôi đi chẳng tiếc cuộc đời mình". Đã có một thời kì cả dân
tộc đã sống với tinh thần như thế, tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh",
những chàng trai trẻ ra chiến trường khốc liệt với một trái tim tràn đầy nhiệt huyết
và tinh thần lạc quan tuyệt vời. Tinh thần ấy chúng ta dễ dàng bắt gặp trong nhiều
thi phẩm thơ, và thi phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của nhà thơ Phạm
Tiến Duật là một ví dụ tiêu biểu.
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" nằm trong chùm thơ bốn bài của Phạm Tiến
Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969, sau đó được
đưa vào tập "Vầng trăng quầng lửa" (1970) của tác giả. Vừa là nhà thơ nhưng đồng
thời là một người lính từng vào sinh ra tử trên tuyến đường Trường Sơn huyền
thoại, "con chim lửa" của rừng đại ngàn đã cất lên những lời ca khỏe khoắn, hào
hùng để ngợi ca những người lính lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp
mọi khó khăn gian khổ của cuộc chiến, ngợi ca tình đồng chí đồng đội thắm thiết
keo sơn và tình yêu đất nước thiết tha. Điều hấp dẫn người đọc là ngay từ nhan đề
của bài thơ. Bài thơ có nhan đề khá dài so với các bài thơ khác và nổi bật ngay
trong nhan đề là hình ảnh những chiếc xe không kính. Xưa nay hình ảnh xe cộ, tàu
thuyền được đưa vào thơ văn thường đã được "lãng mạn hóa" và mang ý nghĩa
biểu trưng nhiều hơn là tả thực. Nhưng trong bài thơ của Phạm Tiến Duật, dường
như tác giả không hề muốn che giấu đi cái khốc liệt của chiến tranh qua hình ảnh

những chiếc xe không có kính. Hai câu thơ mở đầu được xem như là lời giải thích
cho việc xe không có kính ấy: "Không có kính không phải vì xe không có kính/
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Vâng! bom đạn chiến tranh đã làm cho những
chiếc xe chở hàng ra mặt trận không còn nguyên vẹn nữa, "không có kính", "không
có đèn", "không có mui xe","thùng xe có xước". Ấy thế mà lời thơ cứ nhẹ như
không, tự nhiên đến mức khó ngờ. Tất cả những cái khó khăn thiếu thốn vật chất
ấy dường như chẳng phải là điều khiến những người lính lái xe Trường Sơn phải
bận tâm. Những khó khăn do việc xe không có kính mang lại chỉ là chuyện vặt.
Điều khiến người đọc cảm thấy ngạc nhiên và thú vị chính là từ trong những khó
khăn gian khổ đó những người lính vẫn ngời lên sự lạc quan và tinh thần lãng mạn.
Họ chỉ thấy cái thuận lợi, cái được sinh ra từ việc xe không có kính. Họ được hòa
mình vào cùng với thiên nhiên, được bay lên cùng với thiên nhiên, được tự do giao
cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. "Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng/ Nhìn
thấy con đường chạy thẳng vào tim/ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim/ Như sa
như ùa vào buồng lái". Và quan trọng hơn là những cái bắt tay thể hiện tình cảm
đồng đội đồng chí giữa tuyến đường chiến tranh ác liệt trở nên dễ dàng hơn, thắm


thiết hơn:" Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới/ Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi".
Động tác bắt tay nhau vồn vã này không thể có được nếu như xe có kính. Những
cái bắt tay của đồng đội không đơn thuần chỉ là sự chào hỏi mà chính là truyền
thêm cho nhau sức mạnh, niềm tin, ý chí để cùng nhau vượt qua những thử thách
khốc liệt của chiến tranh. Những cái bắt tay ấm áp nghĩa tình.
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ qua tuyến đường Trường Sơn chúng ta đã vận
chuyển vào chiến trường miền Nam hơn một triệu tấn hàng và vũ khí nhưng cũng
bị máy bay Mỹ đốt cháy và phá hủy mất 90 nghin tấn hàng và gần 15 nghìn xe,
máy. Hình ảnh những chiếc xe "Không có kính rồi không có đèn/ Không có mui
xe, thùng xe có xước" chẳng phái là hiếm trong chiến tranh. Và điều làm nên chiến
thắng vĩ đại của dân tộc ta trước kẻ thù sừng sỏ nhất được Phạm Tiến Duật lí giải
rất giản dị:" Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái

