GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI KHÁCH HÀNG TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NHÀ HÀ NỘI
3.1. Định hướng đối với vấn đề huy động tiền gửi khách hàng tại NH trong thời
gian tới
3.1.1. Nhiệm vụ các NH cần thực hiện trong thời gian tới
Hội nghị triển khai nhiệm vụ NH năm 2009 được tổ chức vào ngày 30/12/2008,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ rõ những nhiệm vụ trọng tâm của ngành trong năm
2009 là:
- Hệ thống NH, chính sách tiền tệ đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất
nước. Ngành NH cần phải tham mưu đưa ra chính sách thích hợp để chống suy giảm
kinh tế, kích cầu đầu tư. Điều này thực sự quan trọng trong bối cảnh NH hiện vẫn là
một kênh dẫn vốn chủ yếu của nền kinh tế. Đồng thời bên cạnh việc dự báo, phân tích,
đánh giá, nắm chắc tình hình để chủ động điều hành tham mưu thực hiện các mục tiêu
đề ra, các NH cần phải huy động tổng hợp sức mạnh toàn ngành để thực hiện có hiệu
quả, đoàn kết chung sức vì mục tiêu chung.
- Điều hành lãi suất, tỷ giá linh hoạt hiệu quả để góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô,
đảm bảo an toàn hệ thống, đảm bảo khả năng thanh khoản của hệ thống NH nhưng
đồng thời cũng phải đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế.
- Phát huy những kết quả đạt được, lành mạnh hơn nữa hệ thống NH cả về năng lực tài
chính, nâng cao chất lượng tín dụng, đổi mới hiện đại hóa công nghệ, đào tạo nguồn
nhân lực và nâng cao năng lực quản trị điều hành. Đặc biệt các NH cần có sự quan tâm
đúng mức và không được chủ quan đối với vấn đề nợ xấu sẽ có chiều hướng gia tăng
trong thời gian tới.
- Hoàn thiện hệ thống thể chế về tiền tệ và NH, tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát
đảm bảo hoạt động của hệ thống NH an toàn, hiệu quả, linh hoạt hơn, đáp ứng nhu cầu
của nền kinh tế. Đồng thời, tăng cường năng lực quản lí của NHNN và đắp ứng yêu cầu
đổi mới hoạt động NH trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Cánh cửa hội nhập đã thực sự được mở, đó là xu hướng tất yếu của nền kinh tế, là điều
kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới
thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn cùng với công nghệ tiên tiến. Giai đoạn từ
nay đến năm 2010, Việt Nam tiếp tục mở cửa dịch vụ NH, thực hiện các cam kết chung
trong hiệp định thương mại Việt - Mỹ, hiệp định chung về thương mại dịch vụ của
WTO theo hướng thực hiện các hiệp định song phương đã ký kết với các nước thành
viên WTO. Như vậy, hệ thống NH phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện môi trường pháp
lý phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tiến tới xóa bỏ hàng rào ngăn cách tài
chính giữa Việt Nam và Mỹ thông qua những bước đi cụ thể.
3.1.2. Mục tiêu phương hướng chung của NH TMCP Nhà Hà Nội
Định hướng chiến lược chung xuyên suốt trong những năm qua của NH TMCP
Nhà Hà Nội là phát triển thành NH đa năng, tập trung phát triển hoạt động NH bán lẻ.
Đồng thời, HABUBANK cũng luôn hướng tới mục tiêu trở thành một trong ba NH
được tín nhiệm nhất Việt Nam về quản lý, môi trường làm việc, văn hóa doanh nghiệp
chú trọng khách hàng, thúc đẩy, hợp tác sáng tạo và linh hoạt khi môi trường kinh
doanh thay đổi nhằm duy trì sự hài lòng và gắn bó của khách hàng đối với
HABUBANK. Để thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài trên, HABUBANK đã xác định
cho mình đinh hướng phát triển trong năm 2009 như sau:
- Xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược quản trị theo thông lệ quốc tế, rút kinh
nghiệm từ cuối năm 2008 và đầu năm 2009 để trước mắt giữ an toàn hoạt động, sau đó
là để phát triển vững mạnh.
