LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO
PHƯƠNG THỨC TDCT
1.1.Tổng quan về thanh toán quốc tế
1.1.1.Cơ sở hình thành hoạt đông thanh toán quốc tế.
Thật hiếm khi một quốc gia lại tự sản xuất mọi thứ mình cần, điều kiện tự
nhiên, địa lý, trình độ phát triển và các yếu tố khác của mỗi nước xác định
phạm vi và năng lực sản xuất của nước đó. Điều này nói lên rằng, các quốc gia
luôn phụ thuộc lẫn nhau về rất nhiều loại hàng hoá cần thiết cho sản xuất và
tiêu dùng.
Kết quả là, một nước sẽ nhập khẩu những hàng hoá với giá rẻ, đồng thời
xuất khẩu những hàng hoá có ưu thế về năng suất lao động, nhằm tận dụng
những lợi thế so sánh trong ngoại thương. Sự di chuyển hàng hoá giữa các
nước tạo nên hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia, từ đó hình thành
nên chuyên ngành: “Quan hệ kinh tế quốc tê” và “ Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại
thương”.
Hàng hoá xuất nhập khẩu được chuyên chở từ nước này sang nước khác
bằng các phương thức vận tải khác nhau, từ đó hình thành nên chuyên
ngành:”Vận tải hàng hoá trong ngoại thương”.
Việc chuyên chở hàng hoá từ nước này sang nước khác có thể gặp rủi ro
bất trắc trong quá trình chuyên chở, do đó có thể đảm bảo an toàn và tạo sự ổn
định trong kinh doanh cho các nhà xuất nhập khẩu, thì hàng hoá xuất nhập
khẩu phải được bảo hiểm, từ đó hình thành nên chuyên ngành: “ Bảo hiểm
hàng hoá trong ngoại thương”.
Thông thường, một thương vụ được kết thúc bằng việc bên mua thanh
toán, nhận hàng và bên bán giao hàng, nhận tiền theo các điều kiện quy định
trong hợp đồng mua bán. Và người mua và người bán không thanh toán trực
tiếp cho nhau, mà thông qua sự trợ giúp của ngân hàng, từ đó hình thành nên
chuyên ngành: “Kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế”.
Trong hoạt động ngoại thương, đối với nhà xuất khẩu từ khi nhận được
đơn đặt hàng cho đến khi nhận được tiền hàng xuất khẩu thường phải mất
một thời gian khá dài, do đó, ngoài nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng
như thông báo, mua bán ngoại tệ... nhà xuất khẩu còn có nhu cầu được tài trợ
cho hoạt động xuất khẩu trước và sau khi giao hàng. Tương tự, nhà nhập khẩu
sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương cũng có nhu cầu tài trợ, như tài trợ ký
quỹ mở L/C, tài trợ trên cơ sở thế chấp bộ chứng từ và hàng hoá nhập khẩu,
bảo lãnh hối phiếu nhờ thu... Từ đó hình thành nên chuyên ngành: “ Tài trợ
xuất nhập khẩu”.
Vì tiền tệ sử dụng trong hợp đồng mua bán quốc tế có thể là đồng tiền của
nước người mua, của nước người bán hoặc đồng tiền của nước thứ ba, từ đó
hình thành nên: “Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ”.
Hoạt động kinh tế đối ngoại nêu trên liên quan đến các bên ở các nước
có vị trí địa lý và tập quán khác nhau, nguồn luật điều chỉnh vừa mang tính địa
phương vừa mang tính quốc tế, do đó các tranh chấp cũng thường phát sinh,
từ đó hình thành nên chuyên ngành: “Luật kinh tế quốc tế”.
Vậy cơ sở hình thành hoạt động thanh toán quốc tế là hoạt động ngoại
thương. Ngày nay, nói đến hoạt động ngoại thương là nói đến thanh toán quốc
tế; và ngược lai, nói đến thanh toán quốc tế thì chủ yếu là nói đến ngoại
thương, nhưng hoạt động ngoại thương là hoạt động cơ sở, còn hoạt động
thanh toán quốc tế là hoạt động phái sinh. Vì hoạt động thanh toán quốc tế
được thực hiện qua hệ thống ngân hàng, cho nên khi nói đến hoạt động thanh
toán quốc tế là nói đến hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM, và không một
ngân hàng nào lại không muốn phát triển nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, trong
đó lấy hoạt động thanh toán quốc tế làm trọng tâm phát triển.