tim". Câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của cả bài thơ. Là điểm hội tụ những gì đẹp
nhất về hình ảnh người lính can trường trong chiến đấu nhưng cũng dạt dào tình
yêu quê hương, đất nước. Tất cả chính là sức mạnh, là động lực thôi thúc những
người lính lái xe vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng, chiến đấu cho tự do dân tộc.
Ngoài những ý nghĩa đó, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lý: sức
mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh
hùng, lạc quan, yêu đời.
Nguồn:Quách Lan Anh- GV trường THPT Vĩnh Lộc
Bài 5: Hệ thống câu hỏi nhỏ
Đề số 1
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.


*Câu hỏi
1. Hãy cho biết những câu thơ trên trích trong bài thơ nào, do ai sáng tác. Nêu hoàn
cảnh sáng tác của bài thơ.
2. Có ý kiến cho rằng bài thơ hấp dẫn ngày từ nhan đề độc đáo. Em có đồng ý với
ý kiến trên không? Tại sao?
3. Cách diễn đạt của nhà thơ ở câu thơ đầu tiên có gì đặc biệt?
4. Hình ảnh “gió vào xoa mắt đắng” trong khổ thơ thứ hai sử dụng biện pháp tu từ
gì? Nêu tác dụng của biện tu từ đó?
5. Em hiểu con đường chạy thẳng vào tim có nghĩa ntn?

6. So sánh hình ảnh người lính trong đoạn với hình ảnh người lính trong bài “
Đồng chí” của Chính Hữu.
7. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương thức diễn dịch để làm rõ tư thế, cảm
giác của người lính lái xe trên chiếc xe không kính?
*Gợi ý
1. Những câu thơ trên trích trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của
Phạm Tiến Duật.
- Bài thơ được sáng tác năm 1969 trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đang diễn
ra ác liệt trên tuyến đường chiến lược.
- Bài thơ đạt giải nhất cuộc thi báo Văn nghệ 1969 và được đưa vào tập “Vầng
trăng quầng lửa” của tác giả.
2. Bài thơ độc đáo ngay từ nhan đề tác phẩm.Nhan đề tưởng dài, tưởng như có chỗ
thừa nhưng thu hút người đọc bởi vẻ độc đáo, lạ lẫm của nó.
Bài thơ làm nổi bật hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính.
- Hai chữ bài thơ thêm vào cho thấy lăng kính nhìn hiện thực khốc liệt của chiến
tranh, chất thơ của tuổi trẻ, hiên ngang, bất khuất, dũng cảm vượt qua thiếu thốn,
gian khổ nguy hiểm của thời chiến.
3: Từ ngôn từ, phong cách, nội dung đến nhịp điệu thơ đều rất tự nhiên, mộc mạc,
có sức gợi tả, gợi cảm, giọng điệu thản nhiên gây sự chú ý về vẻ khác lạ của chiếc


xe. Câu thơ làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng: những chiếc xe
không kính đã đi qua bom đạn của thử thách.
4. Hình ảnh “gió vào xoa mắt đắng” trong khổ thơ thứ hai sử dụng biện pháp tu từ
ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của
người lính lái xe.
5. con đường chạy thẳng vào tim: Gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc
độ nhanh như bay. Lúc đó giữa các anh với con đường dường như k còn khoảng
cách khiến các a có cảm giác con đường như chạy thẳng vào tim. Đồng thời cho ta
thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam.