- Tiếp tục cơ cấu lại và thực hiện các biện pháp tăng vốn điều lệ theo quy định của chính
phủ, tiến dần đến việc trở thành NH ngang tầm khu vực.
- Chủ động tiếp cận các thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực quản trị rủi rủ, song song
với việc khẩn trương hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động kiểm soát, kiểm
toán nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
- Tiếp tục phát triển sản phẩm dịch vụ NH mới , hiện đại hóa công nghệ NH và phát triển
nguồn nhân lực. Đây sẽ là cơ sở để HABUBANK tiếp tụ chiến khai các bước chiến
lược đã được hoạch định.
Trong thời gian tới, HABUBANK tiếp tục tập trung thực hiện các chương trình
lớn và các giải pháp chủ yếu sau:
- Dịch vụ NH đồng bộ phục vụ các doanh nghiệp tập trung tại Hội sở và chi nhánh HCM:
hoàn thiện cơ cấu hệ thống NH bán buôn tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh với trọng
tâm cung cấp các sản phẩm dịch vụ NH cho các đối tượng doanh nghiệp có quy mô lớn,
các tổ chức tài chính, tiền tệ hoạt động trên thị trường tiền tệ liên NH và trên thị trường
vốn dài hạn.
- Quản trị tập trung và tối ưu hóa nguồn vốn, kết hợp với việc đẩy mạnh hoạt động trên
thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế tập trung tại Hội sở.
- Cấu trúc NH bán lẻ tại chi nhánh và phòng giao dịch tập trung tại các khu đô thị lớn: Tổ
chức hệ thống NH bán lẻ tại một số đô thị lớn với trọng tâm cung cấp các sản phẩm huy
động và sử dụng vốn, dịch vụ NH cho các đối tượng dân cư, kinh tế các thể và các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tin học hóa các quy trình kinh doanh và quản lý NH.
- Củng cố và mở rộng mạng lưới chi nhánh và các phòng giao dịch tại Hà Nội, Hồ Chí
Minh. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đảm bảo cả về chất và lượng đáp ứng nhu
cầu nhân sự của hệ thống HABUBANK mở rộng trong các năm tới.
Trên cơ sở phân tích, dự báo tình hình thị trường cũng như hoạt động của ngành
NH trong năm 2009, HABUBANK đã đưa ra một số chỉ tiêu kế hoạch:
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kế hoạch trong năm 2009
Chỉ tiêu Tăng trưởng
Tổng tài sản 30 – 40 %
Vốn điều lệ 50 – 70%
Tổng vốn huy động 10 – 20%
Tổng dư nợ 10 – 15%
Tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn/Tổng dư nợ 10 – 15%
Tỷ lệ nợ quá hạn < 2%
Nguồn: Báo cáo thường niên HABUBANK 2008
Bước sang năm 2009 với rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
quốc tế với các biến động bất thường của thị trường trong nước và quốc tế, với trải
nghiệm của 20 năm hoạt động, HABUBANK đang dần từng bước xây dựng hệ thống
của mình vững mạnh trở thành chỗ dựa tin cậy của khách hàng, là người bạn đồng hành
cùng doanh nghiệp, là kênh dẫn nhập vốn hàng đầu nhằm phục vụ quá trình chuyển
dịch cơ cấu vốn theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
3.1.3. Định hướng cho hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của NH TMCP Nhà
Hà Nội
Với nền kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng của tình hình kinh tế trên thế giới
có nhiều biến động trong một vài năm qua làm cho hoạt động thu hút vốn đầu tư nước
ngoài đang gặp khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu chững lại, thì việc tăng
cường khai thác nguồn nội lực từ bên trong là một giải pháp hết sức cần thiết và cấp
bách, để tiếp tục giữ vững được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã đạt được trong nhiều
năm qua.
Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển hoạt động, trong những năm tới NH
đặc biệt quan tâm đẩy mạnh công tác nguồn vốn: cố gắng duy trì và tăng trưởng nguồn
vốn hiện có, chủ động nghiên cứu thị trường để có phương án mới hợp lý hơn, đặc biệt
là trong công tác huy động tiền gửi dân cư. “Tạo vốn thông qua các nghiệp vụ thanh
toán” là hình thức huy động vốn hiệu quả nhất, bởi không chỉ có chi phí trả lãi thấp mà
còn mang lại nguồn thu dịch vụ đáng kể cho NH.
Đồng thời, thực hiện xây dựng chiến lược huy động vốn phải luôn đi đôi với
chiến lược sử dụng vốn, nếu không sẽ gây áp lực lớn về chi phí và làm giảm hiệu quả
hoạt động huy động vốn. Do vậy, NH cần bám sát định hướng chiến lược hoạt động của
ngành, tích cực mở rộng các hình thức huy động vốn và đầu tư tín dụng nhằm nâng cao
hệ số sử dụng vốn. Cố gắng tạo mối quan hệ huy động - sử dụng vốn chặt chẽ đối với
các thành phần kinh tế, các ngành nghề trọng điểm được Nhà nước chú trọng phát triển
cũng như không ngừng củng cố các đơn vị khách hàng truyền thống của NH.
3.2. Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi khách hàng tại NH TMCP Nhà Hà
Nội
Theo yêu cầu của hội nhập, Việt Nam sẽ phải nới lỏng quyền tiếp cận thị trường
và hạn chế về hoạt động cho các NH nước ngoài. Như vậy đến năm 2010, các NH nước
ngoài được bỏ dần các ràng buộc trong khi họ mạnh về cả vốn lẫn khoa học kĩ thuật
công nghệ, mạnh cả về kinh nghiệm. Điều này khiến cho hoạt động huy động tiền gửi
đã khó khăn càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Do đó, các NHTM đều phải tìm
cách tăng cường huy động tiền gửi để đáp ứng nhu cầu vốn vay, mở rộng triển khai các
dịch vụ mới, áp dụng công nghệ NH nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng, tăng
sức cạnh tranh khi đất nước mở cửa sâu rộng thị trường tài chính – ngân hàng. Trước
tình hình đó, NH TMCP Nhà Hà Nội phải có các biện pháp cụ thể, hiệu quả nhằm tăng
cường khả năng huy động tiền gửi như:
3.2.1. Đa dạng hóa các hình thức huy động
Đây có thể coi là giải pháp trung tâm trong ngắn hạn để tăng cường huy động tiền
gửi. Thật vậy, đối với hoạt động NH, đa dạng hoá là một trong những biện pháp tăng
cường hiệu quả hoạt động và phân tán rủi ro. Đối với hoạt động huy động tiền gửi của
NH, việc đa dạng hoá hình thức huy động tiền gửi sẽ giúp NH tăng cường hiệu quả huy
động vì mỗi công cụ tiền gửi mà NH đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho
chúng phù hợp hơn với nhu cầu của các tổ chức kinh tế và dân cư trong việc tiết kiệm
và thanh toán, tăng khả năng lựa chọn của khách hàng, qua đó NH có thể tăng nguồn
tiền gửi huy động.