1.1.2. Khái niệm về thanh toán quốc tế.
Quan hệ quốc tế giữa các nước bao gồm nhiều lĩnh vực, như kinh tế, chính
trị, ngoại giao, văn hoá, khoa học kỹ thuật... trong đó quan hệ kinh tế (mà chủ
yếu là ngoại thương) chiếm vị trí chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế
khác tồn tại và phát triển. Qúa tiến hành các hoạt động quốc tế dẫn đến những
nhu cầu chi trả, thanh toán giữa các chủ thể ở các nước khác nhau, từ đó hình
thành và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, trong đó, ngân hàng là cầu
nối trung gian giữa các bên.
Từ đó, ta có khái niệm: Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ
chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế
và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước
khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các
ngân hàng của các nước liên quan.
Và trong các quy chế về thanh toán và thực tế tại các NHTM, người ta
thường phân hoạt động thanh toán quốc tế thành hai lĩnh vực rõ ràng là:
Thanh toán trong ngoại thương và Thanh toán phi ngoại thương.
+ Thanh toán quốc tế trong ngoại thương: là việc thực hiện thanh toán
trên cơ sở hàng hoá xuất nhập khẩu và các dịch vụ thương mại cung ứng cho
nước ngoài theo giá cả thị trường quốc tế. Cơ sở để các bên tiến hành mua bán
và thanh toán cho nhau là hợp đồng ngoại thương.
+ Thanh toán quốc tế phi ngoại thương: là việc thực hiện thanh toán
không liên quan đến hàng hoá xuất nhập khẩu cũng như cung ứng dịch vụ cho
nước ngoài, nghĩa là thanh toán cho các hoạt động không mang tính thương
mại như: chi phí của các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài, các chi phí đi lại ăn
ở của các đoàn khách nhà nước, tổ chức và cá nhân, các nguồn tiền quà biếu,
trợ cấp của cá nhân người nước ngoài cho cá nhân người trong nước, các
nguồn trợ cấp của một tổ chức từ thiện nước ngoài cho tổ chức, đoàn thể
trong nước...
1.2. Vai trò của thanh toán quốc tế
1.2.1. Đối với nền kinh tế.
Trước xu thế kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoá, các quốc gia
đang ra sức phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hợp tác và hội nhập; trong
bối cảnh đó, thanh toán quốc tế nổi lên như là chiếc cầu nối giữa kinh tế trong
nước với phần kinh tế thế giới bên ngoài, có tác dụng bôi trơn và thúc đẩy hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, đầu tư nước ngoài, thu hút kiều hối
và các quan hệ tài chính, tín dụng quốc tế khác. Hoạt động thanh toán quốc tế
ngày càng được khẳng định trong hoạt động kinh tế quốc dân nói chung và
hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, mỗi
quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại lên hàng đầu, coi hoạt động kinh
tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi
nước.
Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng
hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, các cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu
hoạt động thanh toán quốc tế được nhanh chóng, an toàn, chính xác sẽ giải
quyết được mối quan hệ lưu thông hàng hóa - tiền tệ giữa người mua và người
bán một cách trôi chảy và hiệu quả. Về giác độ kinh doanh, người mua thanh
toán, người bán giao hàng thể hiện chất lượng của một chu kỳ kinh doanh,
phản ánh hiệu quả kinh tế và tài chính trong hoạt động của các doanh nghiệp.
1.2.2. Ngân hàng thương mại với hoạt động thanh toán quốc tế
Trong thương mại quốc tế, không phải lúc nào các nhà xuất nhập khẩu
cũng có thể thanh toán tiền hàng trực tiếp cho nhau, mà thường phải thông
qua ngân hàng thương mại với mạng lưới chi nhánh và hệ thống ngân hàng
đại lý rộng khắp toàn cầu. Khi thay mặt khách hàng thực hiện dịch vụ thanh
toán quốc tế, các ngân hàng trở thành cầu nối trung gian thanh toán giữa hai
bên mua bán.