6. nét chung: Lòng yêu nước, dũng cảm sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của Tổ
Quốc, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sống lạc quan, gắn bó với nhau
trong tình đồng chí đồng đội.
- Nét riêng:
+ Người lính trong bài thơ đồng chí - thời kì chống Pháp, hầu hết xuất thân từ
nông dân, từ thân phận nô lệ, nghèo khổ mà đi vào kháng chiến với vô vàn gian
khổ, thiếu thốn. Cách mạng là sự giải thoát cho số phận đau khổ, tối tăm của họ.
Người lính trong bài thơ này được khai thác chủ yếu ở đ/s tâm tư tình cảm.
+ Người lính trong bài thơ về… - thời kì chống Mĩ, đi vào cuộc chiến đấu với ý
thức giác ngộ về lý tưởng độc lập, tự do gắn với chủ nghĩa xã hội, ý thức sâu sắc
về trách nhiệm của thế hệ mình. Họ sống sôi nổi trẻ trung, yêu đời lạc quan tự tin.
Hình ảnh họ thể hiện trong một thời điểm quyết liệt khẩn trương hơn. Đó là một
thế hệ anh hùng hiên ngang, mạnh mẽ.
7. Trong bom đạn chiến tranh hình ảnh những chiếc xe không kính làm nổi bật
hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất
tối thiểu không làm khuất phục được ý chí chiến đấu lại khiến người lính lái xe bộc
lộ được những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh tế lớn lao của họ đặc biệt là lòng
dũng cảm, vượt qua mọi khó khăn. Họ chính là chủ nhân của những chiếc xe
không kính nên khi miêu tả, tác giả đã khắc họa những ấn tượng sinh động khi
đang ngồi trên những chiếc xe không kính trong tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn
thẳng” qua khung cửa xe đã bị bom đạn làm mất kính. Những câu thơ tả thực tới
từng điểm diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh ra đường:


Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Những hình ảnh thực như gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, lại
cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Dù trải qua hiện thực

chiến tranh khốc liệt những người lính vẫn hướng về phía trước, xem thường mọi
hiểm nguy với tinh thần thể hiện cái hiên ngang, trẻ trung của tuổi trẻ.

Đề số 2:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
*Câu hỏi:
1.Hai câu đầu tác giả sử dụng nghệ thuật gì? Nêu tác dụng?
2.Qua hình ảnh chiếc xe trong khổ thơ, em hình dung như thế nào về hiện thực của
cuộc kháng chiến chống Mỹ?
3.biện pháp tu từ nào được sử dụng ở câu thơ cuối của khổ thơ? Nêu tác dụng của
biện pháp tu từ đó?
4. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương thức quy nạp nêu cảm nhận về khổ
thơ cuối bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính".
*Gợi ý
1. Trong hai câu thơ đầu, tg sử dụng nghệ thuật liệt kê, điệp ngữ không có: không
có kính, không có đèn, không có mui xe.
- Tác dụng:


+ gợi lên một chiếc xe không vẹn toàn, thiếu thốn đủ thứ. Những cái quan trọng
cần có lại không có, những cái không cần có lại có thừa.
+ Nhấn mạnh sự biến dạng, hư hỏng nặng nề của những chiếc xe do bom đạn kẻ
thù tàn phá. Càng đi sâu vào chiến trường, những chiếc xe càng bị hư hỏng: từ
không có kính trở thành không có đèn, không có mui xe và thùng xe có xước.+ Đặt
trong đoạn thơ, điệp ngữ không có còn tạo nên sự đối sánh đầy hiệu quả giữa cái
không có (kính, đèn, mui xe,...) và cái có (một trái tim), giữa sự thiếu thốn khó
khăn về điều kiện, phương tiện chiến đấu với tinh thần, ý chí của con người.

+ Bằng việc sử dụng nghệ thuật liệt kê, điệp ngữ, tác giả ca ngợi tư thế hiên ngang,
tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, lí tưởng sống cao đẹp và trái
tim yêu nước cháy bỏng của người lính Trường Sơn.
2. Phản ánh sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường, bom đạn có thể làm cho
những chiếc xe trở nên trần trụi biến dạng hoàn toàn. Người lính lái xe lại chất
chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần
nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về
phía trước.
3. câu cuối sử dụng biện pháp hoán dụ: Từ “trái tim” được dùng theo nghĩa
chuyển.
- Trái tim thay thế cho tất cả những thiếu thốn trên xe “không kính, không đèn,
không mui”, hợp nhất với tinh thần, ý chí của người lính lái xe không gì có thể
ngăn cản, tàn phá được.
- Xe được chạy bằng chính trái tim, xương máu của chiến sĩ, trái tim ấy là niềm
tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến thắng. Những chiếc xe càng thêm độc đáo vì
đó là những chiếc xe do ý chí, niềm tin sắt đá cầm lái.
Hình ảnh trái tim được hiểu theo nghĩa ẩn dụ và hoán dụ: trái tim tượng trưng
cho tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ cao
đẹp thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh, chất
ngang tàng, lòng dũng cảm cùng tinh thần lạc quan vào ngày thống nhất.
- Trái tim trở thành nhãn tự toàn bài thơ, hội tụ tất cả vẻ đẹp của tinh thần, ý chí
của người lính lái xe cũng như để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.