Để có thể huy động được nguồn tiền có chất lượng cao và có thể đạt được tốc độ
tăng trưởng cao, bên cạnh việc cải tiến các hình thức huy động cũ, NH nên xem xét đưa
ra những sản phẩm mới phù hợp hơn với khách hàng trên địa bàn để vừa có thể tăng
nguồn tiền gửi huy động vừa cải thiện được cơ cấu nguồn bất hợp lý hiện nay như:
- NH có thể xem xét đưa ra hình thức nhận tiền gửi bằng vàng để huy động vốn. Biện
pháp này có thể sẽ rất hiệu quả vì thói quen của đa số người Việt Nam là thường giữ thu
nhập dư thừa bằng vàng vì họ cho rằng vàng không bị mất giá và đây là hình thức tiết
kiệm an toàn nhất. Hiện nay, lượng vàng do dân chúng nắm giữ là rất lớn. Đây là nguồn
vốn lớn nhưng chưa được các NH khai thác nhiều. Người dân mua vàng chỉ để tích trữ
và khi có nhu cầu tiêu dùng họ sẽ bán. Do đó NH có thể đưa ra một sản phẩm mới vừa
đáp ứng nhu cầu vốn của NH, vừa đem lại lợi ích cho dân chúng qua đó thu hút được
lượng vốn nhàn rỗi cho sản xuất: NH có thể nhận tiền gửi bằng vàng và trả gốc bằng
vàng khi hết hạn. Hình thức tiết kiệm sẽ này giúp người dân an tâm hơn, không sợ tiền
bị mất giá đồng thời cũng tăng đáng kể nguồn tiền gửi huy động được của NH.
- Chứng khoán hoá các khoản tiền gửi: điều này sẽ cho phép khách hàng có thể chuyển
nhượng chúng. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp NH có thể nâng cao tỷ trọng nguồn
vốn trung, dài hạn. Với hình thức này, NH có thể phát hành các thẻ tiết kiệm vô danh có
thời hạn từ 1 - 5 năm với lãi suất luỹ tiến theo thời hạn gửi tiền. NH không phát hành
đồng loạt như phát hành giấy tờ có giá mà sẽ phát hành thẻ khi khách hàng có nhu cầu
gửi tiền vào NH. Công cụ này sẽ đem lại thuận lợi cho cả khách hàng và NH. Cụ thể,
đối với khách hàng: Hình thức này khắc phục các nhược điểm của các khoản tiền gửi
thông thường là có thể chuyển nhượng được. Khi đến hạn không cần đích thân người
gửi tiền đến nhận mà có thể nhờ người khác lĩnh tiền hộ; đối với NH: NH vẫn có thể
quản lý như một khoản tiền gửi thông thường đồng thời có thể thu hút được tiền gửi có
kỳ hạn dài hơn...
- NH cũng có thể xem xét đưa ra hình thức gửi tiền một lần và được rút một phần trước
hạn mà không phải rút toàn bộ số tiền đã gửi. Phần rút trước hạn sẽ được tính theo lãi
suất không kỳ hạn, phần còn lại vẫn được tính theo lãi suất bình thường. Hình thức này
rất có lợi thế vì hiện nay nếu muốn rút trước hạn khách hàng phải rút toàn bộ số tiền đã
gửi và tính lãi không kỳ hạn khiến người gửi tiền chia nhỏ số tiền muốn gửi ra làm
nhiều kỳ hạn để đề phòng phải rút trước hạn một phần. Điều này gây khó khăn cho cả
khách hàng và NH: tốn kém thủ tục, giấy tờ, lãi suất không cao, NH không huy động
được khối lượng vốn lớn nhất... Vì thế, với phương thức huy động tiền gửi này, NH sẽ
tăng thêm được lượng tiền gửi có kỳ hạn dài hơn.
- Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ , mà NH phải đa dạng về kỳ hạn huy động, loại
tiền sử dụng nữa . Đó là khả năng huy động tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau trong đó có
cả nội tệ , ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao cho người gửi tiền chấp nhận
được và cảm thấy hợp lý. Chẳng hạn như đa dạng hoá các kỳ hạn gửi tiền tiết kiệm: Bên
cạnh các kỳ hạn đang áp dụng(TGTK có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng),
ngân hàng cần mở thêm các thời hạn gửi tiền như: 2 năm, 3 năm... và thậm chí dài hơn.