Với vai trò là trung gian thanh toán, các ngân hàng tiến hành thanh toán
theo yêu cầu của khách hàng, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trong giao dịch
thanh toán, tư vấn, hướng dẫn khách hàng những biện pháp kỹ thuật kỹ thuật
nghiệp vụ TTQT nhằm hạn chế rủi ro, tạo sự tin tưởng cho khách hàng trong
quan hệ giao dịch mua bán với nước ngoài. Mặt khác trong quá trình thực hiện
TTQT, khách hàng không đủ năng lực về vốn sẽ cần đến sự tài trợ của ngân
hàng, ngân hàng sẽ thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu cho khách hàng một cách
chủ động và tích cực.
Tóm lại trong dây truyền hoạt động kinh tế đối ngoại của quốc gia, hệ
thống ngân hàng tham gia và đóng vai trò trung tâm trong hầu hết các giai
đoạn như: Thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, bảo
lãnh ngân hàng trong ngoại thương... Thanh toán giữa các nước sẽ được thực
hiện thông qua ngân hang và vai trò của ngân hàng trong TTQT chính là chât
xúc tác, là cầu nối, là điều kiện để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho các bên
tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời tài trợ cho các doanh nghiệp
trong hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.
1.2.3.Thanh toán quốc tế- Hoạt động sinh lời của NHTM
Một thực tế là hầu hết các NHTM mới chỉ tập trung chủ yếu vào khâu làm
thế nào để mở rộng và hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế, mà chưa chú
trọng đến khâu phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động này.
Ngày nay, hoạt động thanh toán quốc tế là một dịch vụ trở nên quan trọng
đối với các NHTM, nó đem lại nguồn thu đáng kể không những về số lượng
tuyệt đối mà cả về tỷ trọng. Thanh toán quốc tế còn là một mắt xích quan trọng
trong việc chắp nối và thúc đẩy phát triển các hoạt động kinh doanh khác của
ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh ngân
hàng trong ngoại thương, tăng cường nguồn vốn huy động, đặc biệt là vốn
ngoại tệ...
Thông qua cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngân
hàng thu một khoản phí để bù đắp cho các chi phí của ngân hàng và tạo ra lợi
nhuận kinh doanh cần thiết. Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động TTQT có
vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng, nó không chỉ là một
dịch vụ thanh toán thuần tuý mà còn là khâu trung tâm không thể thiếu trong
dây truyền hoạt động kinh doanh, bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động kinh
doanh khác của ngân hàng.
1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu.
Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình điều kiện quy định
để người mua trả tiền và nhận hàng, còn người bán nhận tiền và giao hàng
trong thương mại quốc tế. Trên thực tế, có nhiều phương thức thanh toán khác
nhau nhưng các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay chủ yếu đang áp
dụng các phương thức thanh toán quốc tế như sau:
1.3.1.Phương thức ứng trước - Ađvanced Payment
*Khái niệm: Người mua chấp nhận giá hàng của người bán và chuyển tiền
thanh toán cùng với đơn đặt hàng chắc chắn (không huỷ ngang), nghía là việc
thanh toán xảy ra trước khi hàng hoá được người bán gửi đi.
* Ưu điểm đối với các bên:
Đối với nhà nhập khẩu:
+ Khả năng chắc chắn nhận được hàng hoá ngay cả khi nhà xuất khẩu vì
một lý do nào đó không còn muốn giao hàng.
+ Do thanh toán trước, nên người nhập khẩu có thể thương lượng với nhà
xuất khẩu để được giảm giá.
Đối với nhà xuất khẩu:
+ Do được thanh toán trước, nên nhà xuất khẩu tránh được rủi ro vỡ nợ
từ phía nhà nhập khẩu.
+ Tiết kiệm được chi phí quản lý và kiểm soát tín dụng.
+ Do nhậnh được tiền thanh toán trước, nên trạng thái tiền tệ của nhà
xuất khẩu được tăng cường.