4. Khổ thơ cuối thể hiện ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh thể hiện ý chí kiên cường vì Tổ quốc, đó là sức
mạnh sâu sắc, phi thường của người lính để vượt lên tất cả, bất chấp mọi nguy nan,
mọi sự hủy diệt, tàn phá.
+ Biện pháp liệt kê, điệp ngữ được sử dụng nhằm nhấn mạnh sự ác liệt của

chiến tranh ngày càng tăng, và sự thiếu thốn, mất mát ngày càng lớn.
- Điều kì diệu và đặc biệt là không gì có thể cản trở, tàn phá được chuyển động
của chiếc xe vì “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”.
- Mọi thứ trên xe không còn nguyên vẹn nhưng vẫn nguyên vẹn trái tim, ý chí
của người lính. Đó chính là sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên mọi gian khổ
ác liệt mà còn là sức mạnh của tinh thần yêu nước.
- Đối lập với những cái “không có” ở trên là một cái “có”, sức mạnh từ trái tim
có thể chiến thắng bom đạn kẻ thù. Những chiếc xe chạy bằng sức mạnh của trái
tim.
- Trái tim là hình ảnh hoán dụ, kết tinh cho vẻ đẹp về tâm hồn và phẩm chất của
người lính lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp: vì miền Nam, vì sự
thống nhất đất nước.
Hình ảnh những người lính chiến đấu với lý tưởng độc lập tự do gắn với chủ
nghĩa xã hội, họ ý thức về trách nhiệm của thế hệ mình. Hình ảnh của họ đã thể
hiện thế hệ anh hùng, mạnh mẽ, hiên ngang.

Đề số 3:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng…”
(Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam)


*Câu hỏi
1. Em hãy cho biết bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào?
2. Nhan đề bài thơ có gì khác lạ và có ý nghĩa như thế nào?
3. Xác định biệp pháp tu từ điệp ngữ trong đoạn thơ và nêu tác dụng?
4. Từ bài thơ trên và những hiểu biết xã hội, em hãy trình bày suy nghĩ (khoảng 2/3
trang giấy thi) về vai trò của thế hệ trẻ ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc.
*Gợi ý
1. Bài thơ được sáng tác năm 1969, thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác
liệt. Khi đó, nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đang là một người lính chiến đấu trên
tuyến đường Trường Sơn.
2. - Điểm khác biệt: Nhan đề bài thơ khá dài, thêm chữ “bài thơ”tưởng như không
cần thiết.
- Ý nghĩa:
+ Làm nổi bật hình ảnh của toàn bài : những chiếc xe không kính
+Cho thấy rõ cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không chỉ viết về
hiện thực chiến tranh mà chủ yếu muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy , chất thơ
của tuổi trẻ, chất thơ trong tâm hồn người lính.
+ Góp phần làm sáng rõ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
3.
- Điệp ngữ “không” được lặp lại ba lần trong câu thơ đầu tiên.
Tác dụng: Nhấn mạnh hiện thực thiếu thốn, gian khổ của điều kiện, phương tiện
chiến đấu; nhấn mạnh nét ngang tàng, hồn nhiên qua giọng điệu tinh nghịch của
người lính trẻ.
- Điệp ngữ “bom” lặp lại hai lần trong câu thơ thứ hai.
Tác dụng: Nhấn mạnh hiện thực khốc liệt của tuyến đường Trường Sơn cũng như
những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


×