Việc áp dụng những hình thức tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với thời hạn khác nhau sẽ
làm tăng nguồn vốn trung và dài hạn, tạo điều kiện đa dạng hóa cách thức sử dụng vốn
tại ngân hàng. Với loại tiết kiệm có kỳ hạn này có thể dung hoà được lợi ích hai bên:
ngân hàng và người gửi tiền. Cá nhân và các tổ chức ký gửi tại ngân hàng chủ động khi
sử dụng vốn đột xuất, đồng thời ngân hàng tạo được nguồn vốn ổn định.
- Ngoài ra, NH cần nghiên cứu đưa ra các hình thức trả lãi linh hoạt, đa dạng, phục vụ tối
đa nhu cầu khách hàng. Các hình thức trả lãi có thể bao gồm:
+ Loại gửi một lần, rút một lần (lãi suất trả cao nhất)
+ Loại gửi một lần lấy lãi nhiều kỳ, giữ nguyên vốn (nên cho lấy lãi hàng tháng) hoặc lấy
lãi 6 tháng một lần đối với kỳ hạn dài từ 2 năm trở lên.
+ Loại gửi một lần nhưng rút một phần trước hạn cần ưu đãi khách hàng theo cách tính lãi
kỳ hạn tương đương.
+ Loại gửi tiền nhiều lần góp thành số tiền lớn trong thời gian dài mới rút ra một lần cần
ưu đãi khách hàng bằng lãi suất của loại tiền gửi thời hạn dài, khi rút ra có thể tính lãi
theo phương pháp số dư bình quân. Hình thức này phù hợp với công nhân viên chức,
những người có thu nhập đều đặn...
+ Hình thức tính lãi suất luỹ tiến theo số lượng gửi tiền. Với cùng một kỳ hạn, ngân hàng
có thể trả lãi suất lớn hơn một chút đối với những người gửi khoản tiền lớn và có sự ưu
đãi về lãi suất luỹ tiến theo mức tăng của tiền gửi. Hình thức này rất có lợi thế vì hiện
nay hầu hết các NH chỉ áp dụng lãi suất luỹ tiến cho khách hàng gửi tiền có kỳ hạn dài.
Điều này sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với số lượng lớn hơn.
3.2.2. Đa dạng hoá khách hàng
Bên cạnh việc đa dạng hoá hình thức huy động tiền gửi, NH cũng cần mở rộng
và đa dạng hoá khách hàng. Đa dạng hoá khách hàng sẽ giúp NH có thể giảm rủi ro
đồng thời giúp NH có cơ cấu vốn hợp lý. Vì mỗi một nhóm khách hàng có một số đặc
điểm chung về nguồn vốn, do đó khi có những biến động nhóm khách hàng này sẽ có
phản ứng như nhau. Việc duy trì một tỷ trọng quá cao nguồn vốn vào một nhóm khách
hàng sẽ dẫn đến rủi ro đồng thời cũng khiến cơ cấu nguồn vốn NH kém linh hoạt và bất
hợp lý.
Biện pháp này sẽ giúp cho NH ít bị phụ thuộc vào những khách hàng lớn đồng
thời giúp cho NH có thể chủ động đề ra mức lãi suất, các chi phí đầu vào từ đó cũng
chủ động được lãi suất đầu ra. Đặc biệt, với cơ chế lãi suất theo tín hiệu thị trường như
hiện nay càng đòi hỏi sự năng động, linh hoạt của NH trong quá trình tìm kiếm nguồn
vốn để cho vay.
- Đối với khách hàng là tổ chức kinh tế: Trong những năm qua, tỷ trọng tiền gửi của tổ
chức kinh tế trong tổng nguồn tiền gửi của NH chưa cao. Đây là nguồn vốn có chi phí
thấp giúp NH có thể cắt giảm chi phí huy động, đồng thời cũng liên quan đến các dịch
vụ mà NH cung cấp nên trong thời gian tới NH nên tăng tỷ trọng của nguồn vốn này và
cần áp dụng các biện pháp:
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đảm bảo thanh toán nhanh, rút ngắn thời gian
giao dịch, tạo lòng tin cho khách hàng, nâng cao uy tín của NH.