* Rủi ro đối với các bên:
Đối với nhà nhập khẩu:
Uy tín và khả năng của người bán: sau khi nhận tiền, nhà xuất khẩu có
thể chủ tâm không giao hàng, giao hàng thiếu, không có khả năng giao hàng
như thoả thuận, hoặc thậm chí bị phá sản .
Đối với nhà xuất khẩu:
Sau khi đặt hàng, nhà nhập khẩu không thực hiện chuyển tiền trước,
trong khi đó hàng hoá đã được nhà xuất khẩu thu mua, nên nhà xuất khẩu có
thể phải chịu chi phí quản lý, chi phí lưu kho, tiền bảo hiểm, hoặc nếu như hàng
đã gửi đi, thì phải chở hàng quay trở về và phải tìm khách hàng mua khác rất
tốn kém hay phải giảm giá bán.
1.3.2.Phương thức ghi sổ - Open Account
*Khái niệm: Là phương thức thanh toán, trong đó nhà xuất khẩu sau khi
hoàn thành giao hàng thì ghi Nợ tài khoản cho bên nhập khẩu vào một cuốn sổ
theo dõi và việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện thông thường
theo định kỳ như đã thoả thuận
*Ưu điểm đối với các bên tham gia:
Đối với nhà nhập khẩu:
+ Chưa phải trả tiền cho đến khi nhận được tiền hàng hoá và chấp nhận
hàng hoá.
+ Giảm được áp lực tài chính do được thanh toán chậm
Đối với nhà xuất khẩu:
+ Là phương thức bán hàng đơn giản, dễ thực hiện, chi phí thấp, thường
được thực hiện giữa các đối tác không có sự hoài nghi về độ tín nhiệm và các
rủi ro trong thanh toán không phát sinh.
+ Do chi phí bán hàng thấp nên nhà xuất khẩu có thể giảm giá bán nhằm
tăng khả năng cạnh tranh, thu hút thêm đơn đặt hàng mới với số lượng lớn,
tăng được doanh thu và lợi nhuận.
+ Ưu điểm cho cả người mua và người bán là không có sự tham gia của
ngân hàng trong khâu xử lý bộ chứng từ, nên giảm được công việc giấy tờ, từ
đó giảm được phí giao dịch.
* Rủi ro đối với các bên tham gia:
Đối vời nhà nhập khẩu:
Nhà xuất khẩu có thể không giao hàng, hoặc giao hàng không đúng thời
gian, không đúng chủng loại và chất lượng.
Đối với nhà xuất khẩu:
Sau khi nhận hàng hóa, nhà nhập khẩu có thể không thanh toán, hoặc
không thể thanh toán hoặc chủ tâm trì hoãn kéo dài thời gian thanh toán. Về
lý thuyết, cho dù quyền sở hữu hàng hoá có thể được bảo lưu, nhưng thực tế
nhà xuất khẩu khó lòng ma kiểm soát được hàng hóa một khi đã chuyển cho
nhà nhập khẩu. Ngoài ra, nhà nhập khẩu có thể dàn dựng tranh chấp về chất
lượng hoặc khiếu nại về sự khiếm khuyết hay thiếu hụt hàng hoá như là những
nguyên cớ để yêu cầu giảm giá.
1.3.3.Phương thức chuyển tiền- Remittance
*Khái niệm
Chuyển tiền là phương thức thanh toán, trong đó khách hàng (người
chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định
cho một người khác (người hưởng lợi) theo một địa chỉ nhất định va trong
một thời gian nhất định.
*Có hai hình thức chuyển tiền là :
Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer -M/T): là hình thức chuyển tiền,
trong đó lệnh thanh toán (bank draft) của ngân hàng chuyển tiền được chuyển
bằng thư cho ngân hàng trả tiền.
Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer - T/T): là hình thức chuyển
tiền, trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong
nội dung một bức điện gửi cho ngân hàng trả tiền bằng fax, telex hay mạng
swift.
Có thể nói trong thanh toán chuyển tiền, việc có trả tiền hay không phụ
thuộc vào thiện chí của người mua. Người mua sau khi nhận hàng có thể
không tiến hành chuyển tiền, hoặc cố tình dây dưa, kéo dài thời hạn chuyển
tìên nhằm chiếm dụng vốn của người bán, do đó, làm cho quyền lợi của người
bán không được đảm bảo. Chính vì nhược điểm này mà trong ngoại thương
chuyển tiền thường chỉ áp dụng trong các trường hợp các bên mua bán có uy
tín và tin cậy lẫn nhau.
1.3.4.Phương thức nhờ thu - Payment Collection
* Khái niệm:
Nhờ thu là phương thức thanh toán, trong đó, bên bán (nhà xuất khẩu)
sau khi giao hàng hay cung ứng dịch vụ, uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình
xuất trình bộ chứng từ thông qua Ngân hàng thu hộ cho bên mua (nhà nhập
khẩu) để được thanh toán, chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện
và điều khoản khác.
Trong phương thức này, các ngân hàng tham gia vào quá trình thanh
toán sâu rộng và toàn diện hơn các phương thức trên, mức độ tham gia của
ngân hàng vào quá trình nhờ thu phụ thuộc hoàn toàn vào nội dung các chỉ thị
và những gì mà người bán uỷ quyền cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ.
*Ưu điểm của nhờ thu:
Đối với người bán: là ngân hàng phục vụ mình tham gia với vai trò là
ngân hàng đại lý cho mình. Hơn nữa, ngân hàng phục vụ người bán có thể
chọn ngân hàng ở nước người mua làm ngân hàng đại lý thu hộ tiền từ người
mua. Điều này hàm ý, người bán có được các đại lý uy tín và được thừa nhận là
các ngân hàng, ngay cả tại nước người mua. Hơn nữa, toàn bộ quy trình nhờ
thu được xử lý theo một quy tắc và tập quán thực hành ngân hàng quốc tế
thống nhất (URC), trong đó, các ngân hàng tham gia với vai trò trung gian.
Chính vì thế mà người bán có được vị thế và điều kiện tốt hơn trong việc xử lý
các tình huống khi mà người mua không thanh toán hoặc không chấp nhận
thanh toán.
Đối với người mua: nếu không tính đến các điều kiện thanh toán đặc biệt
khác (D/OT), thì thông thường việc trả tiền chỉ xảy ra sau khi hàng hoá đã tới
đích nước người mua, hơn nữa, việc nhận hàng thường diễn ra không muộn
hơn thời điểm phải trả tiền.
Cho dù ngân hàng tham gia quá trình nhờ thu, nhưng nếu không có sự
đồng ý rõ ràng, thì trong tất cả các loại nhờ thu, NH không có bất kỳ bảo lãnh
thanh toán nào cho người mua và bảo lãnh thực hiện hợp đồng nào cho người
bán, sự tham gia của NH nhằm trợ giúp cho thương mại quốc tế có được một
trật tự cần thiết và giúp cho nhờ thu trở thành phương thức thanh toán hiệu
quả hơn so với trường hợp không có NH tham gia.
1.3.5.Phương thức tín dụng chứng từ
Trong phương thức ứng trước và ghi sổ, ngân hàng đơn thuần chỉ thực
hiện chức năng chuyển tiền trên danh nghĩa người mua và nhận tiền trên danh
nghĩa người bán. Trong nhờ thu, các ngân hàng tham gia xử lý chứng từ do
người bán gửi đến và hành động với vai trò là đại lý của người bán. Ngoại trừ
vai trò là đại lý và chức năng giám sát, trong cả ba phương thức thanh toán
nêu trên, các ngân hàng không có bất kỳ cam kết, trách nhiệm hay nghĩa vụ
nào. Tuy nhiên, trong phương thức tín dụng chứng từ, các ngân hàng đã tham
gia chủ động và tích cực hơn nhiều, theo đó các ngân hàng thực hiện trả tiền
theo cam kết của mình.Và sau đây chuyên đề sẽ làm rõ về phương thức TDCT.
1.4. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C)
1.4.1.Khái niệm về thư tín dụng
Một cách khái quát, Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả
thuận, trong đó, theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở L/C), một
ngân hàng (ngân hàng phát hành L/C) sẽ phát hành một bức thư, gọi là L/C
(Letter of Credit), theo đó, NHPH cam kết trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu
cho một bên thứ ba (người thụ hưởng L/C) khi người này xuât trình cho
NHPH bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những điều kiện và điều khoản quy
định của L/C.