+ Cải tiến phong cách giao dịch để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn để có thể giữ
vững những khách hàng hiện có và thu hút thêm khách hàng mới...
- Đối với khách hàng là cá nhân, hộ sản xuất: Đây là khu vực giàu tiềm năng nhất đối với
các ngân hàng thương mại, đồng thời cũng là khu vực có tính cạnh tranh gay gắt nhất.
Nguồn tiền gửi huy động từ dân cư có một ưu điểm rất lớn là ổn định, ngân hàng biết
trước được khoảng thời gian được dùng. Không chỉ Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội mà
các ngân hàng khác trong định hướng hoạt động kinh doanh của mình đều đặt ra mục
tiêu huy động được nhiều vốn ở khu vực này. Nhưng việc huy động tiền gửi từ dân cư
gặp rất nhiều khó khăn mặc dù khách hàng chủ yếu của NH là cá nhân và hộ sản xuất.
Để có thể huy động được tối đa nguồn vốn này trong dân, NH cần sử dụng các biện
pháp sau:
+ NH cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động trực tiếp trên địa bàn hoặc gián tiếp
qua các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Đơn giản hoá các thủ tục giao dịch giúp cho người dân dễ dàng thực hiện giao dịch với
NH, rút ngắn thời gian giao dịch.
3.2.3. Nâng cao chất lượng dịch vụ
Bước vào giai đoạn hội nhập, mức độ cạnh tranh giữa các Ngân hàng tại Việt
Nam ngày càng gay gắt với việc Việt Nam mở cửa hơn nữa trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng, tạo điều kiện cho sự xâm nhập sâu rộng của các NH nước ngoài với tiềm lực
mạnh cả về tài chính, công nghệ lẫn kinh nghiệm. Về phía khách hàng, họ đến ngân
hàng không chỉ đơn thuần cần một chỗ để cất giữ giá trị và kiếm lời. Họ mong muốn
một chất lượng dịch vụ cao. Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp NH cạnh trạnh phi lãi
suất vì khách hàng mà NH phục vụ, không chỉ quan tâm đến lãi suất mà quan tâm đến chất
lượng và loại hình dịch vụ mà NH cung ứng. Do đó, NH nào cải tiến chất lượng dịch vụ tốt
hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn. Chất lượng dịch
vụ là sự tổng hợp của các yếu tố:
- Quy trình nhanh gọn.
- Công nghệ hiện đại.
- Nhân viên chuyên nghiệp.
Cải thiện một bước đáng kể chất lượng dịch vụ NH thông qua cải tiến quy
trình nghiệp vụ: hướng tới đơn giản hóa các thủ tục trong hoạt động nghiệp vụ nhằm
giúp cho việc thanh toán nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn, đầy
đủ, tiết kiệm thời gian cho cả khách hàng lẫn NH. Hiện nay, nếu một người gửi tiền
vàoNH thông thường phải mất từ 10- 20 phút trong một lần gửi hoặc rút. Đối với quá
trình cho vay thủ tục còn kéo dài trong nhiều ngày. Điều này sẽ làm giảm đáng kể lượng
khách hàng đến với NH vì sợ thủ tục phức tạp, mất thời gian. Mặc dù các thủ tục này
củaNH đều thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nhưng NH cũng cần phải
nghiên cứu biện pháp nhằm rút ngắn thời gian trong quá trình nhận tiền gửi hoặc cho
vay của mình: chẳng hạn như trang bị máy vi tính cho các quỹ tiết kiệm, nối mạng giữa
các máy ở các phòng trong NH, nối mạng giữa các máy của phòng kế toán với máy của