Bằng ngôn ngữ luật, định nghĩa về Tín dụng chứng từ được nêu tai Điều 2,
UCP 600, như sau: “Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận bất kỳ, cho dù
được mô tả hoặc gọi tên như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và
không huỷ ngang của NHPH về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
1.4.2.Đặc điểm của thư tín dụng L/C
1.4.2.1. L/C là hợp đồng kinh tế hai bên
Thực tế, L/C là hợp đồng kinh tế độc lập chỉ của hai bên là NHPH và
người thụ hưởng, mọi yêu cầu và chỉ thị của người xin mở L/C đã do NHPH đại
diện, do đó, tiếng nói chính thức của người xin mở L/C không được thể hiện
trong L/C. Và bất kỳ một sự sửa đổi L/C đã được người XK và người NK đồng
ý, nhưng nếu NHPH không chấp nhận thì sửa đổi đó sẽ không bao giờ trở nên
có giá trị.
1.4.2.2.L/C độc lập với hợp đồng cơ sở và hàng hóa
L/C có tính chất rất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở của hợp đồng
ngoại thương, nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp
đồng này. Một khi L/C đã được mở và đã được các bên chấp nhận, thì cho dù
nội dung của L/C có đúng với hợp đồng ngoại thương hay không, cũng không
làm thay đổi quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan đến L/C.
1.4.2.3.L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ
Các ngân hàng, chỉ trên cơ sở chứng từ, kiểm tra việc xuất trình để quyết
định xem trên bề mặt của chứng từ có tạo thành một xuất trình phù hợp hay
không. Việc nhà xuất khẩu có thu được tiền hay không, phụ thuộc duy nhất vào
xuất trình chứng từ có phù hợp; đồng thời, ngân hàng cũng chi trả tiền khi bộ
chứng từ xuất trình phù hợp, nghĩa là ngân hàng không chịu trách nhiệm về sự
thật của hàng hoá mà bất kỳ chứng từ nào đại diện.
Khi chứng từ xuất trình là phù hợp, thì NHPH phải thanh toán vô điều
kiện cho nhà xuất khẩu, mặc dù trên thực tế hàng hoá có thể không được giao
hoặc được giao không hoàn toàn đúng như ghi trên chứng từ. Như vậy, việc
thanh toán L/C không hề căn cứ vào tình hình thực tế của hàng hoá, nếu hàng
hoá không khớp với chứng từ, thì hai bên mua bán trực tiếp giải quyết với
nhau trên cơ sở hợp đồng mua bán, không liên quan đến ngân hàng.
1.4.2.4.L/C yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của bộ chứng từ
Vì giao dịch chỉ bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ, nên
yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của chứng từ là nguyên tắc cơ bản của giao dịch
L/C. Để được thanh toán, người xuất khẩu phải lập được bộ chứng từ phù hợp,
tuân thủ chặt chẽ các điều khoản và điều kiện của L/C, bao gồm số loại, số
lượng mỗi loại và nội dung chứng từ phải đáp ứng được chức năng của chứng
từ yêu cầu.
1.4.3.Phân loại L/C cơ bản.
* L/C có thể huỷ ngang (Revocable L/C):
Là loại L/C mà người mở có quyền đề nghị NHPH sửa đổi, bổ sung, hoặc
huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần có sự chấp thuận và thông báo trước của
người thụ hưởng.
Tuy nhiên, khi hàng hóa đã được giao, ngân hàng mới thông báo lệnh huỷ
bỏ hoặc sửa đổi bổ sung thì lệnh này không có giá trị: nghĩa là khi đó NHPH
L/C vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán như đã cam kết, coi như không có
việc huỷ bỏ xảy ra.
Vì tình trạng thanh toán bấp bênh, đặc biệt là quyền lợi người xuất khẩu
không được đảm bảo, do đó, loại L/C này hầu như không được sử dụng trong
thực tế mà chỉ tồn tại trên lý thuyết.
* L/C không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C):